Tín ngưỡng dân gian chúng ta khác tôn giáo lớn thế nào?
Các tôn giáo lớn thường là những hệ thống niềm tin có quy mô rộng, được nhiều người theo, có giáo lý, tổ chức chặt chẽ và ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền văn hóa, chính trị. Một số tôn giáo lớn trên thế giới gồm:
Kito giáo (Công giáo, Chính thống giáo, Tin Lành), Hồi giáo (Sunni, Shia), Ấn Độ giáo, Phật giáo (Đại thừa, Tiểu thừa, Kim cương thừa), Do Thái giáo
Tín ngưỡng dân gian là gì?
Tín ngưỡng dân gian là những niềm tin, thực hành thờ cúng và nghi lễ có tính chất bản địa, không có hệ thống giáo lý chặt chẽ, mà thường truyền miệng qua nhiều thế hệ. Các tín ngưỡng này thường gắn liền với thần linh địa phương, thờ cúng tổ tiên, thờ các vị thần tự nhiên (sông, núi, mặt trời, đất đai). Một số ví dụ:
- Tín ngưỡng dân gian Trung Hoa (thờ Ngọc Hoàng, Thổ Địa, Mẫu Thượng Ngàn…)
- Shinto ở Nhật Bản (dù sau này được hệ thống hóa)
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam
1. Sự khác biệt về tổ chức
Tôn giáo lớn thường có hệ thống tổ chức rõ ràng, có giáo hội hoặc tầng lớp tu sĩ chuyên biệt (ví dụ: Giáo hoàng và các giám mục trong Thiên Chúa giáo, giáo sĩ Hồi giáo, tăng đoàn Phật giáo).
Có kinh sách và giáo lý cụ thể. Ví dụ, Kito giáo có Kinh Thánh, Hồi giáo có Kinh Koran, Phật giáo có Tam Tạng Kinh. Giáo lý thường đưa ra những quy tắc đạo đức, luật lệ và quan điểm về vũ trụ, con người. Vì vậy các tôn giáo sẽ có hệ thống thần linh rõ ràng và mang tính độc thần hoặc đa thần có trật tự. Ví dụ như Kito giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Hay Ấn Độ giáo thì tin vào nhiều thần, nhưng Brahman (phạm thiên) là tối cao. Hoặc Phật giáo không thờ thần theo nghĩa truyền thống mà nhấn mạnh vào giải thoát qua tu tập. Tôn giáo lớn thường nhấn mạnh vào giải thoát, cứu rỗi hoặc đạt đến cảnh giới cao hơn (ví dụ: thiên đàng trong Thiên Chúa giáo, Niết Bàn trong Phật giáo, Jannah trong Hồi giáo). Mặc dù theo thời gian, các giáo lý và quan niệm về thế giới, thần học của tôn giáo cũng sẽ có thay đổi, nhưng cơ bản thì mức độ ổn định và trật tự của hệ thống thần học vẫn cao hơn, rõ ràng hơn. Vì tôn giáo luôn có những vị tu sĩ quan tâm tới các vấn đề triết học và thần học, họ thường suy nghĩ về các câu hỏi như ý chí của thần thánh, ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống, họ thường tranh luận với nhau về việc “Chúa muốn con người phải thế nào”, “thế nào mới là giải thoát”. Hoặc là tranh luận về xuất thân của các vị thánh, hoặc có nên công nhận sự tồn tại của nhân vật A, B hay không,…vv. Chẳng hạn các trường phái Kito khác nhau có thể tranh luận với nhau rằng liệu Đức Mẹ Maria có đồng trinh sau khi hạ sinh Chúa Jessu hay không, giữa Tin Lành với Công giáo có thể tranh luận về việc có nên cầu nguyện với Đức Mẹ không. Hoặc người Hồi giáo sẽ tranh cãi với Kito hữu về việc Jessu là nhà tiên tri hay là Thiên Chúa thực thụ. Các nhà sư có thể tranh cãi với nhau về việc đâu mới là phương pháp tu luyện đúng đắn, phải làm sao mới đúng với lời Phật dạy, tu hạnh đầu đà có nên được ủng hộ hay không, hoặc ăn chay theo kiểu nào mới đúng, thậm chí là có thể tranh cãi về sự tồn tại của nhân vật Quan Âm Bồ Tát, hoặc 10 phương chư Phật. Hoặc đâu mới là những kinh sách chính thống,…vv
