Tóm tắt Thế chiến thứ Nhất
Nguyên nhân khiến Thế chiến thứ Nhất bùng nổ, và những diễn biến chính
Thế kỷ 20 là một thế kỷ được đánh dấu bằng những cuộc chiến quy mô lớn giữa các cường quốc, và nổi bật nhất trong số đó chính là hai cuộc Thế chiến. Chúng ta đều đã rất quen thuộc với những sự kiện, diễn biến và nhân vật nổi tiếng trong Thế chiến thứ Hai. Thế nhưng trước khi xảy ra cuộc chiến đã cướp đi mạng sống của gần 70 triệu người ấy, nhân loại đã trải qua một chuỗi các sự kiện cũng bi kịch không kém. Đó chính là Thế chiến thứ Nhất, hay còn được gọi với những cái tên khác là "Cuộc Đại chiến" và "Cuộc chiến để kết thúc mọi cuộc chiến". Là cuộc xung đột quy mô thế giới đầu tiên trong lịch sử, Thế chiến thứ Nhất cũng cực kỳ thảm khốc và gây ra ảnh hưởng vô cùng lớn tới trật tự thế giới thời ấy, và còn đến cả sau này nữa.
"Thùng thuốc súng" ở châu Âu
Nhắc đến Thế chiến thứ Nhất, người ta thường nói rằng vụ ám sát vợ chồng Thái tử của Đế quốc Áo - Hung là Đại Công tước Franz Ferdinand là sự kiện trực tiếp khiến chiến tranh bùng nổ. Thế nhưng mọi chuyện không hề đơn giản như thế. Vụ ám sát Đại Công tước Ferdinand chỉ là mồi lửa châm ngòi cho một châu Âu đã rục rịch trên bờ vực chiến tranh. Đầu thế kỷ 20, châu Âu vốn đã ở trong tình trạng căng thẳng, các nhóm cường quốc lăm le đối đầu nhau vì nhiều lý do phức tạp, khiến lục địa già không khác gì một thùng thuốc súng trực chờ phát nổ. Những mâu thuẫn này đã được tích tụ từ lâu, không phải chỉ mới ngày một ngày hai. Và để phần nào nhìn rõ được những nguyên nhân dẫn đến Cuộc Đại Chiến, chúng ta phải có được một cái nhìn đầy đủ các mặt về tình hình châu Âu giai đoạn thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Nửa đầu thế kỷ 19, nhất là giai đoạn sau khi Chiến tranh Napoleon kết thúc, các cường quốc ở lục địa già cùng nhau duy trì một trạng thái cân bằng quyền lực tương đối mỏng manh, được gọi là Hòa hợp quyền lực châu Âu. Tuy nhiên, trạng thái này nhanh chóng bị ảnh hưởng bởi nhiều lý do. Anh quốc - một trong những thế lực lớn rất chủ động trong việc thành lập các liên minh chống lại Đế chế Pháp của Napoleon, thực hiện chính sách đối ngoại mới mang tên "Cô lập vinh quang". Nước Anh bắt đầu duy trì sự tách biệt khỏi các liên minh với các thế lực lớn ở châu Âu, chủ trương tránh can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Đế quốc Ottoman hùng mạnh một thời đã liên tục suy yếu trong hơn 100 năm, bị mất nhiều phần lãnh thổ ở phía tây và thường bị gọi là "Bệnh nhân già của châu Âu". Đế quốc Áo - Hung là một thế lực mới được thành lập sau sự liên minh giữa Áo và Hungary năm 1867. Thế nhưng với tiền thân là Đế quốc Áo đã từng thua trận trong Chiến tranh Áo - Phổ, Áo - Hung cũng ở trong tình trạng chật vật. Thể chế chính trị thiếu hiệu quả, các vùng lãnh thổ bên trong thiếu gắn kết, Hoàng đế Franz Joseph thì đã già, nên Đế quốc Áo - Hung cũng cực kỳ chật vật. Áo - Hung thậm chí còn bị Đế quốc Đức mỉa mai là "Cái xác sống trên dòng Danube". Đế quốc Nga cũng không khá hơn là bao, khi thế lực già cỗi này cũng rơi vào tình trạng khủng hoảng và suy sụp dần. Tình trạng của Nga trở nên nghiêm trọng hơn sau khi thua trận trước cường quốc mới nổi ở châu Á là Nhật Bản trong cuộc chiến 1904 - 1905. Bởi vậy, lẽ dĩ nhiên là Nga cũng muốn giữ được vị thế của mình.
Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc mới đang trỗi dậy, và cùng với đó là sự vươn mình của một thế lực khác - Vương quốc Phổ. Sau khi giành được thắng lợi trong Chiến tranh Pháp - Phổ và dưới sự chèo lái của Otto von Bismarck, Phổ trở thành nòng cốt để tạo nên cái gọi là Đế quốc Đức năm 1871. Chính thể này còn hay được gọi là Đệ nhị Đế chế, như một sự tiếp nối của Đệ nhất Đế chế là Đế quốc La Mã Thần thánh đã giải thể năm 1806. Vua Phổ Wilhelm cũng trở thành Hoàng đế của Đế quốc Đức - Kaiser Wilhelm I. Là một thế lực đang trỗi dậy, tất nhiên Đức muốn nâng cao vị thế của mình ở châu Âu về mọi mặt.

Bản đồ các nước châu Âu trong Thế chiến thứ Nhất
Năm 1873, Bismarck đứng ra thành lập Liên minh Ba Hoàng đế giữa Đức, Áo - Hung và Nga. Thế nhưng Liên minh này đã giải thể sau khi Chiến tranh Nga - Ottoman kết thúc năm 1878 với thắng lợi của Đế quốc Nga. Kết quả cuộc chiến dẫn đến việc một loạt nhà nước và lãnh thổ trong khu vực Balkan được thành lập và độc lập khỏi Đế quốc Ottoman - như Bulgaria, Romania, Serbia và Montenegro. Với kết quả này, Đế quốc Nga đã thiết lập được tầm ảnh hưởng của mình lên khu vực Balkan, và Áo - Hung không hề thích thú gì trước chuyện ấy. Đế quốc Áo - Hung vốn từ lâu đã muốn dần áp đặt tầm ảnh hưởng và sáp nhập dần các vùng lãnh thổ ở khu vực Balkan; vừa để củng cố vị thế, chiếm lấy các khu vực chiến lược, vừa để đối phó với các phong trào chủ nghĩa dân tộc Slav đang ngày càng dâng cao. Tuy nhiên như đã nói, sự thiếu hiệu quả trong thể chế chính trị và tuổi tác già nua của Hoàng đế Franz Joseph đã khiến Áo - Hung hành động rất chậm trong những mục tiêu này.
Ngay trong năm 1879, Đức và Áo - Hung bắt tay nhau thành lập Liên minh Kép để đề phòng trường hợp bị Nga hoặc bất cứ một cường quốc châu Âu nào khác tấn công. Bismarck coi liên minh này là một cách để ngăn chặn việc Đế quốc Đức non trẻ bị cô lập, vì ông tin rằng sẽ không ai mạo hiểm phát động chiến tranh với cả hai đế quốc cùng lúc. Đến năm 1882, Ý gia nhập liên minh này, và nó trở thành Liên minh Ba nước. Với liên minh này, Bismarck hy vọng có thể cô lập được Pháp. Năm 1887, Đức và Nga tiếp tục bí mật ký kết Hiệp ước Đảm bảo; theo đó hai nước đồng ý giữ vị thế trung lập nếu một trong hai bị tấn công bởi Pháp hoặc Áo - Hung. Bismarck tin rằng giữ hòa hảo và tránh xung đột với Nga nên là nền tảng cho các chính sách đối ngoại của Đức.

Wilhelm II - Kaiser (Hoàng đế) của Đế quốc Đức
Thế nhưng mọi việc thay đổi với sự lên ngôi của Kaiser Wilhelm II vào năm 1888. Là người thấm đẫm tinh thần chủ nghĩa quân phiệt và dân tộc Đức, Kaiser Wilhelm II rất không hài lòng với các chính sách thận trọng của Bismarck. Mâu thuẫn giữa hai người tăng dần, cuối cùng dẫn đến việc Bismarck bị buộc phải từ chức năm 1890. Không còn ai có tiếng nói đủ lớn để cản trở, Kaiser Wilhelm II bắt đầu muốn nhanh chóng bành trướng, mở rộng lãnh thổ để nâng tầm vị thế của Đức. Thậm chí, Đức còn muốn thay thế Anh để trở thành cường quốc công nghiệp đứng đầu châu Âu. Có rất nhiều người, không chỉ người Đức, mơ về một khối thịnh vượng chung lấy Đế quốc Đức làm trung tâm. Để đạt được điều ấy, Đức cần bắt tay với Áo - Hung, một đế quốc có rất nhiều nét tương đồng về văn hóa và ngôn ngữ. Suy cho cùng, cả Đức và Áo đều từng là một phần của Đế quốc La Mã Thần thánh. Cũng vì thế mà Đức rất coi trọng liên minh được thành lập năm 1879 với Áo - Hung.
Nhưng tất nhiên như đã nêu trên, Áo - Hung có quá nhiều vấn đề nội bộ dẫn tới việc đế quốc này thường có những nước đi tương đối sai lầm. Năm 1908, Đế quốc Áo - Hung sáp nhập Bosnia & Herzegovina vào lãnh thổ của mình. Hành động này đã khiến gần như cả châu Âu lên tiếng phản đối, đặc biệt là Serbia - quốc gia tiếp giáp ngay cạnh Bosnia & Herzegovina. Serbia nói riêng và các quốc gia cũng như vùng lãnh thổ ở khu vực Balkan nói chung, vốn đã ghét bỏ Áo - Hung từ trước, nay càng có lý do để khuấy động các phong trào bài trừ và chống đối. Nhưng một lần nữa, Áo - Hung không có động thái nào để giảm thiểu căng thẳng. Trước căng thẳng ngày càng tăng lên giữa đế quốc và các quốc gia và lãnh thổ của người Slav, Áo - Hung quyết định… không làm gì cả, và hy vọng sẽ không có biến cố hay khủng hoảng nào xảy ra.
Về phía các cường quốc còn lại, thì sau khi Bismarck bị buộc phải từ chức năm 1890, thái độ của Đức với Nga ngày càng thiếu thân thiện. Vì lo sợ một cuộc chiến có thể xảy ra với Đức, Nga thành lập một liên minh quân sự với Pháp vào năm 1894. Đồng thời, nước Anh cũng dần dần từ bỏ chính sách "Cô lập vinh quang" của mình vào đầu thế kỷ 20. Đến năm 1904, Anh và Pháp thành lập liên minh để cùng nhau giải quyết những vấn đề liên quan tới thuộc địa của cả hai. Rồi đến năm 1907, đến lượt Anh và Nga liên minh với nhau. Nhóm Đồng minh ba bên được thiết lập giữa Anh, Pháp và Nga; nhưng đây không phải liên minh quân sự, nên không có điều khoản buộc các bên phải giúp đỡ nhau nếu xảy ra chiến tranh. Và dù là đồng minh, nhưng các vấn đề và mâu thuẫn giữa ba thế lực này chỉ mới dịu đi, chứ chưa từng được giải quyết hoàn toàn.
Cũng cần nói thêm rằng Đế quốc Đức vẫn duy trì quan hệ hữu hảo với Đế quốc Ottoman - dù "con bệnh" này đã già cỗi và lắm vấn đề, nhưng vị thế thì vẫn còn, và họ kiểm soát một khu vực quan trọng. Mối quan hệ này khiến Nga tỏ ra lo lắng, vì Đức có thể thông qua Ottoman mà áp đặt quyền kiểm soát lên khu vực eo biển Dardanelles ở bán đảo Gallipoli, nơi 90% lượng lúa mì xuất khẩu của Nga đi qua. Vì vậy, Nga mới muốn có tầm ảnh hưởng ở khu vực Balkan, và có thái độ ủng hộ các phong trào chủ nghĩa dân tộc Slav chống Áo - Hung. Như vậy cũng đồng nghĩa với việc Nga gián tiếp đối đầu với cả hai đế quốc Áo - Hung và Ottoman. Dường như mọi vấn đề đều quy tụ lại ở khu vực Balkan, và nói không ngoa thì đây đúng là "thùng thuốc súng" ở châu Âu, chỉ trực chờ bùng nổ.

Các nước vùng Balkan thời điểm năm 1914, trước khi Đại chiến xảy ra
Ngoài ra, cũng cần nhắc đến quan hệ khá đặc biệt giữa Anh và Đức. Thực tế thì giữa Anh và Đức không có thâm thù đại hận gì đáng kể. Cả hai thậm chí còn giành sự tôn trọng và ngưỡng mộ trước văn hóa, quân sự và ngành công nghiệp của đối phương. Đức đặc biệt ngưỡng mộ trước hệ thống thuộc địa khổng lồ của Anh, và họ tin rằng sức mạnh hải quân vượt trội là chìa khóa dẫn đến thành công của Anh. Và đương nhiên, với tham vọng bành trướng của mình, Kaiser Wilhelm đã đặt ra mục tiêu lật đổ vị thế của Anh. Để làm điều đó, ông ra lệnh xây dựng một hạm đội hải quân lớn với mục tiêu quan trọng nhất là đánh bại hải quân Anh.
Trước động thái này của Đức, Đệ nhất Đại thần Hải quân của Anh lúc ấy là Winston Churchill đã đề xuất rằng cả hai nước có thể tạm ngừng việc mở rộng hạm đội. Ông lý luận rằng nước Anh cần hải quân để kiểm soát các thuộc địa nằm ở mọi ngóc ngách trên thế giới, nhưng Đức thì không cần thiết đến thế. Đương nhiên là Kaiser Wilhelm không mảy may thay đổi ý kiến, và vẫn xúc tiến việc xây dựng một hạm đội khổng lồ. Cuối cùng thì hạm đội ấy ngốn tới tận 1/3 ngân sách quốc khố dùng cho quân đội (và mỉa mai thay, vì nhiều lý do mà hạm đội này gần như chẳng được việc mấy trong cuộc chiến). Việc ngốn quá nhiều ngân sách cho hạm đội khiến Đức không thể mạo hiểm phát động chiến tranh với cả Pháp và Nga cùng lúc - nếu trường hợp ấy xảy ra. Và đồng thời thì nước Anh cũng bắt đầu cảm nhận được nguy cơ về việc xảy ra chiến tranh với Đức. Họ trở nên thận trọng hơn, và tăng cường quan hệ đồng minh với Pháp và Nga.
Ngoài ra, Kaiser Wilhelm còn tìm cách chia rẽ mối quan hệ đồng minh giữa Anh và Pháp, đồng thời thách thức vị thế và tranh giành tầm ảnh hưởng của Pháp ở Morocco. Tham vọng này đã dẫn tới việc xảy ra hai cuộc khủng hoảng ở Morocco năm 1905 và 1911. Nhưng cuối cùng kết quả chỉ là Anh và Pháp càng thắt chặt hơn mối quan hệ đồng minh, và cả hai ngày càng tỏ ra thận trọng và xa cách với Đức. Và chỉ ít lâu sau cuộc khủng hoảng Morocco lần thứ 2, Ý quyết định tấn công vào Libya thuộc Đế quốc Ottoman. Đơn giản là vì chứng kiến những gì xảy ra ở Morocco, lại biết rằng Ottoman đã cực kỳ suy yếu, nên các cường quốc khác khả năng cao sẽ không làm gì cả. Cuộc chiến chỉ kéo dài chưa đầy một tháng, và Ý thành công chiếm được Libya.
Hậu quả kéo theo là các quốc gia vùng Balkan thấy rằng Đế quốc Ottoman đã quá yếu - đến cả một nước Ý không được đánh giá ngang hàng với các thế lực khác mà cũng có thể đánh bại. Vì vậy nên vào tháng 10 năm 1912; các quốc gia ở vùng Balkan như Serbia, Montenegro, Bulgaria và Hy Lạp đã cùng nhau thành lập Liên minh Balkan và tấn công Đế quốc Ottoman.
Cuộc chiến Balkan lần thứ nhất bùng nổ và kết thúc chóng vánh chỉ sau 6 tháng. Liên quân các nước vùng Balkan vượt trội so với quân đội Ottoman vốn thua thiệt về quân số cũng như chiến lược đã giành thắng lợi. Ottoman mất tất cả những lãnh thổ của họ ở châu Âu, trừ dải đất nhỏ ven bờ bắc biển Marmara và xung quanh Istanbul. Tuy nhiên, những tranh chấp về việc phân chia vùng Macedonia đã dẫn tới sự rạn nứt trong hàng ngũ phe liên minh. Chỉ 3 tháng sau đó, Bulgaria phát động Cuộc chiến Balkan lần hai khi quay ngược lại tấn công Serbia và Hy Lạp. Chiến tranh kết thúc sau hơn 1 tháng, với việc các nước chấp nhận đàm phán phân chia lại một phần các vùng lãnh thổ trong khu vực; và ngay cả Đế quốc Ottoman cũng lợi dụng rắc rối để chiếm lại được một phần lãnh thổ bị mất.