Tóm lại, tôn giáo sẽ có sự tranh luận và thống nhất niềm tin về thần thánh, ý nghĩa và xây dựng 1 câu chuyện chung. Giáo hội sẽ chọn lọc đâu mới là niềm tin chính thống, đâu là sai lệch, đâu mới là ý nghĩa thực sự, và cái nào mới là kinh sách nên đọc, cái nào là lỗi thời nên bỏ đi. Ví dụ như giáo hội Công giáo quyết định chọn kinh Tân Ước là giao ước mới của Thiên Chúa với loài người thông qua Jessu, hay Hồi giáo quyết định tin rằng Muhames là nhà tiên tri cuối cùng mà Chúa chọn để truyền thông điệp với loài người, và kinh Koran mới là giao ước cuối cùng. Hoặc như các nhà sư trường phái Đại Thừa sẽ quyết định công nhận sự tồn tại của 10 phương chư Phật, công nhận các vị thần bản địa như Táo Quân, Ngọc Hoàng, tin vào kinh Hán Tạng và Đại Tạng. Còn các nhà sư Tiểu Thừa thì chỉ quan tâm tới giác ngộ và chỉ tìm tới giáo lý mà họ cho là gần gũi với Đức Phật ngày xưa nhất, và không công nhận sự tồn tại của 10 phương chư Phật hay các yếu tố thần thoại.
Tín ngưỡng dân gian thường không có hệ thống tổ chức chặt chẽ, mà chủ yếu do dân gian duy trì và truyền miệng. Vai trò của các thầy cúng, pháp sư, đạo sĩ có thể quan trọng nhưng không có hệ thống tập trung quyền lực.
Ví dụ ở Trung Quốc, Đạo giáo có phần tổ chức nhưng tín ngưỡng dân gian như thờ cúng tổ tiên thì không có một giáo hội nào kiểm soát.
Trong thần thoại Trung Hoa, ta thấy có rất nhiều vị thần, từ Ngọc Hoàng đại đế, Nữ Oa Nương Nương, sau thời kì Phật giáo du nhập vào Á Đông thì lại có thêm 10 phương chư Phật, Quan Âm Bồ Tát,…vv
Tuy nhiên không có một giáo hội cụ thể nào đứng ra sắp đặt lại trật tự của các vị thần này, tất cả mọi mô tả về họ đều tuỳ thuộc vào sự truyền miệng của dân gian. Ai tin thế nào thì tuỳ, không ai áp đặt ai như các tôn giáo lớn. (Áp đặt ở đây không nhất thiết phải là đè cổ nhau ra bắt phải tin, mà có thể chỉ đơn giản là tranh cãi với nhau, thuyết phục lẫn nhau và mong muốn đối phương thay đổi niềm tin theo cách của mình, một hiện tượng xảy ra với những nhà tranh luận thần học, ít xảy ra trong dân gian đại chúng).
Ví dụ về nhân vật phổ biến nhất đó là Ngọc Hoàng Đại Đế. Có nhiều phiên bản khác nhau về xuất thân của Ngọc Hoàng Đại Đế, tùy theo từng thời kỳ và khu vực mà tín ngưỡng dân gian Trung Quốc phát triển. Dưới đây là một số phiên bản phổ biến:
1. Phiên bản “Bậc Thánh tu luyện thành thần”. Theo phiên bản này, Ngọc Hoàng Đại Đế vốn là một vị hoàng tử từ một vương quốc thần thánh. Ngài sinh ra đã có trí tuệ và lòng từ bi vô hạn, nhưng vẫn phải tu luyện gian khổ suốt 1.750 kiếp để đạt đến cảnh giới tối cao. Sau khi chứng đắc đạo quả, ngài được phong làm Hạo Thiên Kim Khuyết Vô Thượng Chí Tôn Ngọc Hoàng Đại Đế, trở thành vị thần tối cao cai quản thiên đình. Phiên bản này nhấn mạnh rằng Ngọc Hoàng không phải là đấng sáng tạo vũ trụ, mà là người có công đức lớn nên được giao nhiệm vụ cai trị tam giới.