Tựu trung, có thể thấy rằng mặc dù trên bề mặt, châu Âu vẫn đang tạm gọi là hòa bình - nhưng đó là một nền hòa bình cực kỳ mong manh và có nguy cơ đổ vỡ bất cứ lúc nào. Và trung tâm của mọi rắc rối căng thẳng nhất đến từ khu vực Balkan - "thùng thuốc súng" của cả châu Âu, với những mâu thuẫn giữa các dân tộc Slav với Đế quốc Áo - Hung.
Như đã nói qua ở trên, khi Áo - Hung sáp nhập Bosnia & Herzegovina vào thành lãnh thổ chính thức của mình vào năm 1908, thì động thái này đã thổi bùng lên ngọn lửa căm ghét của các quốc gia và lãnh thổ trong khu vực Balkan. Trong số đó, phản ứng dữ dội nhất là Serbia - quốc gia nằm ngay cạnh Bosnia & Herzegovina, giờ bị chặn mất đường tiến ra biển Adriatic và phải đối mặt với sự hiện diện của quân đội Áo - Hung ngay sát biên giới. Cần phải hiểu rằng Serbia nói riêng và phần lớn khu vực Balkan nói chung là nơi sinh sống của người Slav. Trong nhiều thế kỷ, họ luôn bị Đế quốc Ottoman kiểm soát và áp bức, và chỉ mới giành được độc lập và quyền tự chủ gần đây. Chủ nghĩa dân tộc Slav dâng cao hơn bao giờ hết, và rất nhiều người mơ về một quốc gia thống nhất toàn bộ dân tộc Slav. Vì thế, thật dễ hiểu khi các quốc gia này phản ứng mạnh mẽ đến thế trước hành động của Đế quốc Áo - Hung.
Vào đầu thế kỷ 20 ấy, Serbia là một quốc gia còn trẻ, đầy tự tôn và thấm đẫm chủ nghĩa dân tộc Slav. Họ chỉ mới giành được độc lập từ Đế quốc Ottoman năm 1878 - tức là mới trên dưới 30 năm. Serbia có tham vọng lớn, và cực kỳ chướng tai gai mắt với Đế quốc Áo - Hung; đặc biệt là sau Cuộc chiến Balkan lần thứ hai. Khi ấy, Serbia giành được Albania, nhưng cuối cùng bị các cường quốc ở châu Âu phản đối do lo ngại sự lớn mạnh quá nhanh của họ. Trong số ấy, Áo - Hung thậm chí đã ra tối hậu thư yêu cầu Serbia rút quân khỏi lãnh thổ Albania trong vòng 8 ngày; Serbia cuối cùng vẫn làm theo, nhưng chẳng thích thú gì.
Dù không giành được Albania để có cho mình lối ra biển Adriatic, lãnh thổ Serbia vẫn rộng lên gấp 2 lần sau các cuộc chiến ở Balkan. Nhìn vào thành quả đó, đại bộ phận người Serbia tin rằng chiến tranh là con đường có lợi, đặc biệt là phe chủ nghĩa dân tộc. Mà chủ nghĩa dân tộc ở Serbia lớn mạnh đến mức vào năm 1903, vua Alexander I cùng vương hậu Draga đã bị một nhóm các sĩ quan trẻ tuổi sát hại dã man ngay tại phòng riêng. Lý do là vì những chính sách thân cận với Áo - Hung, kẻ thù trong mắt rất nhiều người Serbia. Một trong những kẻ chủ mưu là Dragutin Dimitrijevic sau đó còn được coi là anh hùng dân tộc. Cũng chính ông ta sau này là một trong số những thành viên sáng lập của tổ chức Bàn Tay Đen - một tổ chức sát thủ, khủng bố theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Thậm chí có rất nhiều sĩ quan quân đội và quan chức chính phủ cũng là thành viên của tổ chức này.

Vua Alexander và vương hậu Draga bị ám sát
Sau khi Liên minh Balkan tan rã, ở khu vực Balkan chỉ còn duy nhất Serbia là đồng minh của Đế quốc Nga. Lúc này, cả Đức và Áo - Hung đều ngày càng lo ngại trước việc Serbia ngày càng mạnh lên và có vị thế cùng tiếng nói trong khu vực; đặc biệt là Áo - Hung. Mâu thuẫn ngày càng tăng cao, và có nhiều tiếng nói trong Đế quốc Áo - Hung muốn gây chiến với Serbia để dập tắt phong trào chủ nghĩa dân tộc Slav. Mặc dù Thái tử của Đế quốc Áo - Hung là Đại Công tước Franz Ferdinand bày tỏ sự phản đối về việc gây chiến với Serbia; nhưng chính ông này cũng có những phát ngôn khiến người Serbia nóng mắt. Franz Ferdinand đã từng miệt thị người Serbia là "lợn", "dân hai ngón", "bọn vô lại" và "lũ côn đồ". Với lý do đó, với tất cả những rắc rối và mâu thuẫn đã tích tụ trong nhiều năm, cuối cùng dẫn tới sự kiện không ai có thể quên được vào ngày 28 tháng 6 năm 1914 - vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand tại Sarajevo.
Vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand và Cuộc khủng hoảng tháng Bảy
Những người đứng sau vụ ám sát Franz Ferdinand không ai khác chính là tổ chức Bàn Tay Đen; khi họ biết rằng ông ta sẽ đến Sarajevo - thủ phủ của Bosnia để xem lễ khánh thành một bệnh viện và tham dự buổi tập trận của quân đội. Dù đã có những cảnh báo về một âm mưu ám sát do những người chủ nghĩa dân tộc cực đoan thực hiện, Franz Ferdinand vẫn giữ nguyên kế hoạch. Có tổng cộng 6 người được cử đi làm nhiệm vụ ám sát này, nhưng trong đó chúng ta chỉ cần nhớ tên của 2 người trong số đó: Nedeljko Cabrinovic và Gavrilo Princip.
Ngày 28 tháng 6 vốn là một ngày quan trọng với người Serbia, khi đó là ngày kỷ niệm trận chiến Kosovo trước Đế quốc Ottoman năm 1389 - khi chính Sultan Murad I bị lính Serbia ám sát. Một thời điểm quá lý tưởng để ra tay ám sát kẻ thù của dân tộc.

Đại Công tước Franz Ferdinand - Thái tử Đế quốc Áo - Hung
Điều đáng nói là kế hoạch ám sát ban đầu đã thất bại. Theo kế hoạch thì khi xe chở vợ chồng Franz Ferdinand chạy đến địa điểm có người mai phục sẵn thì đám sát thủ ai thấy cơ hội sẽ ném bom vào xe. Hai người được giao trọng trách trực tiếp thực hiện chính là Cabrinovic và Princip, còn 4 người kia sẽ lo xử lý mọi chuyện tiếp theo. Khi thời cơ đến, Cabrinovic vội ném bom về phía xe chở Franz Ferdinand. Nhưng người tài xế khi thấy có vật thể lạ bay đến đã vội đạp ga phóng thẳng lên phía trước, thành ra quả bom nổ sau xe và khiến 10 người bị thương, còn vợ chồng Franz Ferdinand bình yên vô sự.
Biết chuyện đã đổ bể, toàn bộ đám sát thủ đều tìm cách chạy trốn. Riêng Cabrinovic vì đã ra tay ném bom nên lập tức bị đuổi theo. Thấy rằng không chạy trốn được, Cabrinovic bèn lập tức nuốt viên cyanide mang sẵn theo để tự tử. Nhưng không hiểu kiểu gì mà thuốc độc… hết hạn nên Cabrinovic không chết mà chỉ nôn mửa. Hết cách, gã bèn leo lên cầu để nhảy xuống sông Miljacka tự vẫn, trước khi nhảy vẫn không quên hô lớn lên rằng: "Tôi là anh hùng dân tộc của Serbia!" Nhưng một lần nữa Cabrinovic tự vẫn thất bại, vì bấy giờ đang hè, lòng sông cạn khô gần như trơ cả đáy; thành ra gã không chết mà còn bị gãy chân, và đương nhiên bị cảnh sát tóm được. Dường như cảm thấy kế hoạch đã thất bại hoàn toàn, Gavrilo Princip bỏ cuộc, mò vào một quán bên đường để ăn uống cho khuây khỏa.
Về phần vợ chồng Franz Ferdinand thì sau khi thoát nạn một cách hú vía, Đại Công tước đã tới tòa thị chính Sarajevo và khiển trách hội đồng thành phố. Sau đó, ông định đến bệnh viện Sarajevo để thăm những người bị thương trong vụ ám sát bất thành, bỏ ngoài tai mọi lời can ngăn. Ông thậm chí còn nói rằng: "Các ngài tưởng ở Sarajevo này đầy rẫy sát thủ hay sao?" và giữ nguyên ý định. Nhưng lần này ông thậm chí còn liều hơn, khi đổi sang đi xe mui trần và không có hộ vệ đi theo, mục đích là để tránh gây chú ý, vì Franz Ferdinand tin rằng đi một mình như thế chắc không ai biết vì ở đây ít ai nhận ra ông.

Hình ảnh cuối cùng của Franz Ferdinand và vợ
Để tránh xảy ra vụ việc như vừa rồi, lẽ ra tài xế phải chở vợ chồng Đại Công tước đi theo đường khác để tránh đi qua trung tâm thành phố. Nhưng rồi lại chẳng có ai thông báo việc thay đổi lộ trình ấy cho tài xế. Và thế là vì tài xế vốn chẳng biết đường ở Sarajevo, nên cứ đi theo lộ trình cũ như kế hoạch. Mà trong lúc đi còn rẽ nhầm đường nên tài xế phải cho xe quay đầu chầm chậm, và ma xui quỷ khiến thế nào mà xe dừng lại ngay trước quán cà phê nơi tay sát thủ Gavrilo Princip đang ăn trưa. Princip vừa bước ra khỏi cửa quán thì thấy ngay vợ chồng Đại Công tước ngồi trên xe mui trần. Thấy rằng đúng là thời cơ ngàn năm có một, gã lập tức rút súng ra lẳng lặng áp sát và bắn cả hai vợ chồng Franz Ferdinand. Gavrilo định tự sát nhưng lập tức bị khống chế. Lúc này mọi chuyện đã không thể cứu vãn được nữa. Đến 11 rưỡi trưa ngày hôm đó, cả hai vợ chồng Đại Công tước Franz Ferdinand qua đời.
Cái chết của Đại Công tước Franz Ferdinand đã khuấy thêm căng thẳng vốn đã trực chờ bùng nổ. Dù ông vốn không được mấy người yêu mến cho lắm, nhưng cái chết của Thái tử Đế quốc Áo - Hung đã khiến nhiều người bày tỏ quan điểm phải lập tức đáp trả. Người thì tin rằng Serbia sẽ phải nhượng bộ, như trong sự kiện Albania hồi tháng 10 năm 1913. Người khác thì xem đây là thời cơ để gây chiến nhằm dập tắt mọi tham vọng của Serbia trong khu vực. Áo - Hung thông báo với Đức rằng họ muốn tuyên chiến với Serbia; và với quan hệ đồng minh vốn có, Đức đã đồng ý sẽ hỗ trợ tốt nhất có thể nếu Áo - Hung hành động đủ nhanh.
Trong thời điểm đó, dư luận châu Âu vẫn còn đang bị chấn động bởi vụ ám sát của Thái tử Franz Ferdinand. Đức cho rằng nếu Áo - Hung có thể tranh thủ tình huống càng nhanh càng tốt thì sẽ không có ai hỗ trợ Serbia. Kể cả đồng minh của Serbia là Nga có muốn can thiệp cũng không kịp, vì lúc đó Áo - Hung đã có thể đưa quân tiến vào Serbia rồi. Như vậy là có thể xử lý vấn đề một cách nhanh chóng mà không gây ra xung đột diện rộng. Tuy nhiên, Hungary bên trong Đế quốc Áo - Hung chỉ muốn chiến tranh để giải quyết vấn đề chứ không ủng hộ việc sáp nhập Serbia kể cả khi có cơ hội, nếu không thì họ sẽ không tham gia.

Vụ ám sát đã trực tiếp khiến Cuộc Đại chiến bùng nổ
Thực chất vốn ban đầu Hungary không định ủng hộ chiến tranh, vì tôn trọng quan điểm của Thái tử Franz Ferdinand quá cố. Nhưng Áo đã dùng chính vụ ám sát của ông để thuyết phục Hungary đồng ý với đề xuất gây chiến. Và khi đã đạt thành sự đồng thuận, những gì họ cần là một cái cớ lớn hơn, và Áo - Hung lập tức cho soạn thảo một tối hậu thư gửi cho Serbia.
Trong lúc nguy cơ về chiến tranh đang bao trùm, có hai người đã nhìn ra được rằng nếu thực sự chuyện đến mức phải chiến tranh thì hậu quả sẽ lớn đến mức nào. Đó chính là hai đại sứ của Áo và Nga ở Serbia - Bá tước Wladimir von Giesl và Nicholas Hartwig. Tuy ở hai đế quốc đối địch, nhưng cả hai đều không hy vọng chiến tranh xảy ra. Hai người cấp tốc hẹn gặp nhau tại thủ đô Serbia là Belgrade và ở nhà của von Giesl để thảo luận về việc lập kiến nghị hòa bình. Nhưng đáng tiếc là trong buổi tiếp đón, Hartwig lên cơn đau tim và mất ngay sau đó. Vậy là triển vọng về kiến nghị hòa bình đi tong, và dư luận Serbia tiếp tục diễn biến theo chiều hướng xấu. Nhiều người còn cho rằng Áo đã đầu độc ngài đại sứ Nga. Căng thẳng vì thế tiếp tục leo thang.
Đến ngày 23 tháng 7, Đế quốc Áo - Hung gửi một bức tối hậu thư gồm 10 điều cho Serbia và yêu cầu hợp tác, trả lời lại trong vòng 48 giờ. Lý do tối hậu thư đến muộn như vậy, là vì Áo - Hung cố tình muốn tránh việc Serbia nhận được nó trong quãng thời gian Tổng thống Pháp Raymond Poincaré đến thăm Sa hoàng Nga Nicholas II. Trong tối hậu thư ấy, có một yêu sách là cảnh sát và cảnh vệ Áo được phép có toàn quyền điều tra về cái chết của Thái tử Franz Ferdinand ở Serbia. Dĩ nhiên ít người tin rằng Serbia sẽ chấp nhận yêu sách này, và Áo - Hung cũng chỉ cần có vậy.
Ở Nga, ngay khi biết tin về tối hậu thư, Bộ trưởng Ngoại giao Sergey Sazonov đã thốt lên một câu nổi tiếng: "Đây là một cuộc chiến toàn châu Âu!" Ngay hôm sau, ngày 24 tháng 7, Sazonov đã làm mọi cách để giúp Serbia có thêm thời hạn trả lời, tìm kiếm sự ủng hộ của cả Anh và Pháp. Ngoài ra trong cùng ngày, Bỉ tuyên bố trung lập, đứng ngoài mọi chiến sự. Tối ngày 24 ở Petrograd (tức là Saint Petersburg), Sazonov bàn bạc cực kỳ khẩn cấp, nếu không muốn nói là tranh cãi gay gắt với đại sứ Đức Friedrich Pourtales về việc điều động quân đội bảo vệ Serbia. Pourtales cho rằng việc Nga điều động quân đội mới chính là yếu tố lớn nhất châm ngòi cho chiến tranh, và rằng chỉ cần nó xảy ra thôi thì toàn bộ di sản của chủ nghĩa đế quốc sẽ sụp đổ. Sazonov thì lại lo sợ nhiều đến việc Áo - Hung sẽ thâu tóm toàn bộ Serbia và còn tuyên bố rằng nếu Áo - Hung nuốt chửng Serbia thì Nga sẽ lập tức tuyên chiến.

Sergey Sazonov, Bộ trưởng Ngoại giao Đế quốc Nga
Tất nhiên, nội bộ Đế quốc Áo - Hung đã đồng ý rằng sẽ không sáp nhập Serbia; nhưng làm gì có ai ngoài họ biết được điều đó? Sazonov thì cứ đinh ninh chuyện đó sẽ xảy ra nên càng gay gắt hơn để chặn đứng nguy cơ ấy, dù là bằng biện pháp quân sự.
Trước khi thời hạn trả lời tối hậu thư kết thúc, Serbia đã hồi đáp. Đúng như dự đoán, họ đồng ý với hầu hết các điều kiện, trừ việc cho phép Áo - Hung có quyền tự do điều tra trên lãnh thổ Serbia. Serbia còn cố tình chêm vào một câu đại ý rằng nếu Áo - Hung không hài lòng thì cứ việc đi kiện. Việc này chẳng khác nào một cái tát vào mặt Đế quốc Áo - Hung. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Áo - Hung là Bá tước Leopold Berchtold tìm cách cầu kiến Kaiser Wilhelm của Đức để bàn bạc, nhưng lúc này Kaiser lại đang đi nghỉ mát. Những người còn lại có mặt lúc đó của nội các Đức toàn là những người hiếu chiến, và họ lên tiếng trách Áo - Hung đã không sớm tuyên chiến. Ngay cả tham mưu trưởng quân đội Đế quốc Áo - Hung cũng bất ngờ và giận dữ về việc không tuyên chiến sớm, và bây giờ để điều động binh lính thì phải tốn rất nhiều thời gian. Đấy là còn chưa kể đến việc Nga cũng đang có ý định điều động quân đội. Đến ngày 28 tháng 7, Bá tước Berchtold thuyết phục được Hoàng đế Franz Joseph tuyên chiến với Serbia - dù trên thực tế quân đội Áo - Hung chưa sẵn sàng.
Lúc này, Kaiser Wilhelm đã trở lại, và sau khi xem xét tình hình, ông cùng nước Anh muốn mở một hội đồng suy xét để tìm kiếm giải pháp hòa bình, thay vì trực tiếp ủng hộ Áo - Hung như đã hứa. Tuy nhiên, dường như mọi chuyện đã leo thang đến mức không thể giải quyết một cách hòa bình được nữa. Kaiser Wilhelm sau đó lại đề nghị quân đội Áo - Hung chỉ đóng quân ở Belgrade thôi, để tỏ rõ quan điểm rằng họ sẽ không chiếm đất của ai cả. Lệnh này được gửi trực tiếp đến cho Thủ tướng Đức là Theobald von Bethmann-Hollweg. Tuy rằng ông ta đã động thái là trì hoãn việc chuẩn bị cho chiến tranh, nhưng bởi bản thân thấy kế hoạch này có vấn đề, nên Bethmann-Hollweg chỉ đơn thuần gửi kiến nghị cho Áo - Hung chứ không tỏ vẻ muốn thuyết phục họ làm theo.
Trong khi đó thì ở Nga, Sazonov sau khi biết tin tức về những gì đã xảy ra đã nổi giận và đề nghị Sa hoàng Nicholas II điều động quân đội đến Serbia. Nhưng trước khi Sa hoàng ra quyết định cuối cùng, vào rạng sáng ngày 29 tháng 7, ông gửi điện cho Kaiser Wilhelm - người đồng thời là anh em họ của mình. Trong bức điện, Sa hoàng viết rằng:
Trong thời khắc quan trọng này, tôi khẩn cầu sự giúp đỡ của anh. Một cuộc chiến vô nghĩa sẽ xảy ra với một đất nước yếu thế nhỏ bé. Sự phẫn nộ của toàn dân Nga cũng như của tôi là rất lớn. Tôi đã thấy trước rằng rồi sớm thôi tôi sẽ gặp rất nhiều áp lực đến mức có thể suy sụp, rồi dẫn đến những hành động cực đoan gây ra chiến tranh. Để tránh một việc thảm khốc như một cuộc chiến toàn châu Âu diễn ra, tôi xin anh hãy nhân danh tình bạn lâu năm của chúng ta mà ngăn chặn những đồng minh của anh lại bằng mọi cách.
Kaiser cũng đã gửi điện phúc đáp rằng:
...Tôi hiểu rõ anh gặp khó khăn lớn đến mức nào khi phải đối mặt với dư luận nội bộ. Do đó, vì sự quan tâm hết mực với tình bạn chân thành đã gắn kết chúng ta từ trước đến nay, tôi sẽ dùng hết toàn bộ sự ảnh hưởng của mình với Áo để giải quyết mọi thứ để giúp anh có thể đạt được nguyện vọng. Tôi mong rằng anh sẽ tiếp tục sát cánh cùng tôi để đối mặt với những khó khăn sẽ còn xảy ra sắp tới.
Hai người đã hồi đáp với nhau suốt đêm đó và cả trong mấy ngày tiếp theo, đến tận ngày 1 tháng 8. Trong những bức điện, họ không xưng danh với nhau là Sa hoàng và Hoàng đế, mà bằng những tên gọi thân thiết là Willy và Nicky. Nguy cơ về một cuộc chiến thảm khốc toàn châu Âu đã khiến hai người đứng đầu hai đế quốc phải chung tay tìm cách giải quyết. Dù quá khứ có sai lầm ra sao, nhưng ít nhất trong thời điểm này, họ đang thực sự đi những bước đi đúng đắn.