2. Phiên bản “Ngọc Hoàng là con của Nguyên Thủy Thiên Tôn”. Trong Đạo giáo, có một hệ thống gọi là Tam Thanh (Ba vị thần tối cao) gồm: Nguyên Thủy Thiên Tôn (người sáng tạo ra trời đất), Linh Bảo Thiên Tôn, Thái Thượng Lão Quân (tức Lão Tử). Một số tài liệu Đạo giáo coi Ngọc Hoàng là con hoặc người kế vị của Nguyên Thủy Thiên Tôn, được phong làm vua trời để cai quản thiên đình và nhân gian. Phiên bản này mang tính hệ thống hơn, đặt Ngọc Hoàng trong một trật tự thần linh có tổ chức chặt chẽ.
3. Phiên bản “Ngọc Hoàng là người trần được trời chọn”. Trong dân gian, có truyền thuyết kể rằng Ngọc Hoàng từng là một người bình thường, nhưng rất nhân từ, hiền đức. Khi còn là một vị vua ở nhân gian, ngài ra sức giúp đỡ dân chúng, tu hành đạo hạnh. Sau khi băng hà, vì công đức vô lượng, ông được Đức Phật và các vị thần tiên đề cử lên làm Ngọc Hoàng, cai quản thiên giới. Phiên bản này có màu sắc gần gũi với người dân, bởi nó ngụ ý rằng bất kỳ ai tu dưỡng đủ đạo hạnh cũng có thể đạt được ngôi vị cao cả.
4. Phiên bản “Ngọc Hoàng là hóa thân của thiên địa”.
Một số quan niệm cổ đại cho rằng Ngọc Hoàng không phải là một thực thể cá nhân, mà là hiện thân của Thiên Đạo. Ông không sinh ra từ đâu cả, mà tồn tại vĩnh viễn, tượng trưng cho trật tự của vũ trụ. Trong phiên bản này, Ngọc Hoàng không phải là một vị thần có cá tính rõ ràng, mà là một biểu tượng của thiên mệnh và quyền lực cai trị tự nhiên.
5. Phiên bản “Ngọc Hoàng giành ngôi bằng chiến tranh”. Một số truyền thuyết kể rằng Ngọc Hoàng từng là một vị thần nhỏ trong thiên đình, nhưng do tài trí và đức hạnh, ông đã lãnh đạo các thần tiên khác đánh bại thế lực tà ác để giành lấy ngôi vị tối cao. Sau khi chiến thắng, ông lên ngôi và trở thành người cai trị thiên giới. Phiên bản này nhấn mạnh vào sự tranh đấu, công lao, giống với nhiều thần thoại khác về các vị thần tối cao (như Zeus trong thần thoại Hy Lạp).
Đặc biệt là, bạn có thể thoải mái làm một bộ phim miêu tả về Ngọc Hoàng mà không sợ đụng chạm với ai, Tây Du Kí năm 1986 mô tả về Ngọc Hoàng hèn nhát, sợ sệt trước Tôn Ngộ Không mà không sợ gây bất mãn. Vì nhân vật này không quá quan trọng như nhân vật trung tâm của tôn giáo. Còn nếu bạn làm phim nói về Thiên Chúa, bạn sẽ phải nghiên cứu Kinh Thánh thật kĩ, nếu bộ phim gây hiểu sai hoặc đi lệch khỏi quan điểm chính thống, bạn sẽ nhận được sự tấn công của các tín đồ. Đối với Hồi giáo, thậm chí việc miêu tả hình hài của Thiên Chúa là không được phép, bởi theo quan điểm của Hồi giáo thì Thiên Chúa là đấng toàn năng, không cần phải có hình dạng cụ thể như con người, không cần phải hiện hữu như một thân thể vật lý, ngài tồn tại ở khắp mọi nơi và mọi lúc, ở bất kì đâu trong không gian. Việc mô tả ngài như một con người là một sự xúc phạm. (Cá nhân mình khá thích cách miêu tả này).