Nicholas II - Tsar (Sa hoàng) của Đế quốc Nga
Nhưng mọi chuyện vẫn không thể nào được giải quyết một cách êm thấm, và hóa ra Sa hoàng Nicholas đã dự đoán đúng - ông đã suy sụp. Dù ngay trong tối ngày 29 tháng 7, Sa hoàng đã ra lệnh ngừng việc điều động quân đội, nhưng chẳng bao lâu sau, một phút tự ái đã gần như phá hủy mọi thứ. Khi bị các quan đại thần gần như ép buộc đưa ra quyết định cuối cùng trong buổi họp ngày 30 tháng 7, Sa hoàng đứng trước một sức ép cực lớn là phải hành động chính xác vì chiến tranh sẽ diễn ra, hay thậm chí đã diễn ra rồi. Nhưng Sa hoàng đã lưỡng lự mà nói rằng: "Hãy nghĩ đến trách nhiệm mà các khanh đang bắt ta phải gánh vác đi! Nên nhớ, đây là một việc làm sẽ đưa vô số người đến chỗ chết!"
Đúng lúc đó, một sĩ quan cấp cao là Ilya Tatistchev - người vốn im lặng từ đầu buổi họp - đã bất ngờ lên tiếng, gần như là than thở: "Vâng, quả thực rất khó để ra quyết định." Và thế là ma xui quỷ khiến thế nào mà Sa hoàng bùng nổ, và ông tuyên bố rằng mình sẽ quyết định. Sa hoàng Nicholas đồng ý điều động quân đội, và khi Kaiser Wilhelm biết được điều đó qua bức điện mà Sa hoàng gửi trong ngày 30 tháng 7, ông cũng gửi điện đáp lại rằng Đức cũng sẽ điều động quân đội.
Sau khi biết tin, Sazonov bèn gọi cho Tham mưu trưởng Nikolai Yanushkevich để thông báo quyết định của Sa hoàng, và ông thậm chí còn bảo rằng có khi hãy đập luôn điện thoại đề phòng trường hợp Sa hoàng lại đổi ý.
Vì sao Sa hoàng Nicholas lại bất ngờ đưa ra quyết định như vậy? Vì ông vốn đã mang tiếng là người thiếu quyết đoán và bị thao túng bởi một gã pháp sư - có lẽ ai cũng từng nghe tên gã rồi, chính là Rasputin. Việc này khiến cả triều đình và dân chúng Nga rất oán hận và Sa hoàng thường bị chế giễu sau lưng về điều này. Sa hoàng rất ghét khi bị nói bóng gió rằng mình không thể ra quyết định khó khăn được, nên ông đã đồng ý ra quyết định điều động quân đội.
Những nỗ lực cuối cùng để ngăn chặn chiến tranh diễn ra khi Đại sứ Đức Pourtales tìm đến gặp Sazonov ngày 1 tháng 8. Thực ra nhiệm vụ của Pourtales là thay mặt Đức chuyển thông báo tuyên chiến, vì Nga đã không trả lời tối hậu thư ngày 31 tháng 7 của Đức - đó là ngừng điều động quân đội trong vòng 12 tiếng, không thì họ sẽ tuyên chiến. Tuy nhiên, Pourtales đã không đưa thông cáo ngay khi gặp Sazonov, mà ông cầu xin Sazonov hãy dừng tất cả lại ngay trước khi quá muộn. Ông hy vọng Nga hãy hồi đáp và chấp thuận yêu cầu trong tối hậu thư của Đức, vì dù chỉ không trả lời thôi cũng đủ gây hậu quả nghiêm trọng rồi.
Nhưng Sazonov từ chối và đưa ra lý do rằng lệnh điều động đã được ban bố rồi, không dễ gì thu lại được. Hơn nữa, điều động quân đội cũng không có nghĩa rằng Nga sẽ toàn lực tham chiến, vì họ chỉ muốn gây áp lực để Áo - Hung không thể chiếm Serbia. Nhưng bấy giờ chẳng ai còn đủ tỉnh táo mà suy xét đến thực hư nữa, quân đội các nước đã được điều động, những lời tuyên chiến đã được đưa ra, ván cờ đã đi đến những nước đi cuối cùng kéo theo chiến tranh. Pourtales không thể làm gì khác, ngoài việc đưa lời tuyên chiến của Đức cho Sazonov.
Về phần nước Pháp, ngay khi biết tin Đức tuyên chiến với Nga, các tướng lĩnh và sĩ quan đã biết chiến tranh không thể tránh khỏi được nữa. Trước đó vào ngày 31 tháng 7, nước Anh cũng đã gửi công hàm yêu cầu cả Pháp và Đức cam kết tôn trọng sự trung lập của Bỉ - đất nước nằm ngay giữa hai cường quốc. Pháp đồng ý và cam kết sẽ thực hiện điều đó, nhưng Đức không trả lời. Tin rằng Đức sẽ dùng Bỉ làm bàn đạp tấn công, Tổng Tư lệnh Pháp là Joseph Joffre yêu cầu chính phủ Pháp cho phép ông chủ động vượt biên giới để ngăn chặn điều đó.
Thế nhưng chính phủ Pháp ra lệnh rằng để tránh xâm phạm đến nước trung lập Bỉ, mọi hành động tấn công chỉ được phép diễn ra sau khi Đức hành động. Quân Pháp được lệnh lùi về sau biên giới với Đức 10km để tránh chủ động xung đột. Động thái này khiến Kaiser Wilhelm nổi giận, và ngay trong ngày 2 tháng 8, ông lệnh cho quân Đức tấn công và chiếm đóng Luxembourg. Vài vụ đấu súng với các đơn vị quân Pháp đã diễn ra khi quân Đức tiến vào lãnh thổ Pháp. Ngày 3 tháng 8, Đức tuyên chiến với Pháp và yêu cầu được phép đưa quân đi qua lãnh thổ Bỉ, nhưng bị từ chối. Rạng sáng ngày 4 tháng 8, Đức đưa quân xâm lược Bỉ, thực hiện chiến lược của họ mang tên Kế hoạch Schlieffen - tức là gấp rút hành quân qua Bỉ để hạ gục Pháp, sau đó mới quay sang phía đông đối đầu với Nga. Vua Albert I của Bỉ đã kêu gọi giúp đỡ, và nước Anh lập tức ra tối hậu thư yêu cầu Đức rút quân. Tất nhiên Đức không trả lời, và đến nửa đêm hôm đó, Anh tuyên chiến với Đức. Chiến tranh đã bùng nổ ở châu Âu.
Giai đoạn đầu cuộc chiến ở mặt trận phía Tây
Tháng 8 năm 1914, chiến tranh bùng nổ ở châu Âu, hàng triệu binh lính từ khắp các quốc gia được điều động. Tuy nhiên trong số các thế lực lớn ở châu Âu, Ý tạm thời tuyên bố trung lập; và ở bên kia đại dương, Mỹ cũng làm tương tự, vì họ không muốn dính dáng gì đến chiến sự ở châu Âu.
Ngày 12 tháng 8, Lực lượng Viễn chinh Anh do tướng Douglas Haig chỉ huy đổ bộ xuống đất Pháp để bắt đầu tham chiến. Và trong khi đó, quân Đức đang gấp rút tìm cách chiếm Liège của Bỉ - thành phố quan trọng nằm gần biên giới Đức với hệ thống 12 pháo đài kiên cố. Kế hoạch của quân Đức là chiếm thành phố trước, sau đó triệt hạ từng pháo đài một. Tuy phải chịu thiệt hại tương đối đáng kể, nhưng quân Đức đã chọc thủng được hàng phòng thủ đầu tiên, tràn vào thành phố và bắt đầu vây hãm các pháo đài của quân Bỉ. Trong quá trình kiểm soát thành phố, nhiều dân thường đã bị hành quyết, và các quốc gia đối địch đã phóng đại những vụ việc này lên nhằm mục đích tuyên truyền. Dư luận của các quốc gia trung lập bắt đầu có cái nhìn thiếu thiện cảm hơn với Đức.
Trong khi đó, Pháp cũng bắt đầu triển khai chiến lược của mình, mang tên Kế hoạch XVII. Thực chất Kế hoạch XVII của Pháp chỉ đơn thuần là gấp rút huy động các Quân đoàn và tổ chức tấn công biên giới Đức ngay khi có thể. Một loạt các trận đánh dọc biên giới phía bắc nước Pháp đã diễn ra, kéo dài trong suốt tháng 8. Chiến thuật tấn công dồn dập của quân Pháp đã không hiệu quả, ngược lại còn khiến họ chịu thương vong nặng nề dưới họng súng máy quân Đức. Kết quả cuối cùng là quân Pháp phải rút lui toàn bộ các quân đoàn với thương vong nặng nề - ước tính lên tới 329,000 người chết, bị thương và mất tích. Quân Đức giành được thắng lợi chiến lược, nhưng thương vong cũng không ít - 256,000 người chết, bị thương và mất tích. Lực lượng Viễn chinh Anh cũng đã có trận đụng độ với quân Đức ở Mons ngày 25 tháng 8, nhưng bị áp đảo quân số nên cũng nhanh chóng chịu thương vong lớn và phải rút lui cùng quân Pháp.

Quân Đức trong trận Marne
Các lực lượng phe Hiệp ước liên tục rút lui, cuối cùng dừng lại ở cạnh sông Marne - cách Paris hơn 60km. Tại đây từ ngày 6 đến ngày 12 tháng 9 đã diễn ra trận sông Marne lần thứ nhất. Lần này, Đức là bên bất lợi hơn khi ngày càng cách xa nguồn tiếp tế và trở nên mệt mỏi sau các cuộc hành quân và những trận chiến kéo dài. Hơn nữa, Đức còn buộc phải rút một số binh đoàn từ mặt trận phía Tây về phía Đông Phổ để đối phó với quân Nga bắt đầu rục rịch tấn công. Rồi sau đó, quân Đức còn mắc sai lầm khi hai tập đoàn quân thứ nhất và thứ hai của họ ở cánh phải đã bỏ trống 1 vùng đất rộng 50km2 khi tiến quân ngược hướng nhau tạo thành điểm yếu để cho quân Anh và Pháp khai thác.
Đó là chưa kể đến trong khi giao chiến ác liệt, do hệ thống liên lạc yếu kém mà chỉ huy quân Đức là Helmuth von Moltke không thể biết được chính xác những gì đang diễn ra. Vì vậy, ông đã không kịp ứng biến - khi quân Anh và Pháp tấn công dồn dập mạnh mẽ thì Moltke lại không điều các lực lượng Đức đang tấn công Alsace và Lorraine về tiếp ứng. Kết quả là quân Đức bị đẩy lùi và buộc phải chủ động rút lui về phía sông Aisne, sau đó xây dựng hệ thống chiến hào để ngăn chặn quân Pháp. Trận sông Marne lần thứ nhất kết thúc với thương vong nặng nề cho các bên - Pháp thiệt hại 250,000 người, Anh thiệt hại hơn 12,000 người và Đức thiệt hại đến 298,000 người (tính cả số bị bắt).
Việc quân Đức phải rút lui mà không tiến vào được Paris đã làm phá sản hoàn toàn Kế hoạch Schileffen. Một số tài liệu còn cho rằng Moltke đã viết trong bản báo cáo gửi về cho Kaiser Wilhelm rằng: "Tâu Bệ hạ, chúng ta đã thua cuộc chiến này." Moltke sau đó cũng bị buộc phải từ chức, nhường lại vị trí chỉ huy cho Erich von Falkenhayn.
Chiến thắng tại Marne đã thành công chặn được bước tiến quân Đức, vãn hồi được phần nào những thất bại tại biên giới phía bắc. Sau đó, hai bên bắt đầu một cuộc chạy đua hướng ra biển, khi bên nào cũng tìm cách đánh úp bên còn lại theo đường phía bắc. Những cuộc giao tranh đủ quy mô diễn ra liên tiếp, cuối cùng dẫn đến Trận Ypres lần thứ nhất, kéo dài từ 19 tháng 10 đến 22 tháng 11. Tuy chịu thiệt hại nặng nề, nhưng quân đội phe Hiệp ước vẫn giữ được Ypres, ngăn cản quân Đức vượt qua đánh úp. Không bên nào thực sự giành được thắng lợi quyết định, và đều chịu thương vong lớn - quân Anh và Pháp mất 129,000 người và quân Đức cũng mất 130,000 người. Vì ở thế giằng co như vậy, nên hai bên chuyển sang một chiến thuật mới. Dọc theo hàng trăm km tiền tuyến trải dài từ eo biển Manche tới sát biên giới Thụy Sĩ, cả hai đều đào những con hào kéo dài để tránh đạn súng máy và pháo của đối phương, đồng thời thiết lập trận địa phòng thủ và tấn công kết hợp. Đây chính là chiến tranh hầm hào - một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của Thế chiến thứ Nhất.
Trong khi thế trận giằng co ác liệt ở mặt trận phía Tây trong những con hào kéo dài đến cả trăm km thì ở trên biển, chiến sự cũng đã bắt đầu. Ngày 28 tháng 8, hải quân Anh thắng trận hải chiến đầu tiên tại Vịnh Heligoland Bight, đánh chìm 3 tuần dương hạm của Đức. Sau đó, Anh lập tức cho hạm đội của mình phong tỏa các khu vực biển của Đức, đương nhiên ục tiêu chính là muốn đánh quỵ nền kinh tế của đế quốc này. Nhưng chỉ một tuần sau trận hải chiến, tuần dương hạm HMS Pathfinder của Anh trở thành nạn nhân của món vũ khí mới - đó là những quả ngư lôi đến từ tàu ngầm của Đức. HMS Pathfinder đã bị đánh đắm, và sự xuất hiện của những chiếc tàu ngầm này đã gây ra thách thức không hề nhỏ với hải quân Anh.

Chiến tranh hầm hào, hình ảnh biểu tượng khi nhắc tới Thế chiến thứ Nhất
Mặt trận phía Đông và các khu vực thuộc địa
Ở mặt trận phía đông, Nga chủ động tấn công trước bằng cách đưa quân đánh vùng Đông Phổ - đây cũng là lý do khiến Đức phải rút một lượng quân đang ở Pháp gấp rút quay về, dẫn đến những kết quả bất lợi ở phía tây. Đức và Nga sau đó đụng độ nhau trong một trận đánh lớn ở Tannenberg cuối tháng 8 năm 1914 với quân số không chênh lệch quá nhiều. Thế nhưng trận Tannenberg là một thảm họa quân sự với Nga, khi họ hứng chịu thất bại toàn diện với thiệt hại khủng khiếp - hơn 30,000 người chết và bị thương, nhưng có đến 90,000 lính bị bắt làm tù binh. Thất bại khủng khiếp này đã khiến chỉ huy quân Nga là Alexander Samsonov hổ thẹn mà tự sát trong khi cùng tàn quân rút lui. Trong khi đó, quân Đức dưới sự chỉ huy của Paul von Hindenburg và Erich Ludendorff chỉ tổn thất hơn 13,000 người.
Nhưng thảm họa chưa dừng lại ở đó. Chỉ vài ngày sau trận Tannenberg, Nga và Đức tiếp tục đụng độ nhau trong trận Hồ Masurian lần thứ nhất, kéo dài trong 2 tuần đầu tiên của tháng 9. Quân Đức dưới sự chỉ huy của Hindenburg và Ludendorff tiếp tục giành được một thắng lợi lớn nữa. Tổn thất của quân Nga lớn tương tự như trong trận Tannenberg, và chủ yếu thiệt hại ở việc rất nhiều lính bị bắt làm tù binh. Hai thảm bại liên tiếp đã buộc Nga phải rút lui khỏi Đông Phổ; và chỉ trong có 6 tuần, cộng cả một số trận đánh lẻ tẻ khác, quân Nga đã tổn thất đến trên dưới 300,000 người.

Tù binh Nga bị bắt sau trận Tannenberg
Đức dù gặp bất lợi ở phía tây, nhưng đã thành công bảo vệ được phía đông và gây thiệt hại lớn cho Nga. Nhưng đồng minh của họ là Áo - Hung thì không được may mắn như thế. Ngay đầu cuộc chiến, Áo - Hung đã đưa quân tấn công Serbia; thế nhưng đội quân thiếu hiệu quả của Áo - Hung đã hứng chịu thất bại tại Cer với thương vong gấp đôi so với Serbia. Nhưng trận thua tại Cer vẫn chưa phải thảm họa khủng khiếp nhất với Áo - Hung.
Ngay khi biết tin đồng minh Đức đã ép Nga phải rút lui với tổn thất nặng nề; tham mưu trưởng quân đội Áo - Hung là Franz Conrad von Hötzendorf bèn mở chiến dịch tấn công quân Nga đang đe dọa vùng Galicia. Áo - Hung huy động một lực lượng lớn, lên tới 950,000 quân, đối đầu với hơn 1 triệu quân Nga. Trận đánh tại Galicia kéo dài từ ngày 23 tháng 8 tới ngày 11 tháng 9, với kết quả là một trận thua nặng nề của Áo - Hung. Quân Nga thiệt hại từ 200,000 tới 300,000 người; nhưng thiệt hại của Áo - Hung còn lớn hơn, khi họ tổn thất đến gần một nửa lực lượng. Thảm bại ở Galicia cũng dẫn tới việc Nga chiếm được Đông Galicia và Bắc Bukovina, trong khi Áo - Hung buộc phải rút lui khỏi khu vực. Nga thừa thắng bèn đem quân vây hãm Przemyśl - thành phố kiêm pháo đài chắn ngang đường dẫn tới Kraków. Cuộc vây hãm này cuối cùng kéo dài tới hơn 6 tháng, và kết thúc khi lực lượng Áo - Hung bên trong thành phố đầu hàng vào tháng 3 năm 1915.
Tình thế bất lợi của Áo - Hung đã khiến Đức buộc phải đưa quân tìm cách giải vây bằng cách tấn công về hướng Warsaw, mục đích là ép Nga phải đưa quân quay trở lại, nới lỏng vòng vây ở Przemyśl. Đức và Nga sau đó đã đụng độ nhau trong một loạt trận đánh diễn ra suốt hơn 3 tuần tại khu vực gần thành phố Łódź. Cả hai bên đều chịu thiệt hại nặng nề, nhưng không bên nào thực sự giành được thắng lợi áp đảo. Dù vậy, Đức vẫn đã ngăn chặn được kế hoạch tấn công của Nga vào vùng Silesia.

Tranh minh họa cuộc vây hãm Przemyśl
Trong khi đó thì vào cuối tháng 10 năm 1914, Đế quốc Ottoman bắt đầu nhảy vào tham chiến bằng cách cho hải quân pháo kích các cảng của Nga ở Odessa và Sevastopol. Để đáp trả, quân Nga cũng bắt đầu tấn công vào lãnh thổ Ottoman ở Caucasus.
Với việc chiến tranh bùng nổ ở châu Âu, thì tình hình xảy ra cũng tương tự ở các khu vực thuộc địa của các cường quốc tham chiến. Ở châu Phi, quân Đức tấn công thuộc địa Đông Phi của Anh (nay là Kenya) và chiếm Taveta vào ngày 15 tháng 8 năm 1914. Ở chiều ngược lại, quân đội phe Hiệp Ước cũng tấn công và chiếm thuộc địa Togoland của Đức (nay là Togo) vào ngày 26 tháng 8 năm 1914. Anh cũng đưa quân tấn công Cameroon thuộc Đức, nhưng hứng chịu thất bại liên tiếp vào cuối tháng 8 và đầu tháng 9. Ngày 26 tháng 9 năm 1914, quân Đức chiến thắng thêm một trận nữa ở Sandfontein trong thuộc địa Tây Nam Phi thuộc Đức, gây thiệt hại lớn cho quân Anh. Rồi hơn 1 tháng sau, Anh tiếp tục hứng chịu thất bại bẽ bàng ở Tanga ở Đông Phi thuộc Đức, khi dù có quân số áp đảo nhưng vẫn thua trước lối đánh du kích hiệu quả của quân Đức.
Ở châu Á, chiến tranh cũng bắt đầu khơi màn khi Nhật Bản tuân thủ hiệp ước đã ký kết với nước Anh từ năm 1902, bằng cách tuyên chiến với Đức. Nhật Bản đưa quân vây hãm căn cứ hải quân của Đức ở Thanh Đảo thuộc Trung Quốc, và chiếm được nơi này ngày 7 tháng 11 năm 1914. Quân Đức ở các thuộc địa Samoa và New Guinea thuộc châu Úc cũng đầu hàng lần lượt vào tháng 8 và tháng 9 sau khi bị tấn công bởi các lực lượng đến từ New Zealand và Australia.
Trên biển, hải quân Đức gây thiệt hại cho hải quân Anh trong trận Coronel diễn ra ngoài khơi Chile ngày 1 tháng 11 năm 1914. Trong trận này, phân đội Đông Á của Phó đô đốc Maximilian von Spee đã đánh chìm 2 tuần dương hạm bọc giáp của Anh, khiến toàn bộ thủy thủ đoàn bỏ mạng. Độ 5 tuần sau, hạm đội của von Spee tiếp tục chạm trán hải quân Anh ở ngoài khơi Quần đảo Falkland. Nhưng lần này, đối đầu với hạm đội đông đảo hơn nhiều, hải quân Đức chịu thiệt hại nặng. Đức mất 4 tuần dương hạm, trong đó có cả chiếc chỉ huy của von Spee.

Tranh minh họa trận Coronel
Ở chiến trường Trung Đông, quân Anh cũng bắt đầu các động thái phản công Ottoman bằng việc chiếm cảnh Basra của họ ngày 23 tháng 11 năm 1914. Đây là một chiến thắng quan trọng, vì nó giúp Anh đảm bảo có được nguồn cung dầu từ các mỏ ở vùng Ba Tư có vai trò tối quan trọng trong việc cung cấp nhiên liệu cho tàu chiến.
Thế trận giằng co trong năm 1915
Mùa đông năm 1914, cuối cùng Áo - Hung cũng chiếm được Belgrade của Serbia cuối tháng 11. Nhưng ngay sau đó, quân Serbia tổ chức phản công và chiếm lại được Belgrade ngày 15 tháng 12. Quân đội Áo - Hung tiếp tục hứng chịu thiệt hại nặng nề, và các trận đánh ác liệt ở Serbia đã khiến họ mất tới gần 300,000 quân; trong khi đó quân Serbia cũng tổn thất tới trên 200,000 người. Ở Caucasus, Ottoman cũng hứng chịu thất bại nặng nề trong trận Sarikamish, kéo dài từ ngày 22 tháng 12 tới tận ngày 17 tháng 1 năm 1915. Ottoman mất hơn 60,000 quân - trong đó rất nhiều người chết vì lạnh. Thậm chí trước cả khi trận đánh diễn ra, Ottoman đã mất tới xấp xỉ 25,000 quân vì cái lạnh khắc nghiệt. Trong khi đó, Nga chỉ mất gần 30,000 quân trong toàn trận đánh và đe dọa được một loạt các khu vực biên giới của Ottoman.
Ở mặt trận phía tây, quân Pháp bắt đầu tổ chức cuộc phản công quy mô lớn đầu tiên đánh vào hàng phòng thủ của quân Đức. Trận Champagne lần thứ nhất bắt đầu ngày 20 tháng 12, và dùng dằng kéo dài tới tận tháng 3 năm 1915. Một trận đánh ác liệt, nhưng cuối cùng không bên nào thực sự giành được lợi thế tuyệt đối. Đức mất hơn 46,000 quân; trong khi thiệt hại của Pháp gấp đôi con số đó - họ mất hơn 93,000 người. Tuy nhiên, mùa đông năm đó đánh dấu một sự kiện đặc biệt không chỉ trong Thế chiến thứ Nhất, mà còn trong rất nhiều cuộc chiến trên thế giới nói chung. Đó chính là sự kiện Hưu chiến lễ Giáng sinh, diễn ra chủ yếu ở một số khu vực tiền tuyến phía bắc nước Pháp.
Thực tế thì từ mùa thu năm 1914, sau khi thiết lập hệ thống hầm hào thì tình hình đã ở thế giằng co, và nhịp độ giao tranh dần giảm xuống, cuối cùng dẫn đến việc binh lính hai bên trèo ra khỏi hào để gặp gỡ, ăn mừng và chúc tụng đối phương trong ngày Giáng sinh. Một sự kiện đẹp đẽ, nhưng không thực sự diễn ra trên diện rộng, và cũng hầu như chỉ diễn ra ở vài khu vực giằng co giữa quân Anh và quân Đức. Ở hầu hết các khu vực khác, tình thế vẫn căng thẳng và binh lính hai bên vẫn sẵn sàng tiêu diệt đối phương nếu có cơ hội. Quân Pháp hầu như không có ý định thả lỏng hay hưu chiến gì cả, trong khi nhiều sĩ quan Đức kịch liệt phản đối và ngăn cấm bất cứ hành động tỏ ra thiện chí nào.

Tranh minh họa sự kiện Hưu chiến lễ Giáng sinh 1914
Vào tháng 1 năm 1915, Đức bắt đầu áp dụng chiến thuật mới khi huy động các tàu bay Zeppelin rải bom xuống các cảng của Anh là King’s Lynn và Great Yarmouth. Trong khi đó hải quân Anh vẫn siết chặt vòng vây phong tỏa trên biển với Đức, và Đức cũng tìm cách trả đũa và tuyên bố các tàu ngầm của họ sẽ tấn công và đánh chìm bất cứ tàu nào thuộc phe Hiệp Ước - kể cả tàu buôn - nếu tàu đó xuất hiện trong các khu vực biển xung quanh nước Anh.
Tại mặt trận phía đông, Thống chế Đức Hindenburg cho phát động Chiến dịch mùa đông nhắm vào quân Nga. Đức và Nga tiếp tục đụng độ nhau trong trận Hồ Masurian lần thứ hai - Nga tiếp tục hứng chịu thiệt hại nặng nề và phải rút lui hoàn toàn khỏi Đông Phổ. Dù vậy, Nga vẫn giành được một thắng lợi có giá trị khi cuối cùng thành phố Przemyśl cũng đầu hàng vào ngày 22 tháng 3 năm 1915; gần 100,000 quân Áo - Hung bị bắt làm tù binh. Trong số các nước tham chiến, chịu nhiều thất bại và thiệt hại nhân mạng lớn nhất đang là Đế quốc Áo - Hung, khi tính đến tháng 3 năm 1915, số người thương vong và bị bắt làm tù binh của họ đã xấp xỉ đạt tới con số 2 triệu người. Trước đó thì vào tháng 2 năm 1915, Pháp và Anh cũng đã cử tàu chiến đến eo biển Dardanelles với mục đích uy hiếp thủ đô Istanbul của Đế quốc Ottoman. Tàu chiến Pháp và Anh tổ chức pháo kích một số pháo đài ven biển, nhưng cũng chịu tổn thất khi 2 tàu bị đánh chìm do trúng mìn, 3 tàu khác hư hại nặng. Vì thế, cuộc tấn công buộc phải ngừng lại.
Quay trở lại mặt trận phía tây, thì vào tháng 3 năm 1915, quân Anh tổ chức một cuộc tấn công vào quân Đức ở Neuve Chapelle. Quân Anh chiếm được Neuve Chapelle, nhưng chịu thiệt hại nặng khi mất tới 11,000 quân và vẫn không thể mở được đường tiến ra Lille. Quân Đức thương vong cũng xấp xỉ quân Anh, nhưng họ vẫn phòng thủ được thành công nhờ các hàng rào dây kẽm gai và các ụ súng máy - thứ đã gây thiệt hại lớn cho đối phương trong những cuộc giao chiến.
6 tuần sau đó, trong trận Ypres lần thứ hai diễn ra từ ngày 22 tháng 4 đến ngày 25 tháng 5; quân Đức sử dụng khí độc lần đầu tiên trên chiến trường phía tây. Những màn khói độc được quân Đức thả ra đã buộc các đơn vị quân phe Hiệp Ước phải rời khỏi hầm hào để tránh bị ngạt mà chết. Thế nhưng quân Đức lại không có đủ lực lượng để tiến hành truy kích nhằm khai thác tối đa lợi thế. Việc xuất hiện của hơi độc cũng đánh dấu sự bắt đầu của những cuộc chạy đua vũ khí sinh học, và binh lính ở tiền tuyến của cả hai bên bắt đầu được trang bị mặt nạ phòng độc - một hình ảnh cũng rất biểu tượng khi nhắc đến Thế chiến thứ Nhất.

Lính Đức đeo mặt nạ phòng độc - hình ảnh xuất hiện thường xuyên giai đoạn sau, khi các bên bắt đầu chạy đua trong việc sử dụng vũ khí hóa học
Trong khi tình hình ở các mặt trận nhìn chung ở thế giằng co, phe Hiệp Ước bắt đầu tìm cách mở một tuyến đường trên biển để tiếp tế và viện trợ cho Nga - lúc này hầu như đã bị chia cắt với các nước đồng minh. Con đường khả thi duy nhất là đi từ Địa Trung Hải qua eo biển Bosphorus sang Biển Đen, nhưng tuyến đường này trực tiếp bị Đế quốc Ottoman chặn lại. Do đó, phe Hiệp Ước nghĩ đến việc mở một chiến dịch quy mô lớn để khai thông thế bế tắc. Giữa hai mục tiêu có vẻ khả dĩ là Đế quốc Áo - Hung và Đế quốc Ottoman, phe Hiệp Ước quyết định nhắm vào "bệnh nhân già của châu Âu". Nếu loại được Ottoman khỏi vòng chiến đấu thì không những khai thông được tuyến đường tiếp tế và viện trợ cho Nga, mà còn có thể thuyết phục một số nước vùng Balkan như Hy Lạp hay Bulgaria gia nhập theo phe Hiệp Ước.
Tháng 4 năm 1915, các lực lượng phe Hiệp Ước tổ chức đổ bộ quy mô lớn lên bán đảo Gallipoli thuộc Ottoman. Mục tiêu đầu tiên của cuộc đổ bộ là chiếm được các pháo đài ven biển, từ đó mở đường cho hải quân phe Hiệp Ước tiến thẳng đến Istanbul. Nhưng quân đội phe Hiệp Ước gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ từ quân Ottoman, khiến họ không thể tiến xa được và bị mắc kẹt trên các bãi biển.
Ngoài ra, ngay trước khi cuộc đổ bộ diễn ra, Đế quốc Ottoman đã chính thức bắt đầu những cuộc thảm sát và thanh lọc sắc tộc nhắm vào người dân tộc Armenia - nhóm thiểu số vẫn thường bị đàn áp. Binh lính người Armenia bên trong quân đội Ottoman bị tước vũ khí rồi xử tử, hàng trăm trí thức và lãnh đạo dân tộc Armenia bị trục xuất khỏi Istanbul, hàng trăm nghìn người dân thường - phần nhiều là phụ nữ, trẻ em và người già - bị ép đi tới các sa mạc khô cằn ở Syria và rồi bị để mặc ở đó. Những cuộc thảm sát và thanh lọc sắc tộc này kéo dài tới tận năm 1917, và đã khiến ít nhất 1 triệu người Armenia thiệt mạng. Các nước phe Hiệp Ước đã cực lực phản đối hành động này của Đế quốc Ottoman, và gọi đây là tội ác chống lại loài người.

Hình ảnh phụ nữ và trẻ em người Armenia bị Đế quốc Ottoman ép phải đi tới các sa mạc ở Syria
Thế rồi trong khi phe Hiệp Ước giằng co quyết liệt với quân đội Ottoman trên bán đảo Gallipoli thì ở mặt trận phía đông, quân Đức và Áo - Hung đã hợp tác mở một cuộc tấn công lớn nhắm vào quân Nga. Chiến dịch Gorlice - Tarnów diễn ra từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1915 đã kết thúc với thắng lợi dành cho phe Liên minh Trung Tâm; liên quân Đức và Áo - Hung đã chọc thủng được các tuyến phòng thủ của Nga, chiếm lại thành phố Przemyśl. Cả hai phe đều hứng chịu thiệt hại nặng nề, với thương vong của mỗi bên lên tới xấp xỉ hơn nửa triệu quân; nhưng Đức và Áo - Hung đã buộc Nga phải rút khỏi Galicia. Sĩ khí quân Nga vì thế bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Ở mặt trận phía tây thì vào tháng 5 năm 1915, quân đội phe Hiệp Ước cũng phát động Trận Artois lần thứ hai với mục đích tìm cách xuyên phá tuyến phòng thủ của quân Đức. Quân Pháp đánh mạnh vào cao điểm Vimy, trong khi quân Anh đồng thời tấn công vào Festubert và cao điểm Aubers. Phe Hiệp Ước chịu thương vong tổng cộng hơn 130,000 người, nhưng quân Pháp chỉ chiếm lại được một khu vực rộng 16km2 và quân Anh chỉ tiến thêm được 1,6km ở Festubert. Trong khi đó, quân Đức chịu thương vong khoảng 73,000 người, nhưng các tuyến phòng thủ vẫn chưa bị xuyên phá.
Cuối tháng 5 năm 1915, cuối cùng sau gần 1 năm đứng ngoài, Ý cũng tham chiến và gia nhập phe Hiệp Ước vì những lời hứa hẹn về lãnh thổ có thể lấy được nếu Áo - Hung bị đánh bại. Ý tuyên chiến với Đế quốc Áo - Hung vào ngày 23 tháng 5 và 1 tháng sau đó đụng độ quân Áo - Hung trong Trận sông Isonzo lần thứ nhất. Dù có lực lượng đông gấp đôi đối phương, nhưng Ý vẫn không giành được chiến thắng. Trận đánh kết thúc bất phân thắng bại, và Ý mất 15,000 người - nhiều hơn so với con số 10,000 thương vong của Áo - Hung.
Ở mặt trận phía đông thì đến tháng 8, khủng hoảng của quân Nga vẫn tiếp tục. Sau khi hứng chịu những thất bại nặng từ các chiến dịch phản công của phe Liên minh Trung tâm, Nga buộc phải cho toàn bộ các lực lượng triệt thoái, từ bỏ hoàn toàn Ba Lan. Vì thế quân Đức chiếm được Warsaw ngày 5 tháng 8, dẫn đến việc Sa hoàng ra lệnh bãi nhiệm vị trí chỉ huy của Đại Công tước Nicholas và tự mình chỉ huy quân đội. Có lẽ đây là một con dao hai lưỡi, vì nó khiến Sa hoàng trực tiếp gắn liền với những thành tích quân sự của quân đội Nga. Và theo thời gian, tình hình không cải thiện là bao, khiến danh tiếng của Sa hoàng vốn đã không mấy tốt đẹp gì, lại ngày càng tệ hơn.
Trong lúc này thì ở bán đảo Gallipoli, quân tiếp viện của phe Hiệp Ước bắt đầu đổ bộ xuống Vịnh Suvla. Thế nhưng dù có tấn công với cường độ mạnh ra sao, họ vẫn không xuyên thủng được các hàng phòng thủ kiên cố và vững chắc của quân đội Ottoman. Binh lính của cả hai bên đều sống trong tình trạng cực kỳ tồi tệ. Họ bị cái nóng như thiêu như đốt hành hạ, môi trường sống bẩn thỉu vì ruồi muỗi khiến bệnh dịch lan tràn. Tình hình ở bán đảo Gallipoli bế tắc vẫn hoàn bế tắc.