Trong tín ngưỡng dân gian, người ta thường không quan tâm lắm tới thế giới của các vị thần, họ chỉ đơn giản là cần một thế lực nào đó mà họ nghĩ là thiêng liêng để cầu xin may mắn, ban phát tài lộc mà thôi. Trong đời sống hằng ngày, bạn sẽ nghe thấy các cuộc trò chuyện kiểu “ê mày ơi đi chùa này thiêng hơn nè, đi đền thờ này thiêng nè”. Không mấy ai rảnh rỗi tranh cãi về xuất thân của Ngọc Hoàng, tính cách của các vị thần, các vị thần muốn gì, mang tới ý nghĩa gì. 
Mặt khác chính vì vậy mà tín ngưỡng dân gian thường linh hoạt hơn, dễ kết hợp với các tôn giáo khác, không có ranh giới cứng nhắc. Ở Trung Quốc, một người có thể vừa thờ Quan Âm (Phật giáo), vừa cúng tổ tiên (Nho giáo), vừa cầu Thần Tài (tín ngưỡng dân gian). Niềm tin về Ngọc Hoàng thường hòa trộn với thờ cúng tổ tiên, Phật giáo, và các tín ngưỡng địa phương. Ở một làng có thể có một cách thờ, sang làng khác lại có cách hiểu khác.
Các tôn giáo lớn có ảnh hưởng mạnh đến chính trị. Ví dụ, Giáo hoàng từng có quyền lực lớn ở châu Âu, Hồi giáo có luật Sharia, Phật giáo ảnh hưởng đến chính trị ở Tây Tạng, Myanm. Còn tín gưỡng dân gian thì ít ảnh hưởng trực tiếp đến chính trị, nhưng có tác động mạnh đến văn hóa và phong tục tập quán, ví dụ như tục thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam không ảnh hưởng đến chính trị nhưng lại định hình sâu sắc đạo đức gia đình. 
Mặc dù các triều đình Trung Hoa thường ủng hộ tín ngưỡng về Ngọc Hoàng, nhưng chủ yếu để củng cố quyền lực hoàng đế (vua được xem là “Thiên tử”, con của trời) chứ cũng không quy định cụ thể hệ thống niềm tin đối với vị thần này như các tôn giáo. Một số hoàng đế như Đường Huyền Tông hay Tống Chân Tông từng ra sắc lệnh chính thức phong Ngọc Hoàng làm vị thần tối cao của trời, nhưng điều này không mang tính bắt buộc với dân chúng mà chỉ là sự hợp thức hóa về mặt chính trị. Vào thời nhà Tống, Ngọc Hoàng được phong danh hiệu “Hạo Thiên Kim Khuyết Vô Thượng Chí Tôn Ngọc Hoàng Đại Đế”, nhưng dân gian vẫn có nhiều cách gọi khác nhau và vẫn pha trộn với các tín ngưỡng khác.
Tóm lại:
Tín ngưỡng dân gian không quá nghiêm túc và khắt khe với các niềm tin thần học, miêu tả thần thánh, không tranh luận nhiều về ý nghĩa triết học đối với thần thánh. Ai tin gì cũng được, không ai ý kiến gì nhiều, không có hệ thống hoá, không cần giáo hội quy định câu chuyện chung thống nhất.
Tôn giáo thì ngược lại, phải có hệ thống, phải xác định niềm tin nào là đúng, niềm tin nào là sai, phải tranh luận để tìm ra cách hiểu đúng về ý nghĩa câu chuyện được kể, phải thống nhất cách mô tả về thần thánh và siêu nhiên. Phải có giáo hội quy định cái gì là chính thống, cái gì là không chính thống.
img_0