Binh lính phe Hiệp Ước đổ bộ vào bán đảo Gallipoli
Ngoài ra, một vài sự kiện đáng chú ý trên biển trong giai đoạn này có thể kể đến là việc các tàu ngầm Đức vẫn duy trì chiến lược tấn công và đánh đắm các tàu của phe Hiệp Ước xuất hiện trong vùng biển nước Anh. Nhưng chính vì thế mà Đức lại vô tình gây thù chuốc oán với Mỹ, khi vài tàu hàng hải bị họ đánh đắm có cả nhiều hành khách là người Mỹ. Dư luận Mỹ bắt đầu phản ứng mạnh mẽ, và Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson cũng lên tiếng đe dọa, cảnh báo Đức. Chính vì vậy mà Đức đã phải ngừng việc tấn công các tàu hàng hải thông thường.
Quay trở lại mặt trận phía tây, các lực lượng Anh và Pháp quyết định mở các chiến dịch phản công quy mô lớn trong mùa thu để phá vỡ thế bế tắc trên tiền tuyến; đồng thời giảm áp lực mà Đức cùng Áo - Hung đang gây ra cho Nga ở mặt trận phía đông. Trận Artois lần thứ ba và Trận Champagne lần thứ hai diễn ra với việc quân Pháp chủ động tấn công, kéo dài từ cuối tháng 9 tới đầu tháng 11 năm 1915. Trong khi đó thì quân Anh cũng không ngồi yên. Họ cũng mở một cuộc tấn công vào Loos, trận đánh kéo dài từ cuối tháng 9 tới đầu tháng 10, đồng thời đánh dấu việc quân Anh lần đầu tiên sử dụng khí độc.
Tuy nhiên, cuộc phản công quy mô lớn này của Anh và Pháp thất bại mà không đạt được mục đích. Trong trận Artois lần thứ ba, các lực lượng phe Hiệp Ước đẩy được tiền tuyến đi lên khoảng 2-3km; nhưng trong các trận còn lại ở Champagne và Loos, quân Đức đều trụ vững. Kết quả cuối cùng thì tình hình ở mặt trận phía tây vẫn không thay đổi gì nhiều - vẫn bế tắc và binh lính hai bên tiếp tục giằng co với nhau trong hàng trăm km hầm hào. Thương vong của các bên đều nặng nề - Đức mất gần 150,000 quân; Anh mất gần 60,000 quân và Pháp mất hơn 190,000 quân.

Binh lính Serbia
Để mở một chiến trường mới nhằm giúp đỡ Serbia, Anh và Pháp triển khai một cuộc đổ bộ lên Salonika ở Hy Lạp vào đầu tháng 10. Thế nhưng động thái này đã quá muộn, chỉ khoảng 10 ngày sau đó, Bulgaria gia nhập phe Liên minh Trung tâm và tuyên chiến với Serbia. Với sự tham gia của quân đội Bulgaria, phe Liên minh Trung tâm nhanh chóng áp đảo Serbia và chiếm được Belgrade vào trung tuần tháng 10 năm 1915. Tàn quân Serbia buộc phải rút lui vào các khu vực rừng núi của Albania, và thiệt hại của họ thì vô cùng khủng khiếp - tổng thương vong đến lúc này của Serbia đã lên tới ít nhất một phần ba toàn quân số.
Bế tắc là tình hình chung đang diễn ra ở các mặt trận khác. Ở Ý, quân đội nước này liên tục mở các cuộc tấn công nhằm vào quân đội Áo - Hung ở gần sông Isonzo. Dù bị áp đảo quân số, nhưng quân Áo - Hung nắm lợi thế về địa hình khiến quân Ý không tài nào đánh bật họ ra được khỏi các vị trí phòng thủ. Ở Trung Đông, cuộc tấn công của quân Anh nhằm vào Baghdad bị chặn đứng trong trận Ctesiphon. Quân Anh sau đó rút lui về Kut và quân Ottoman vây hãm. Còn ở bán đảo Gallipoli, sau những nỗ lực không thành để đánh bật quân Ottoman và chiếm được nơi này, quân đội phe Hiệp Ước quyết định rút lui vào đầu tháng 12. Nhờ lên kế hoạch một cách hoàn hảo, toàn bộ các lực lượng của Anh và Pháp rút lui an toàn mà quân Ottoman không hề mảy may biết để truy kích. Tuy vậy, chiến dịch Gallipoli vẫn là một thất bại khó nuốt trôi được với phe Hiệp Ước, và là một chiến tích đáng giá với Đế quốc Ottoman.
Nhìn chung, 1915 là một năm đáng quên với phe Hiệp Ước trên mọi mặt trận - thiệt hại về người càng ngày càng lớn, mọi nguồn lực của quốc gia dần bị vắt kiệt, nhưng thành quả trên chiến trường rất ít ỏi. Hầu như mọi mặt trận đều lâm vào tình trạng bế tắc. Nhưng vẫn chưa có đề xuất hòa bình nào được đưa ra, hay thậm chí là được nhắc đến. Trái lại, tất cả các bên tham chiến đều chuẩn bị cho những chiến dịch tấn công còn lớn hơn trong năm 1916, sau khi đã rút ra kinh nghiệm từ những thất bại họ từng hứng chịu trong năm 1915. Dường như tất cả các bên vẫn tin rằng một chiến thắng quyết định trên chiến trường vẫn còn nằm trong tầm tay, và nếu có được chiến thắng đó thì thế bế tắc của cuộc chiến sẽ bị phá vỡ.
Năm 1916, Verdun và Somme
Khi Đại chiến bắt đầu vào năm 1914, dường như cả châu Âu đều nghĩ cuộc chiến này sẽ nhanh chóng kết thúc. Nhưng giờ đây, sau 1 năm rưỡi chiến tranh, thương vong của các bên đã lên tới hàng triệu người, chẳng có dấu hiệu nào cho thấy cuộc chiến sẽ sớm kết thúc, các quốc gia tham chiến đã huy động đến mọi nguồn lực. Đấy là còn chưa kể đến các cuộc chạy đua phong tỏa trên biển đã gây nên tình trạng khan hiếm lương thực, nguyên liệu thô và dầu ở nhiều quốc gia châu Âu. Nền kinh tế các nước tham chiến bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nếu không muốn nói là gần như đứt gãy hoàn toàn ở một số trường hợp.
Ở mặt trận phía tây, Anh và Pháp tiếp tục giằng co với Đức trong các con hào kéo dài hàng trăm km. Bế tắc và đình trệ là tình trạng chung trên toàn mặt trận, nhất là sau các chiến dịch tấn công quy mô lớn không đạt được mục đích. Ở mặt trận phía đông, Nga sau cuộc rút lui quy mô lớn đã dần ổn định lại và thiết lập hàng phòng thủ chống lại Đức và Áo - Hung, dù thương vong họ phải chịu tính từ đầu cuộc chiến là cực lớn. Ở mặt trận Ý, quân đội nước này không giành được lợi thế nào trong một loạt các trận đánh với quân đội Áo - Hung.
Ở vùng Balkan, sự giúp sức của Bulgaria đã giúp Liên minh Trung tâm đánh gục được Serbia. Đến tháng 1 năm 1916, quân đội Áo - Hung bắt đầu tấn công Montenegro. Mặc dù quân đội Montenegro ban đầu giành được thắng lợi trong trận Mojkovac ngày 6 và 7 tháng 1, nhưng cuối cùng 3 tuần sau đó vẫn phải đầu hàng trước quân đội Áo - Hung đông đảo hơn gấp bội. Ở khu vực Caucasus, Nga bất ngờ mở chiến dịch tấn công giữa lúc mùa đông đang khắc nghiệt, khiến Ottoman không kịp phản ứng. Nga giành được thắng lợi lớn với thương vong chỉ bằng một phần năm so với đối phương, chiếm được thành phố Erzurum, tràn vào được khu vực Tiểu Á. Đến tháng 4 năm 1916, Nga đã thành công chiếm được cảng Trebizond dẫn ra Biển Đen của Ottoman.

Lính Nga chụp ảnh bên khẩu pháo họ chiếm được từ quân Ottoman
Vào tháng 2 năm 1916, ở mặt trận phía tây, Đức bắt đầu lên kế hoạch cho một cuộc tấn công quy mô lớn nhắm vào quân Pháp ở Verdun. Chỉ huy quân Đức là Erich von Falkenhayn tin tưởng rằng người Pháp sẽ bảo vệ Verdun tới giọt máu cuối cùng, vì ý nghĩa biểu tượng lớn lao của nơi này với nước Pháp và thực tế rằng Verdun là mũi nhọn trong hệ thống phòng phủ của Pháp. Bản thân Falkenhayn sau cuộc chiến đã nói rằng mục đích của trận Verdun là để ép Pháp vào một trận đánh tiêu hao, để "rút sạch máu" của quân Pháp. Như chính Falkenhayn đã viết trong hồi ký rằng mình đã gửi một báo cáo phân tích tình hình chiến lược cho Kaiser Wilhelm, trong đó có đoạn ông viết rằng:
Chuỗi phòng thủ ở Pháp đã xuất hiện điểm yếu. Một bước ngoặt lớn - điều nằm ngoài khả năng của chúng ta trong bất cứ trường hợp nào - cũng là điều không cần thiết. Những nhiệm vụ trong tầm tay của chúng ta là ép Bộ Tổng tham mưu của người Pháp phải ném vào nơi này mọi binh lính mà họ có. Nếu thực sự làm thế, thì quân Pháp sẽ chảy máu cho đến chết.

Erich von Falkenhayn, chỉ huy quân Đức ở mặt trận phía tây
Tất nhiên, nhiều sử gia ngờ rằng mục đích của trận Verdun không chỉ có thế, mà chỉ là cách nói theo dạng "chữa cháy" của Falkenhayn sau những thương vong khổng lồ cả hai bên hứng chịu trong trận đánh. Trận Verdun cuối cùng kéo dài đến tận gần 10 tháng và là một trong những trận đánh đẫm máu nhất toàn cuộc chiến - một "cối xay thịt" đúng nghĩa. Trong toàn trận đánh, Đức và Pháp đã ném vào nơi này tổng cộng gần 2,5 triệu binh lính tham chiến.
Trận Verdun bắt đầu ngày 21 tháng 2 năm 1916, và được mở màn bằng hàng loạt các màn pháo kích dữ dội của quân Đức. Chỉ sau vài tiếng đồng hồ pháo kích, các khu rừng lân cận đã bị san phẳng hoàn toàn. Đến chiều, bộ binh Đức tổ chức tấn công vào tuyến phòng thủ của Pháp ở Bois des Caures. Do nắm được rất ít thông tin về kế hoạch của quân Đức nên trong thời điểm trước trận đánh, quân Pháp có mặt ở Verdun và các khu vực xung quanh rất ít. Như ở Bois des Caures quân Pháp chỉ có 1300 quân mà phải đối đầu với 60,000 quân Đức. Chỉ 2 ngày sau, Bois des Caures thất thủ, hầu hết quân Pháp bị tiêu diệt, chỉ khoảng 100 người sống sót. Tuy nhiên, việc Bois des Caures cầm cự được tận 2 ngày đã cho quân Pháp quãng thời gian quý báu để huy động các sư đoàn tiến về củng cố lực lượng phòng thủ cho Verdun.
Tuy nhiên, quân Đức tiến quân rất chậm, một phần chính vì chiến lược dùng pháo binh mở màn trận đánh của họ. Địa hình bị cày nát trở nên không ổn định và nguy hiểm, quân Đức liên tục phải tiến quân theo hàng dọc nhằm tránh những chướng ngại vật. Ngoài ra, quân Đức cũng liên tục gặp phải những ổ kháng cự của quân Pháp. Tại những vị trí tưởng chừng đã thất thủ, những binh lính Pháp sống sót vẫn tập trung lại và kháng cự quyết liệt. Bước tiến của quân Đức vì thế bị chậm đi đáng kể.
Dù vậy, trước số lượng đông đảo, quân Đức vẫn chọc thủng được hàng phòng thủ thứ hai của Pháp vào ngày 24. Và đến hôm sau họ chiếm được pháo đài Douaumont - nơi được xem như trung tâm của hệ thống phòng thủ Pháp. Giành được vị trí chiến lược này, quân Đức đã có thể chĩa thẳng các họng pháo về hướng Verdun. Vì thế quân Pháp đã phản kích quyết liệt nhằm chiếm lại nơi này. Trong suốt quãng thời gian diễn ra trận đánh, hai bên đã giao chiến quyết liệt với nhau tại Douaumont tới mười mấy lần. Nhìn chung thì giai đoạn đầu, quân Đức không thực sự thành công khi mặt trận bị giới hạn và địa hình tiến quân trở nên quá phức tạp do chính bản thân họ. Nhưng có vẻ chiến lược của Falkenhayn là đúng đắn, khi quân Pháp bắt đầu đổ dồn về Verdun.
Tối ngày 24 tháng 2, khi tin tức về các cuộc tấn công dữ dội của quân Đức được báo về, Tổng tham mưu trưởng quân Pháp là Noël Édouard đã khuyên Tổng Tư lệnh quân Pháp Joseph Joffree cử Tập đoàn quân số 2 của Đại tá Phillipe Pétain ra trận. Joffree nghe theo và đồng thời quyết định cử Pétain làm tổng chỉ huy mặt trận Verdun. Là một người thực dụng, Pétain quyết định tổ chức lại các hàng phòng thủ để thiết lập một phòng tuyến nối hai bờ sông Meuse lại, đồng thời tăng cường lực lượng và tiếp tế cho các pháo đài để đối mặt với những đợt tấn công dữ dội của quân Đức. Mặt khác, trái với đề nghị của các chỉ huy khu vực, Pétain ra lệnh cấm tổ chức bất kỳ cuộc phản công nào để tránh tổn thất lực lượng.
Chiến lược mới này của Pétain đã phần nào giúp quân Pháp phòng thủ một cách hiệu quả hơn và khiến quân Đức phải trả giá đắt. Nhờ vậy mà sau hơn 1 tháng tấn công, quân Đức không tạo được một bước ngoặt nào thực sự quan trọng và bị chặn đứng trên toàn bộ trận địa. Thương vong của cả hai bên vẫn tăng lên chóng mặt không thấy điểm dừng - có những thời điểm các sư đoàn ra trận rồi thiệt mạng nhanh đến mức tiếp viện không kịp đến nơi. Trung bình mỗi ngày có đến hàng nghìn binh lính cả hai bên bỏ mạng. Pétain liên tục yêu cầu tiếp viện, nhưng không phải lúc nào cũng được đáp ứng do Joffree đang chuẩn bị lực lượng cho trận đánh ở sông Somme sắp tới.
Ngoài ra trong giai đoạn này, dưới sự yêu cầu của Joffree, Nga cũng mở một chiến dịch lớn ở mặt trận phía đông ở gần hồ Naroch, với mục đích thu hút quân Đức để giảm áp lực cho Pháp ở Verdun. Tuy nhiên chiến dịch này thất bại với thương vong nặng nề của quân Nga - họ mất đến 100,000 người, trong khi thương vong của Đức chỉ bằng một phần năm. Mặc dù các đợt tấn công của Đức vào Verdun có bị gián đoạn đôi chút, nhưng nhìn chung áp lực của quân Pháp ở mặt trận phía tây vẫn y nguyên.
Đến tháng 4, quân Đức thay đổi chiến thuật bằng cách tổ chức tấn công đồng loạt trên tất cả các cứ điểm. Trong khi đó, quân Pháp hoàn toàn kiệt quệ và không còn lực lượng dự bị, nhưng pháo binh của họ vẫn đủ sức đẩy lùi quân Đức ở nhiều nơi. Kết quả là quân Đức chịu thiệt hại nặng nề mà vẫn không chiếm được các cứ điểm quan trọng. Quân Pháp vẫn giữ vững các hàng phòng thủ và kháng cự quyết liệt. Với thương vong lớn, cộng với thời tiết khắc nghiệt khi trời đổ mưa dầm dề làm toàn bộ chiến trường ngập úng và lầy lội, cả hai bên bắt đầu giảm cường độ giao tranh cho đến hết tháng.

Sự thay đổi tiền tuyến trong suốt trận Verdun
Trong lúc Pháp và Đức giằng co ác liệt ở Verdun, tình hình trên các mặt trận khác cũng có vài thay đổi. Ở khu vực Trung Đông, sau 5 tháng cầm cự, quân Anh ở Kut cuối cùng cũng đầu hàng lực lượng Ottoman vây hãm. Tướng Townshend và 9000 quân Anh - Ấn Độ bị bắt làm tù binh; và một nửa trong số ấy về sau bỏ mạng vì thiếu lương thực và các loại bệnh tật. Hơn lúc nào hết, phe Hiệp Ước hy vọng có thể tranh thủ được sự giúp đỡ của người Ả Rập trong việc chống lại Đế quốc Ottoman ở Trung Đông. Vì vậy, Anh và Pháp hứa hẹn sẽ ủng hộ một nhà nước Ả Rập thống nhất nếu họ nổi dậy chống lại Ottoman. Thế nhưng chính Anh và Pháp lại bí mật ký kết với nhau Hiệp ước Sykes-Picot, qua đó thỏa thuận phân chia các vùng chịu ảnh hưởng của mỗi nước ở khu vực này sau khi nó tách ra khỏi Đế quốc Ottoman. Đương nhiên lãnh đạo của người Ả Rập - Hussein bin Ali, Sharif của Mecca - không hề hay biết gì về hiệp ước bí mật này, và vẫn làm đúng theo ước định là nổi dậy chống lại Ottoman. Cuộc nổi dậy giành được thắng lợi ban đầu khi họ giành được quyền kiểm soát thành phố Mecca vào ngày 10 tháng 6 năm 1916.
Còn ở mặt trận Ý, thì lúc này quân đội Đế quốc Áo - Hung bất ngờ tổ chức tấn công vào Asiago giữa tháng 5, khiến quân Ý không kịp trở tay. Quân đội Áo - Hung sau đó tràn vào được vùng bắc Ý. Lúc này, kế hoạch về một loạt các cuộc phản công quy mô lớn của phe Hiệp Ước càng cần phải được thực hiện nhanh chóng để giải tỏa áp lực cho quân Pháp ở Verdun và quân Ý ở Asiago.
Nga là nước phát động tấn công đầu tiên, khi tướng Aleksei Brusilov đã lên kế hoạch cẩn thận và bất thần cho quân tấn công vào ngày 4 tháng 6, xuyên thủng được các hàng phòng thủ của quân đội phe Liên minh Trung tâm nhờ yếu tố bất ngờ. Cuộc tấn công của Brusilov là một thắng lợi lớn cho quân Nga. Họ chiếm được toàn bộ vùng đông Galicia, một phần phía bắc Bukovina; quan trọng nhất là quân Nga hầu như đã đập tan tành được chủ lực của quân đội Áo - Hung. Tính trong toàn cuộc tấn công, riêng Áo - Hung đã chịu thiệt hại tới gần 700,000 người, phần lớn bị bắt làm tù binh. Với thất bại này, Áo - Hung phải phụ thuộc nghiêm trọng vào quân Đức trên mặt trận phía đông - thậm chí Bộ tư lệnh Áo - Hung còn coi như hợp nhất luôn với Bộ tư lệnh Đức.
Nhưng để đổi lấy thắng lợi này, quân Nga cũng đã chịu thương vong khổng lồ - ngang ngửa với tổng thiệt hại của phe Liên minh Trung tâm với hơn 1 triệu binh lính bỏ mạng, bị thương và bị bắt làm tù bình. Dù vậy, thắng lợi của quân Nga cũng giúp phần nào giảm thiểu áp lực cho quân Pháp ở Verdun và quân Ý ở Asiago, đồng thời thuyết phục Romania tham chiến theo phe Hiệp Ước. Thậm chí chiến thắng to lớn của quân Nga trong chiến dịch này còn được xem là thắng lợi vẻ vang nhất của phe Hiệp Ước trong toàn cuộc chiến. Nhưng với riêng nước Nga, thiệt hại khủng khiếp họ phải chịu khiến sĩ khí toàn quân không được cải thiện là bao, và người dân trong nước thậm chí còn xem đây là một thất bại. Đây cũng là một trong nhiều lý do góp phần làm sục sôi thêm các phong trào cách mạng trong lòng nước Nga.
Đế quốc Áo - Hung bây giờ gần như đã kiệt quệ, và gánh nặng trên cả hai mặt trận dồn lên vai quân Đức. Thắng lợi của Nga ở phía đông đã khiến Anh và Pháp có thêm tự tin để xúc tiến thực hiện một cuộc tấn công quy mô lớn tương tự ở phía tây - đó chính là trận Somme.
Nhưng trước đó, hãy cùng quay lại Verdun giai đoạn đầu tháng 5. Đó là thời điểm Bộ tổng tham mưu quân Đức bắt đầu cảm thấy lo ngại về việc sĩ khí binh lính suy giảm ở tiền tuyến. Ngoài ra, chiến lược tiếp viện của Đức cho Verdun cũng khiến tinh thần chiến đấu của họ không quá cao - người Đức đưa một đơn vị ra tiền tuyến trong vòng nhiều tháng liền, các thiệt hại được bổ sung bằng các tân binh trẻ, hoàn toàn thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Trong khi đó, quân Pháp có chiến lược xoay vòng lực lượng khá hiệu quả, khi mỗi đơn vị Pháp chiến đấu ở mặt trận trong một thời gian ngắn, rút về tuyến sau và được thay thế bằng một đơn vị khác. Nhờ vậy lực lượng phòng thủ ở Verdun của Pháp luôn có lượng lớn là binh lính có kinh nghiệm.

Tướng Philippe Pétain
Tuy nhiên, bấy giờ lại xảy ra lục đục ở Bộ Tổng tham mưu quân Pháp, khi Pétain bất hòa với Joffree về quan điểm phòng thủ. Joffre cho rằng Pétain quá thụ động, và ông cho rằng việc Pétain yêu cầu kéo dài thời gian nghỉ ngơi cho binh lính sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch phản công ở Somme. Cuối cùng, Pétain bị điều lên làm tổng chỉ huy tập đoàn quân trung tâm, vị trí của ông ở Verdun được thay thế bằng Robert Nivelle, một viên tướng thiên về quan điểm tấn công.
Sang đến tháng 5, giao tranh cường độ cao bắt đầu quay trở lại ở Verdun, khi quân Đức quyết tâm chiếm bằng được các cao điểm quan trọng của Pháp là cao điểm 304 và Le Mort Homme. Quân Đức tiếp tục chiến thuật pháo kích cường độ cao khi bắn phá liên tục cao điểm 304. Trận pháo khủng khiếp kéo dài tới hơn 1 ngày và thậm chí còn khiến cao điểm bị thấp xuống, phòng tuyến quân Pháp thì trở nên hỗn loạn và bị bẻ gãy hoàn toàn. Quân Đức sau đó đã dễ dàng chiếm được cao điểm, nhưng vẫn mất tới mấy ngày mới hoàn toàn kiểm soát được nó sau những cuộc giao tranh cận chiến ác liệt với quân Pháp. Và sau khi cao điểm 304 thất thủ, số phận của cao điểm Le Mort Homme nhanh chóng được định đoạt. Quân Đức tiếp tục sử dụng cách đánh tương tự như đã dùng với cao điểm 304 và nhờ đó kiểm soát được nốt vị trí này.
Đến ngày 13 tháng 5, quân Đức đã quyết định thay đổi hướng tấn công. Dựa trên tình hình thực tế, Đức quyết định để cánh quân ở bờ tây nghỉ ngơi, và triển khai tấn công ở bờ đông với mục tiêu là pháo đài Vaux. Tuy nhiên, quân Pháp tổ chức kháng cự quyết liệt. Và trong lúc đó, giao tranh ác liệt vẫn xảy ra ở pháo đài Douaumont - nơi vốn đã trở thành bãi chiến trường khốc liệt mà hai bên giành giật nhau từ đầu trận Verdun. Trong 1 tuần liền, hai bên đều tổ chức pháo kích cường độ cao và thậm chí sử dụng đến cả lựu đạn hóa học. Sau hai ngày quyết đấu đẫm máu với những trận đánh giáp lá cà mặt đối mặt, quân Đức phòng thủ được tăng viện, trong khi quân Pháp bị đẩy bật khỏi pháo đài do thiếu thốn vũ khí và bị áp đảo lực lượng. Kết cục là toàn bộ lực lượng tấn công của Pháp chỉ còn vài người sống sót quay về Verdun. Trận đánh này đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới sĩ khí toàn quân, và viên tướng dẫn đầu cuộc tấn công bị cách chức ngay lập tức.

Quân Đức tấn công vào Le Mort Homme
Đến đầu tháng 6, sau khi kết hợp sử dụng cả súng phun lửa lẫn pháo binh, quân Đức chiếm được một loạt cứ điểm phòng thủ của Pháp và rộng đường đến pháo đài Vaux. Việc mất các cứ điểm này đã khiến Vaux bị uy hiếp do không còn hỏa lực hỗ trợ, mà lực lượng phòng thủ chỉ có 600 quân do thiếu tá Sylvain Raynal chỉ huy. Ngày 2 tháng 6, sau một loạt pháo kích cường độ cao, quân Đức bắt đầu ùa vào tấn công pháo đài. Hai bên giao tranh ác liệt, giành giật với nhau từng vị trí một. Raynal đã kiên cường phòng thủ trong điều kiện thiếu thốn cả vũ khí lẫn đạn dược cùng thức ăn nước uống.
Nhưng cuối cùng 5 ngày sau, khi tình hình không còn có thể kiểm soát nổi, Raynal quyết định đầu hàng với điều kiện bảo toàn mạng sống và danh dự cho lực lượng phòng thủ. Quân Đức đồng ý với yêu cầu này, và họ còn bày tỏ sự ngưỡng mộ với Raynal bằng cách tặng ông một thanh kiếm. Chỉ vài ngày sau, quân Pháp tổ chức phản công chiếm lại pháo đài nhưng thất bại và phải chịu một tổn thất nặng nề. Kết quả là Nivelle bị nghiêm cấm tổ chức bất kì cuộc phản kích nào. Pháo đài Vaux trở thành một cứ điểm vững chắc làm bàn đạp cho những cuộc tấn công tiếp theo của quân Đức.
Đến cuối tháng 6, quân Đức tiếp tục tổ chức tấn công dọc phòng tuyến Fleury và pháo đài Souville. Sau 2 ngày giao chiến ác liệt, quân Đức chiếm được cứ điểm Thiaumont, nhưng quân Pháp vẫn đứng vững ở pháo đài Souville. Dù vậy thì vào thời điểm này, quân Pháp tại Verdun đã rơi vào tình trạng hoảng loạn. Pétain và Nivelle thậm chí đã tính đến việc rút lui toàn bộ các lực lượng ở bờ tây sông Meuse. Tuy nhiên, Pétain e ngại việc rút quân sẽ khiến sĩ khí toàn quân sụp đổ hoàn toàn. Bộ Tổng tham mưu quân Pháp lúc này đã quyết định chấp nhận bảo vệ Verdun bằng mọi giá. Nếu Verdun thất bại thì tinh thần của toàn nước Pháp sẽ bị đánh gục.
Thế nhưng thực chất quân Đức cũng không khá hơn là bao, khi hầu hết các đơn vị tham chiến ở Verdun đã thiệt hại nặng nề, mà lực lượng tăng viện đa phần là tân binh thiếu kinh nghiệm. Đức đã cân nhắc đến việc mở cuộc tấn công cuối cùng, nhưng điều kiện thực tế tại Verdun không cho phép họ thực hiện điều đó. Cả hai bên lúc này đều dồn một phần sự chú ý về mặt trận phía đông - nơi quân Nga đang bẻ gãy các lực lượng của Áo - Hung trong Chiến dịch Brusilov, và đặc biệt là sông Somme - nơi phe Hiệp Ước mở một cuộc tấn công quy mô lớn.
Ngày 1 tháng 7, trận Somme chính thức mở màn khi các lực lượng Anh và Pháp bắt đầu tấn công. Quân Anh sẽ đảm nhận nhiệm vụ tấn công vào phần lớn các tuyến phòng thủ của Đức ở bờ bắc sông Somme, trong khi quân Pháp tấn công vào các vị trí ở bờ nam. Phe Hiệp Ước hy vọng có thể đột phá xuyên qua được tiền tuyến quân Đức, nhưng ngay ngày đầu tiên họ đã hứng chịu tổn thất khủng khiếp. Quân Anh mở màn trận đánh bằng một loạt pháo kích cường độ cao kéo dài, nhưng không bẻ gãy được tuyến phòng thủ của Đức. Do thiếu sót trong việc truyền tin, phần lớn các chỉ huy quân Anh không nắm được đầy đủ tình hình và vì thế cứ làm theo kế hoạch là cho bộ binh tấn công. Phần lớn quân Anh bỏ mạng trước các họng súng máy quân Đức khi còn chưa tới gần được chiến hào đối phương.

Binh lính Anh trước khi tham chiến tại Somme
Chỉ trong vài giờ đồng hồ, cuộc tấn công buộc phải ngừng lại do thương vong quá khủng khiếp - quân Anh thiệt hại đến 57,000 người chỉ trong ngày đầu tiên của trận đánh, và trong số đó có tận 19,000 người chết. Một thảm họa quân sự tồi tệ bậc nhất trong lịch sử nước Anh. Trong khi đó, một phần quân Pháp ở phía bắc và phía nam thành công hơn một chút, khi sức kháng cự của quân Đức ở những nơi ấy tương đối yếu. Họ đẩy tiền tuyến được lên thêm vài km ở phía bắc và phía nam, nhưng nhìn chung ngày đầu tiên là một thất bại khủng khiếp với phe Hiệp Ước, vì thương vong quá lớn. Cũng chính vì tổn thất quá lớn ngay trong ngày đầu tiên, nên suốt 4 tháng rưỡi sau của trận đánh, phe Hiệp Ước hầu như chỉ thực hiện các chiến dịch đánh tiêu hao, không dám mạo hiểm mở những đợt tấn công quy mô lớn nữa, để tránh lặp lại thảm họa ngày 1 tháng 7.
Ngày 14 tháng 7, quân Anh mở một đợt tấn công vào các vị trí phòng thủ của quân Đức ở bờ bắc, kéo dài từ sông Somme tới Guillemont và Ginchy, chạy dọc theo về hướng tây bắc qua đỉnh sườn núi đến làng Pozières trên đường Albert - Bapaume. Mục tiêu của họ là chiếm lấy một số ngôi làng do quân Đức nắm giữ, gần với các khu rừng như Delville Wood và High Wood. Quân Anh tiếp tục mở màn cuộc tấn công bằng các đợt pháo kích kéo dài, rồi sau đó bộ binh tấn công vào những khu vực ít được phòng thủ. Chiến thuật này khiến quân Đức bị bất ngờ và rối loạn. Quân Anh chiếm được hầu hết các mục tiêu, khiến hàng phòng thủ của Đức ở phía nam đường Albert - Bapaume bị đe dọa nghiêm trọng. Nhưng do thương vong lớn, cộng với thiếu tổ chức và sai sót trong việc truyền tin đã khiến quân Anh ngừng tấn công, bỏ lỡ cơ hội bẻ gãy hoàn toàn quân Đức trong khu vực.
Trong khi đó, để hỗ trợ cho mặt trận ở sông Somme, phe Hiệp Ước đã nhanh chóng tổ chức một đợt tấn công nhắm vào Fromelles, cách sông Somme khoảng 80km về phía bắc. Trận đánh diễn ra trong hai ngày 19 và 20 tháng 7, nhưng trong ngày 20, các lực lượng quân Đức tăng viện cho mặt trận ở Somme theo lệnh của Falkenhayn đã đến nơi. Cuộc tấn công ở Fromelles đã thất bại khi quân Anh chỉ gây ra thiệt hại nhỏ cho quân Đức ở đây và làm chệch hướng một vài đơn vị tăng viện cho Somme. Họ không chiếm được bất cứ vị trí phòng thủ nào và còn hứng chịu thương vong gấp gần 4 lần đối phương.
Bắt đầu từ ngày 23 tháng 7, quân đội phe Hiệp Ước tiếp tục mở một vài đợt tấn công nhắm vào làng Pozières, nhưng hầu hết đều thất bại. Để đáp trả, quân Đức cũng sử dụng pháo kích cường độ cao, kéo dài liên tiếp trong 2 tuần liền. Dù vậy đến khi giao tranh chấm dứt, lực lượng phe Hiệp Ước vẫn chiếm được các cao điểm ở phía bắc và phía đông của ngôi làng.
Giao tranh giữa các bên ở Somme phải đến tận tháng 9 mới bắt đầu ác liệt trở lại, khi quân Đức tổ chức phản công ở Guillemont. Quân Đức đã triển khai việc bao vây các đơn vị Anh đóng ở gần Delville Wood để có vị trí dễ dàng quan sát quân Pháp. Dù cuối cùng quân Anh vẫn thành công trong việc đánh bật quân Đức, nhưng trận Guillemont vẫn cho thấy vấn đề cố hữu trong hàng ngũ phe Hiệp Ước là sự bất đồng trong việc chỉ huy giữa Anh và Pháp, đặc biệt là giữa chỉ huy của hai bên - Joseph Joffree và Douglas Haig. Và sau khi trận Guillemont kết thúc vào ngày 6 tháng 9, các đơn vị của quân đội Anh được lệnh bắt đầu di chuyển đến các vị trí phù hợp để quan sát phòng tuyến quân Đức và để chuẩn bị cho một cuộc tấn công quy mô lớn vào giữa tháng 9. Thực tế thì từ vài ngày trước đó, một số đơn vị quân Anh đã bắt đầu các đợt tấn công vào Ginchy, nhưng bị quân Đức đánh bật trở ra. Đến ngày 9 tháng 9, quân Anh tấn công trở lại và chiếm được Ginchy. Thắng lợi này đã tạo tiền đề để quân đội phe Hiệp Ước tổ chức các đợt tấn công quy mô lớn hơn để hy vọng bẻ gãy được quân Đức ở Somme.

Xe tăng Mark I của quân Anh
Vào ngày 15 tháng 9, trong trận đánh ở gần làng Flers, lần đầu tiên quân Anh giới thiệu thứ vũ khí mà họ hy vọng có thể dùng để phá vỡ tình trạng bế tắc của những cuộc giằng co không hồi kết trong các con hào - những chiếc xe tăng. Sự xuất hiện của những chiếc xe khổng lồ bọc thép này ban đầu giúp quân Anh giành được vài lợi thế nhỏ và gây cho quân Đức một số thiệt hại. Nhưng vì số lượng không nhiều và còn vô số thiếu sót về kỹ thuật, nên những chiếc xe tăng của Anh không thực sự gây ra được sóng gió gì quá lớn trên toàn chiến trường. Dù vậy, Anh và Pháp vẫn tiếp tục mở một loạt các đợt tấn công trong suốt tháng 9. Những đợt tấn công này mặc dù không giành được thắng lợi lớn như mong đợi, nhưng vẫn khiến quân Đức chịu thương vong nặng. Đương nhiên, cái giá mà quân Anh và Pháp phải trả cũng chẳng nhẹ nhàng chút nào.
Đến tháng 10, thế trận ở Somme tiếp tục bế tắc, và ngay cả các đợt tấn công cũng chẳng còn hiệu quả nhiều khi thời tiết bắt đầu xấu đi. Chiến dịch tấn công vào Le Transloy kết thúc mà không bên nào giành được ưu thế tuyệt đối, và cả hai bên đều hứng chịu tổn thất nặng nề - Đức mất hơn 78,000 người trong khi Anh và Pháp lần lượt mất hơn 57,000 người và hơn 37,000 người. Đầu tháng 11, quân Anh tiếp tục mở một đợt tấn công vào các cao điểm ở Ancre và sau 11 ngày, họ đã thành công chiếm được các vị trí này và đánh bật quân Đức. Vì vậy, Douglas Haig tiếp tục mở thêm một đợt tấn công nữa thẳng vào Ancre ngay sau đó. Đây cũng là chiến dịch lớn cuối cùng trong năm của quân Anh. Sau 1 tuần chiến đấu, quân Anh thành công trong việc chiếm một số vị trí quan trọng, đánh bật lực lượng Đức đa phần đã kiệt quệ, đồng thời đe dọa đến các vị trí phòng thủ của quân Đức ở phía bắc.
Ngày 18 tháng 11, Tướng Haig tuyên bố chiến dịch đã thành công và cho các đơn vị quân Anh ngừng tiến công. Trận đánh khốc liệt tại Somme kết thúc theo cái cách tương đối không kèn không trống như vậy. Và mặc dù Haig nhiều lần nhấn mạnh rằng chiến dịch Somme đã đạt được mục đích, nhưng thực tế mọi chuyện chẳng lý tưởng chút nào. Phe Hiệp Ước đúng là đã đẩy lui được phòng tuyến của quân Đức và tiền tuyến của họ tiến thêm được độ 16 - 17km, nhưng cái giá phải trả quá lớn. Thương vong của quân Anh là 420,000 người, còn của Pháp là 200,000 người, trong khi đó quân Đức cũng hứng chịu tổn thất lên tới 440,000 người. Cả hai bên gần như đều kiệt quệ hoàn toàn, chẳng còn đủ sức mà tấn công nữa. Và dù có nói thế nào đi chăng nữa, thì thế bế tắc tại mặt trận phía tây vẫn chưa được khai thông.
Quay trở lại với mặt trận Verdun hồi tháng 7, khi trận Somme bắt đầu diễn ra. Cả Pháp và Đức đều dành ra một sự chú ý nhất định tới trận đánh ở Somme, nhưng không vì thế mà cuộc chiến ở Verdun bớt khốc liệt. Dù đều đã kiệt quệ về sức lực và tinh thần, nhưng cả Đức và Pháp vẫn duy trì những cuộc giao tranh liên tục. Đức một lần nữa thay đổi chiến thuật, khi chuyển từ tấn công đồng loạt nhiều vị trí sang tập trung vào một mũi tấn công mạnh hơn. Lần này Đức tập trung tấn công vào giữa các vị trí phòng thủ ở Bois de Chapitre và Fleury, trong khi một mũi tấn công khác hướng về pháo đài Tavannes.

Quân Pháp chiến đấu dưới mưa đạn pháo của quân Đức
Sau khi bắn một loạt đạn hóa học về phía quân Pháp, quân Đức mới ào lên tấn công; nhưng vì Pháp đã trang bị cho binh lính mặt nạ phòng độc loại mới rất hiệu quả, nên vũ khí hóa học của Đức không đạt được thành công như mong muốn. Pháp sử dụng pháo binh và súng máy phản công mãnh liệt đến mức quân Đức không tiến lên nổi và dần trở nên hỗn loạn; thậm chí có chỉ huy Đức từ chối tiếp tục ra lệnh tiến quân vì không muốn binh lính bỏ mạng vô ích. Dù vậy, nhiều đơn vị quân Đức khác vẫn liều mạng tiến lên và cuối cùng xuyên thủng được phòng tuyến ở Fleury, và lúc này họ chỉ còn cách pháo đài Souville chừng vài trăm mét. Nhưng tình cờ là lúc này Souville đã được tăng viện thêm một vài đơn vị ở các vị trí phòng thủ đã mất rút về.
Ngày 12 tháng 7, quân Đức bắt đầu tấn công Souville, nhưng trong đó chỉ có số ít là binh lính có khả năng chiến đấu cao. Một bộ phận nhỏ sau đó chiếm được nóc pháo đài, tuy nhiên do không có lực lượng tăng viện cũng như mất hỏa lực yểm trợ từ pháo binh, họ nhanh chóng bị đẩy lui. Cũng trong ngày này, khi ca ngợi sự kiên cường của quân phòng thủ Pháp ở Verdun, tướng Nivelle đã tuyên bố rằng: "Chúng sẽ không thể vượt qua được!" Vì thế mà Falkenhayn đã yêu cầu quân Đức tạm ngừng tiến công để chuyển một phần pháo, đạn dược và binh lính sang mặt trận phía đông và chiến trường ở Somme. Các cuộc đụng độ hầu hết chỉ diễn ra ở quy mô nhỏ, nhưng đến ngày 15 tháng 7, tướng Charles Mangin của Pháp liều lĩnh tổ chức một cuộc phản kích để mong chiếm lại được Fleury. Tuy nhiên vì không có pháo binh yểm trợ, nên cuộc tấn công này thất bại và quân Pháp chịu thiệt hại nặng.
Suốt tháng 8, Đức và Pháp tranh giành Fleury quyết liệt và nơi này đổi chủ liên tục, cả hai đều chịu thương vong lớn. Nhưng đến ngày 18 tháng 8 thì Pháp đã chiếm lại được Fleury và đến tháng 9, các đợt phản công của Pháp đã giúp họ lấy lại được hầu hết các vị trí từng đánh mất vào tay quân Đức trong tháng 7 và tháng 8. Với Bộ Tổng tham mưu Đức thì lúc này hy vọng giành được thắng lợi đã không còn khi hầu như mọi lực lượng dự bị đã cạn kiệt. Nhưng kể cả thế thì cuộc chiến ở Verdun vẫn chưa chấm dứt; binh lính hai bên đã kiệt quệ về cả sức lực lẫn tinh thần, hầu như chỉ tập trung vào củng cố công sự và hầm hào.
Kết quả ở Verdun khiến Kaiser Wilhelm rất không hài lòng. Vì thế vào ngày 29 tháng 8, Falkenhayn bị điều đi khỏi mặt trận phía tây - thay thế ông là Hindenburg và Ludendorff. Sự thay đổi chỉ huy của quân Đức đã tạo cho quân Pháp thời cơ để tiếp tục tiến hành thêm một số đợt tấn công vào đầu tháng 9, đẩy tiền tuyến của họ thêm được gần 1km; trong khi các đợt phản công của Đức ngay sau đó đều thất bại. Quân Pháp duy trì việc tấn công đến tận ngày 17 tháng 9 và đạt được một số thành công, thương vong họ phải chịu cũng không nhiều, trừ trận đánh xảy ra ở đường hầm Tavannes ngày 4 tháng 9.
Đến hạ tuần tháng 10 năm 1916, sau một thời gian chuẩn bị, Pháp mở một chiến dịch tấn công quy mô lớn mang tên Chiến dịch tại Verdun lần thứ nhất. Quân Pháp sử dụng pháo kích cường độ cao với đủ các loại đạn kích cỡ khác nhau, còn quân Đức thì đã kiệt quệ nên tuyến phòng thủ nhanh chóng bị xuyên thủng. Pháp chiếm lại được pháo đài Douaumont vào ngày 24 tháng 10 mà không gặp mấy khó khăn, khi quân Đức phòng thủ ở đây lập tức rút lui khi nóc pháo đài trúng đạn pháo 400mm. Đến ngày 3 tháng 11, Pháp chiếm lại được cả pháo đài Vaux - cũng đã bị quân Đức bỏ rơi. Lúc này, quân Pháp đã đẩy được tiền tuyến trở lại vị trí như hồi tháng 2 năm đó, trước khi trận Verdun bắt đầu.

Tranh minh họa cảnh quân Pháp chiếm lại Douaumont
Từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 12, Pháp tiếp tục mở một chiến dịch tấn công quy mô lớn tiếp theo, mang tên Chiến dịch tại Verdun lần thứ hai. Nivelle và Pétain là những người lên kế hoạch, còn trực tiếp chỉ huy là Mangin. Vẫn với chiến thuật đánh phủ đầu bằng pháo kích cường độ cao liên tục và sau đó là để bộ binh tấn công, còn quân Đức thì đã không còn nhiều sức chiến đấu; Pháp tiếp tục giành được lợi thế và đẩy tiền tuyến lên thêm được khoảng 2-3km nữa. Vị trí gần nhất với Verdun của quân Đức đã lên tới 7,5km, và thêm 11,000 quân bị Pháp bắt làm tù binh. Không còn cơ hội nào để quân Đức chiếm Verdun nữa - nếu như đó thật sự là ý định ban đầu của họ.
Trận đánh kéo dài và khốc liệt bậc nhất của cuộc chiến đã kết thúc vào ngày 18 tháng 12. Và kết quả? Không bên nào thực sự được coi là chiến thắng áp đảo. Đức đã không thể chiếm được Verdun mà còn bị đẩy lùi; Pháp đánh bật được kẻ địch, nhưng không còn đủ sức tiếp tục tấn công lên xa hơn để phá vỡ thế bế tắc đã kéo dài từ đầu cuộc chiến. Thương vong của cả hai bên đều nặng nề như nhau: Pháp mất 365,000 người và Đức mất 336,000 người. Nếu quả thực Đức đánh Verdun để rút máu quân Pháp, thì họ đã đạt được mục đích, nhưng với cái giá không hề rẻ chút nào.
Cả hai trận đánh khốc liệt bậc nhất ở mặt trận phía tây là Verdun và Somme cuối cùng vẫn không giải quyết được tình trạng bế tắc, và càng khiến binh lính các bên rơi vào kiệt quệ cả về sức lực lẫn tinh thần. Số thương vong khủng khiếp đã khiến họ gần như không còn đủ lực lượng hay sức mạnh để nghĩ đến việc mở một đợt tấn công quy mô lớn nào nữa - ít nhất là trong năm 1916.
Chuyển sang các mặt trận khác, như ở phía đông thì như đã nói, Romania quyết định tham chiến theo phe Hiệp Ước sau khi Nga giành được thắng lợi trong chiến dịch tấn công và gần như đánh gục được chủ lực của quân Áo - Hung. Ngày 27 tháng 8, Romania mở một cuộc tấn công nhằm vào Transylvania thuộc Áo - Hung. Tuy ban đầu giành được một số lợi thế, nhưng cuối cùng họ bị chặn đứng bởi các lực lượng của Bulgaria, Đức và Áo - Hung. Quân đội phe Hiệp Ước ở Salonika, Hy Lạp đã tìm cách hỗ trợ Romania bằng cách tấn công vào Monastir thuộc Bulgaria ngày 12 tháng 9. Cuộc tấn công này được dẫn đầu bởi các lực lượng Serbia. Nhưng dù chiếm được Monastir và giành được một số lợi thế, cuộc tấn công không đạt được mục đích và sau đó Romania vẫn phải rút lui vào giữa tháng 10. Và đến mùa đông, quân đội phe Liên minh Trung tâm gây thương vong nặng nề cho Romania và khiến họ phải rút lui đến vị trí các lực lượng quân Nga.
Còn trên mặt trận Ý, quân đội nước này vẫn liên tục tổ chức một loạt các cuộc tấn công nhắm vào quân Áo - Hung phòng thủ ở gần sông Isonzo trong suốt tháng 9 và tháng 10. Thương vong của hai bên tương đương nhau, và Ý cũng giành được một số lợi thế.
Khi năm 1916 dần đi đến cuối, nhiều nước tham chiến có sự thay đổi ở các vị trí lãnh đạo. Hoàng đế Áo - Hung Franz Joseph qua đời ngày 21 tháng 11 và người kế vị ngôi Hoàng đế của đế quốc là Karl Franz - cháu họ của cố Thái tử Franz Ferdinand. Ở nước Anh, Thủ tướng Herbert Asquith bị buộc phải từ chức, và người thay thế ông là David Lloyd George. Còn với Pháp thì như đã nói, Robert Nivelle thay thế vị trí chỉ huy của Joseph Joffree ở mặt trận phía tây. Và ở Mỹ, Tổng thống Wilson một lần nữa thử đề xuất một giải pháp hòa bình để chấm dứt chiến tranh; thế nhưng việc này không đi đến đâu cả, vì cả hai bên tham chiến không bên nào muốn nhượng bộ.
Cách mạng bùng nổ ở Nga, Mỹ tham chiến
Khi năm 1916 kết thúc, Cuộc Đại chiến đã kéo dài gần 2 năm rưỡi, số thương vong của tất cả các bên đã lên tới con số chục triệu người - cả binh lính lẫn dân thường. Trong năm 1916, cả hai bên tham chiến đều đã chuyển sang chiến lược đánh tiêu hao, khi tình trạng bế tắc khiến việc giành một chiến thắng quy mô lớn để chấm dứt chiến tranh ngày càng khó khăn hơn. Và trong năm 1917, chiến lược khốc liệt này tiếp tục đẩy cả châu Âu đến tiệm cận bờ vực sụp đổ.
Đế quốc Đức hiểu rất rõ rằng nếu tiếp tục chạy đua với phe Hiệp Ước bằng cách đánh tiêu hao, thì họ chắc chắn sẽ thua trước. Vậy là Đức quyết định đánh cược bằng cách quay lại chiến thuật dùng tàu ngầm để phong tỏa và tấn công tàu thuyền của Anh trên biển vào tháng 2 năm 1917. Đức hy vọng rằng có thể ép Anh phải đầu hàng trong 6 tháng nếu đường dây nhập khẩu lương thực bị đứt gãy. Nhưng làm như vậy cũng đồng nghĩa với việc mạo hiểm chọc giận tới cả Mỹ - vốn đã lên tiếng sau một số vụ việc tàu hàng hải của nước này bị hải quân Đức đánh chìm. Là một cường quốc khổng lồ hoàn toàn không bị chiến tranh ảnh hưởng, nếu Mỹ tham chiến theo phe Hiệp Ước thì phe Liên minh Trung tâm sẽ chẳng còn cơ hội nào hy vọng một kết quả có lợi. Nhưng tình trạng khốc liệt ở châu Âu khiến Đức không còn nhiều lựa chọn.

Arthur Zimmermann - Bộ trưởng Ngoại giao Đế quốc Đức
Chỉ mấy ngày sau khi Đức tiếp tục chiến thuật này, một tàu hơi nước của Mỹ chở lúa mì từ Texas đến Anh bị tàu ngầm Đức đánh chìm. Nước Anh sau đó đã chuyển cho Mỹ một bức điện họ chặn được của Bộ trưởng Ngoại giao Đế quốc Đức là Arthur Zimmermann gửi cho Đại sứ Đức ở Mexico. Nội dung của bức điện xoay quanh việc liên minh với Mexico, nếu chiến tranh với Mỹ xảy ra. Đức sẽ hỗ trợ về mặt tài chính để Mexico gây chiến nhằm lấy lại các vùng đất như New Mexico, Texas và Arizona. Bức điện của Zimmermann đã gây thêm áp lực cho Tổng thống Wilson. Và cuối cùng đến ngày 6 tháng 4 năm 1917, Mỹ chính thức tuyên chiến với Đức. Tuy nhiên, sẽ mất một thời gian để quân đội Mỹ được huy động đầy đủ và sẵn sàng tham chiến.
Và trong khi đó, ít nhất thì trước mắt chiến thuật của Đức phần nào thành công và gây khó khăn chồng chất cho phe Hiệp Ước. Riêng trong tháng 4 năm 1917, các tàu ngầm Đức đã đánh chìm 886,000 tấn hàng tiếp tế các loại của phe Hiệp Ước. Nếu không làm gì để thay đổi tình hình, nước Anh sẽ chết đói trước khi thua trận. Vì vậy vào mùa hè và mùa thu, phe Hiệp Ước bắt đầu điều động các tàu chiến đi theo hộ tống các đoàn tàu chở hàng. Nhờ vậy mà thiệt hại do tàu ngầm Đức gây ra phần nào được giảm bớt - nhưng vẫn rất đáng báo động nếu chiến tranh tiếp tục kéo dài.
Nhìn sang Nga, thì những thiệt hại khổng lồ liên tiếp trong năm 1916 đã khiến tình hình trong nước ngày càng hỗn loạn. Đảng Bolshevik do Vladimir Lenin lãnh đạo đã tổ chức những cuộc biểu tình chống chiến tranh và bãi công tập thể. Làn sóng biểu tình lan từ Petrograd sang nhiều thành phố khác, trong đó có cả Moskva. Biểu tình nhanh chóng chuyển sang khởi nghĩa vũ trang, và những người biểu tình còn kêu gọi binh lính tham gia cùng với họ. Triều đình Sa hoàng buộc phải huy động binh lính từ tiền tuyến quay về để hy vọng dập tắt được bạo động. Thế nhưng đa phần binh lính lại quay ngược lại theo phe biểu tình. Chính làn sóng cách mạng này đã buộc Sa hoàng Nicholas phải thoái vị vào ngày 15 tháng 3 năm 1917.
Trong thời gian khởi nghĩa, theo lời kêu gọi của đảng Bolshevik, công nhân và binh lính đã tiến hành thành lập các Soviet đại biểu cho mình. Chiều ngày 12 tháng 3, hội nghị các Soviet toàn Petrograd đã họp và bầu ra lãnh đạo thống nhất Soviet đại biểu công nhân và binh lính Petrograd. Ngay sau khi Sa hoàng thoái vị và đế quốc Nga cáo chung, Soviet đại biểu công nhân và binh lính Petrograd đã đứng ra điều hành mọi công việc của nhà nước. Lúc này, phái Menshevik đã vươn lên nắm quyền và thành lập chính phủ lâm thời do Huân tước Georgy Lvov làm Thủ tướng. Dù chế độ Sa hoàng đã sụp đổ, nhưng Nga vẫn chưa rút khỏi cuộc chiến và chính phủ mới khẳng định sẽ tiếp tục tham chiến. Georgy Lvov cũng chỉ ngồi ghế Thủ tướng được vài tháng, khi sau đó không được nhiều sự ủng hộ. Cuối cùng vào ngày 1 tháng 7, ông từ chức và giao lại vị trí Thủ tướng cho Bộ trưởng Chiến tranh là Alexander Kerensky. Ở Nga bấy giờ tồn tại song song cả chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản và các Soviet đại biểu của công nhân và binh lính. Mâu thuẫn vẫn còn đó vì thực tế cuộc cách mạng này đã xử lý không triệt để, và một cuộc cách mạng khác sẽ sớm bùng nổ.

Biểu tình ở Petrograd vào tháng 3/1917
Quay lại mặt trận phía tây thì vào ngày 9 tháng 4, quân Anh mở một cuộc tấn công ở Arras. Đây là đòn nghi binh để chuẩn bị cho một cuộc tấn công quy mô lớn hơn của quân Pháp. Trận Arras kéo dài đến tận ngày 16 tháng 5, thành quả thu được tương đối hạn chế và thương vong thì cực kỳ lớn: thiệt hại của Anh là 150,000 người còn của Đức là 130,000 người. Chính bản thân Ludendorff khi xem xét vấn đề tại sao quân Anh lại mở cuộc tấn công này cũng tỏ ra bối rối và không thể nào hiểu nổi.
Một tuần sau khi quân Anh bắt đầu đánh vào Arras, quân Pháp cũng khởi động chiến dịch tấn công quy mô lớn của họ. Tướng Nivelle cũng như Bộ Tổng tham mưu Pháp đặt rất nhiều kỳ vọng vào chiến dịch này. Thế nhưng cũng như rất nhiều chiến dịch trước đó, phe tấn công chỉ giành được một chút lợi thế trong giai đoạn đầu, sau đó nhanh chóng bị chặn lại bởi hàng phòng thủ của đối phương. Suy cho cùng, cả hai chiến dịch lớn trong năm 1916 là Verdun và Somme cũng đều chẳng thực sự bẻ gãy được tình trạng bế tắc. Chiến dịch tấn công của Pháp kết thúc vào ngày 9 tháng 5, trước Arras 1 tuần, với thương vong còn lớn hơn. Dù huy động lực lượng đông gần gấp đôi, nhưng Pháp vẫn không thể nào xuyên thủng được phòng tuyến của Đức. Họ mất 187,000 quân, trong khi Đức cũng mất tới 163,000 quân. Sĩ khí binh lính xuống thấp trầm trọng, nhiều đơn vị sẵn sàng nổi loạn, không nghe lệnh tấn công. Và thế là Bộ Tổng tham mưu lại thay vị trí của Nivelle bằng Pétain, và ông cam đoan sẽ không mở thêm các chiến dịch tấn công gần như tự sát kiểu thế này nữa.
Bên cạnh các con hào kéo dài hàng trăm km, nơi hai bên giằng co ác liệt từng km đất thì ở trên trời, chiến thuật sử dụng các loại máy bay trong chiến tranh ngày càng đa dạng. Từ khi được đưa vào sử dụng trong chiến tranh, các bên tham chiến đã sử dụng máy bay được cải tiến để trinh sát, thám thính, hướng dẫn pháo binh. Sau đó bên còn lại sẽ triển khai các loại máy bay chiến đấu để bắn hạ các máy bay trinh sát. Thuật ngữ "không chiến" ngày càng trở nên phổ biến hơn. Các nước tham chiến lao vào những cuộc chạy đua kỹ thuật, khi các mẫu máy bay được cải tiến chỉ cách nhau vài tháng. Nhưng đến mùa xuân năm 1917, Đức với nền tảng kỹ thuật hùng mạnh vẫn chiếm giữ ưu thế và gây cho phe Hiệp Ước nhiều thiệt hại.
Ở khu vực Balkan, thì Hy Lạp cuối cùng cũng chính thức tham chiến theo phe Hiệp Ước, sau khi Vua Constantine - người vốn mang chủ trương đứng trung lập - bị ép phải thoái vị. Ở mặt trận phía đông, Nga cũng khởi đầu tháng 7 bằng việc phát động một chiến dịch lớn, đúng theo cam đoan mà họ đặt ra với các nước còn lại của phe Hiệp Ước. Nhưng khác với chiến dịch của Brusilov trong năm 1916, chiến dịch lần này của Nga kết thúc trong thảm họa. Tinh thần và sự kỷ luật của binh lính Nga đã không còn từ lâu, nhất là sau khi cuộc cách mạng bùng nổ.
Lợi thế có được trong giai đoạn đầu của chiến dịch hoàn toàn dựa trên sức tấn công dũng mãnh của các đơn vị xung kích mới được thành lập đầu năm 1917. Nhưng các đơn vị này quá ít ỏi và không thể bù đắp nổi cho tình trạng chung trong hàng ngũ quân Nga - rã đám, thiếu sức chiến đấu, sĩ khí thấp và kỷ luật kém. Thành ra quân đội phe Liên minh Trung tâm nhanh chóng tổ chức phản công và dễ dàng đánh bật được quân Nga đông gấp ba lần. Chiến dịch chấm dứt vào ngày 19 tháng 7 trong thảm họa, khi quân Nga rút lui toàn bộ khỏi các vùng đã chiếm được trong chiến dịch Brusilov trước đó. Nhưng chưa hết, quân Đức và Áo - Hung thậm chí còn tiến sâu vào được 120km trong lãnh thổ Nga. Phải đến tận giữa tháng 8, tiền tuyến quân Nga mới tạm ổn định lại được. Mọi thành quả có được trong chiến dịch Brusilov đã mất, quân Nga thương vong 60,000 người và hơn 40,000 người khác đào ngũ. Thiệt hại của Đức và Áo - Hung tuy lớn (khoảng 82,000 người thương vong và 37,000 bị bắt), nhưng họ đã thành công trong việc đánh lui hoàn toàn quân Nga ra khỏi lãnh thổ. Đây cũng là chiến dịch tấn công cuối cùng của Nga trong cuộc chiến, trước khi cách mạng bùng nổ một lần nữa.
Chiến tranh kéo dài đã ảnh hưởng đến mọi nước tham chiến, và Đức cũng không phải ngoại lệ. Tình trạng bất ổn trong nước đã khiến Quốc hội Đức phải họp và đề xuất phương án hòa đàm để chấm dứt cuộc chiến vào ngày 19 tháng 7. Nhưng Bộ Tổng tham mưu Đức phớt lờ việc này, và kiên quyết theo đuổi cuộc chiến đến cùng.
Trên mặt trận phía tây, thì sau nhiều tranh cãi và bất đồng trong Nội các chiến tranh của Anh về việc mở một chiến dịch lớn khác ở vùng Flanders, cuối cùng Lực lượng Viễn chinh Anh cũng được bật đèn xanh vào ngày 25 tháng 7. Một tuần sau đó, trận Ypres lần thứ ba, hay còn được gọi là trận Passchendale, mở màn. Và không có gì bất ngờ, trận đánh kéo dài đến hơn 3 tháng mà không thực sự đạt được kết quả nào; đến mức nhiều người sau này còn đánh giá đây là một chiến dịch hoàn toàn vô nghĩa. Trận Passchendale tiếp tục là một trận đánh đẫm máu với thương vong đáng sợ - Anh và Đức mỗi bên đều thiệt hại ít nhất hơn 200,000 người. Tình cảnh tương tự cũng xảy ra tại mặt trận ở Ý, khi Ý và Áo - Hung tiếp tục quần thảo nhau trong trận Isonzo lần thứ 11. Ý giành được lợi thế về chiến lược, nhưng cũng chẳng thực sự tạo ra thay đổi gì. Vẫn là một trận đánh khiến cả hai bên kiệt quệ và thương vong rất lớn - Ý mất 158,000 người và Áo - Hung mất 115,000 người.

Lính pháo binh Úc thuộc quân đội Anh tại rừng Château thuộc Ypres
Ở Trung Đông, quân Anh đã đánh bại quân Ottoman trong trận đánh ở Kut lần thứ hai diễn ra vào ngày 24 tháng 2, sau đó chiếm được Baghdad. Tại Ai Cập, Anh đưa quân vượt sa mạc Sinai và đánh hai trận lớn với Ottoman tại Gaza vào tháng 3 và tháng 4. Trong cả hai trận đánh, Liên minh Trung tâm đều giành được thắng lợi. Đến tháng 7, các lực lượng Ả Rập nổi loạn chiếm được cảng Aqaba của Ottoman. Điều đáng nói là họ được một sĩ quan quân đội người Anh làm cố vấn - Đại úy Thomas Edward Lawrence, hay về sau nổi tiếng với biệt danh "Lawrence xứ Ả Rập". Đến tháng 10 năm 1917, cuối cùng quân Anh cũng giành được thắng lợi ở Gaza, và 6 tuần sau họ tiến vào được Jerusalem, đánh dấu sự kết thúc chế độ cai trị của Ottoman tại thành phố này sau 400 năm.
Quay trở lại châu Âu, thì với việc quân Nga đã hoàn toàn bị bẻ gãy tại mặt trận phía đông; Đức đã có thể đưa quân tăng viện cho mặt trận ở Ý. Trong trận Isonzo lần thứ 12, liên quân Đức và Áo - Hung đã đánh bật quân Ý ở Caporetto, tiến sâu hơn 100km vào lãnh thổ nước này và bắt được hơn 200,000 tù binh. Không còn cách nào khác, Anh và Pháp buộc phải điều động một số đơn vị từ mặt trận phía tây sang để giúp quân Ý chống đỡ.
Trong khi đó, tình hình ở Nga ngày càng thêm biến động. Việc chính phủ mới của Nga vẫn kiên trì tham chiến để theo đuổi những mục tiêu đặt ra từ trước mà không giải quyết các vấn đề đã hứa hẹn đã khiến binh lính và người dân bất bình. Thất bại nặng nề trong chiến dịch tấn công vào tháng 7 càng khiến mâu thuẫn tăng cao. Ngày càng có nhiều người quay sang ủng hộ đảng Bolshevik do Lenin lãnh đạo.
Ngày 3 tháng 7 năm 1917, hơn 500,000 người tổ chức biểu tình ở Petrograd, yêu cầu chính phủ lâm thời giao quyền lực về cho Soviet. Chính phủ từ chối và còn lệnh cho binh lính nổ súng vào đoàn biểu tình, khiến hàng trăm người chết và bị thương. Sau đó, chính phủ lâm thời Nga công khai đàn áp các phong trào đấu tranh, biểu tình; đồng thời tìm cách triệt hạ các Soviet, thậm chí ra lệnh truy nã Lenin. Việc này khiến Lenin phải rút vào hoạt động bí mật ở Phần Lan, nhưng vẫn theo dõi và chỉ đạo sát sao cách mạng ở Nga. Lenin chỉ rõ ra rằng thời kỳ đấu tranh hòa bình đã chấm dứt, các lực lượng cách mạng ở nước Nga phải tích cực chuẩn bị để tiến hành khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Cuộc cách mạng cuối cùng đã bùng nổ vào tháng 10 (theo lịch cũ của nước Nga), và kết thúc với việc chính phủ lâm thời bị lật đổ, đảng Bolshevik lên nắm quyền. Ngay sau khi nắm quyền, Lenin và đảng Bolshevik đã tuyên bố nước Nga sẽ rút khỏi cuộc chiến để tập trung giải quyết các vấn đề trong nước.

Vladimir Lenin phát biểu trước quần chúng
Và như vậy, một trong những cường quốc của phe Hiệp Ước đã rút khỏi chiến tranh. Nhưng động thái này cũng không thực sự ảnh hưởng quá lớn, vì trên thực tế Nga đã hoàn toàn im hơi lặng tiếng kể từ sau thất bại trong chiến dịch hồi tháng 7.
Khi năm 1917 dần trôi qua, triển vọng về một chiến thắng toàn diện như trong tuyên bố lúc nhậm chức hồi tháng 11 của Thủ tướng Pháp Georges Clemencau có vẻ quá xa vời. Quân Nga đã rút khỏi cuộc chiến, quân Pháp còn đang chật vật giải quyết những vụ nổi loạn của binh lính, quân Ý gần như không còn mấy sức chiến đấu, và sự hỗ trợ đến từ quân Mỹ thì vẫn chưa thấy đâu. Khắp các mặt trận, chỉ còn duy nhất quân Anh là phần nào đủ sức tiếp tục chiến đấu.
Vào tháng 11 năm 1917, quân Anh tiếp tục mở một cuộc tấn công nữa tại Cambrai. Một trận đánh đặc biệt, vì đây là trận đánh đầu tiên có lượng lớn xe tăng tham gia - quân Anh đã tung vào Cambrai gần 400 xe tăng. Ngay trong ngày đầu tiên của trận đánh, hàng trăm xe tăng Anh đã càn lướt qua các vị trí phòng thủ của quân Đức, tiến sâu vào sau tiền tuyến của đối phương tới cả chục km. Nhưng các cỗ xe tăng đời đầu của Anh còn quá nhiều vấn đề, và họ cũng chưa có kinh nghiệm chuẩn bị cho một cuộc tấn công phối hợp lớn giữa bộ binh và xe tăng. Nhiều chiếc xe tăng lăn ra hỏng hoặc bị phá hủy, và quân Đức từ nhiều nơi khác kéo về tiếp viện, dần dần đánh lui quân Anh. Cuối cùng, trận đánh kết thúc với việc cả hai bên đều chiếm được một vài vị trí, nhưng không có người thắng rõ ràng. Quân Anh mất gần 200 xe tăng vì nhiều lý do khác nhau, và cả Anh lẫn Đức mỗi bên đều mất trên dưới 50,000 quân.
Tháng 12 năm 1917, với sự rút lui của Nga trong cuộc chiến, Romania đã mất đi chỗ dựa và chấp nhận ký kết thỏa thuận ngừng bắn - và 6 ngày sau cũng đến lượt Nga. Mặt trận phía đông chính thức biến mất. Với việc không còn phải chia sức cho mặt trận phía đông, Đức đã có thể phần nào rảnh tay để nghĩ đến việc mở một cuộc tấn công quy mô lớn mang tính quyết định vào mùa xuân năm 1918.
Hồi kết của cuộc chiến
Vào thời điểm năm 1918 bắt đầu, Cuộc Đại chiến đã kéo dài 3 năm rưỡi. Toàn bộ các nước bị ảnh hưởng bởi chiến tranh đều kiệt quệ và suy yếu trầm trọng vì hầu như mọi nguồn lực đều bị vắt kiệt. Số thương vong đã lớn tới mức không một ai có thể tưởng tượng nổi. Đó là còn chưa kể đến đại dịch cúm bùng phát vào tháng 2 năm 1918 và nhanh chóng lan rộng ra toàn châu Âu rồi sau đó là cả thế giới. Đại dịch cúm này kéo dài đến tận hè năm 1919 mới dần suy yếu và kết thúc vào tháng 4 năm 1920. Mà một phần lý do đại dịch cúm suy yếu cũng vì hầu như những ai bị nhiễm cúm đều đã chết cả, không còn đối tượng lây nhiễm mới nữa. Đại dịch cúm này ước tính đã cướp đi mạng sống của hàng chục triệu người - thậm chí có những con số ước tính lên tới 100 triệu người.

Những người mắc bệnh trong Đại dịch cúm
Trong tình cảnh bi đát đó thì chiến thắng, dù là cho bất cứ bên nào, cũng có vẻ là một điều xa vời. Nhưng ít nhất, phe Hiệp Ước có thêm sự xuất hiện của một cường quốc chưa bị ảnh hưởng bởi chiến tranh là Mỹ; trong khi Đức gần như một mình gồng gánh phe Liên minh Trung tâm, đặc biệt ở mặt trận phía tây. Với nguồn lực có hạn và còn đang bị ảnh hưởng bởi sự phong tỏa của hải quân Anh, việc Đức thua cuộc có vẻ chỉ còn là vấn đề thời gian - trừ phi họ giành được một chiến thắng quan trọng và đủ lớn để xoay chuyển tình thế.
Với việc Mỹ quyết định tham chiến, Tổng thống Wilson đồng thời đã trình ra trước Quốc hội Mỹ ngày 8 tháng 1 năm 1918 một bản danh sách 14 điểm, liên quan đến các vấn đề trên thế giới trong và sau khi cuộc chiến kết thúc. Một số điểm quan trọng là việc các quốc gia trên thế giới phải đưa ra những hiệp định rõ ràng, không bí mật; cắt giảm vũ khí và quân đội; những sự thay đổi về lãnh thổ của các nước ở châu Âu; các dân tộc của Đế quốc Áo - Hung có quyền tự quyết số phận của mình; và thành lập một tổ chức quốc tế để gìn giữ hòa bình. Nhưng đa số lãnh đạo các nước châu Âu chỉ coi đó là những đề nghị viển vông.
Vào ngày 3 tháng 3 năm 1918, Nga ký với Liên minh Trung tâm Hiệp ước Brest - Litovsk, qua đó để đổi lấy hòa bình, họ sẵn sàng nhường ra một phần lớn lãnh thổ phía tây của mình. Sau khi đàm phán xong xuôi với Nga, ít nhất nửa triệu binh lính của Đức đã có thể hoàn toàn được điều động lại sang mặt trận phía tây. Lực lượng bổ sung này cho phép Ludendorff có thể tổ chức một chiến dịch tấn công lớn, nỗ lực cuối cùng để xoay chuyển tình thế và mang tới hy vọng chiến thắng cho Liên minh Trung tâm.

Quân Đức trước một đoạn hào của quân Anh họ vừa chiếm được
Chiến dịch mùa xuân năm 1918 của Đức được phát động vào hạ tuần tháng 3, bắt đầu bằng chiến dịch Michael và bước đầu tiên đã khiến phe Hiệp Ước bất ngờ. Thực ra trước cuộc tiến công của Đức, tình báo Mỹ đã lưu ý chính phủ Pháp về khả năng Đức sẽ tấn công quy mô lớn, nhưng Pháp không thực sự coi trọng lời cảnh báo này. Khác với mọi chiến dịch tấn công trước đây, lần này quân Đức áp dụng chiến thuật bộ binh xung kích và thành công lớn, tiến nhanh mạnh về phía sau phòng tuyến của phe Hiệp Ước tới 60km. Đà tiến công mạnh mẽ phủ đầu của Đức đe dọa chia cắt liên quân Anh - Pháp, uy hiếp đến cả Paris. Lúc này, điểm yếu từ những bất đồng giữa chỉ huy hai bên là Douglas Haig và Phillipe Pétain bắt đầu bộc lộ. Nguy cơ thảm bại trước mắt đã khiến phe Hiệp Ước phải tìm ra một người có khả năng hợp nhất các lực lượng hai bên. Haig bèn đề nghị đưa viên Tham mưu trưởng quân Pháp là Ferdinand Foch lên làm Tổng tư lệnh các lực lượng Hiệp Ước, vào ngày 23 tháng 3 năm 1918.
Đến ngày thứ 3 sau khi chiến dịch Michael bắt đầu, các lực lượng phe Hiệp Ước đã phải lùi lại khá xa so với tiền tuyến và chịu thiệt hại nặng nề. Tuy vậy, quân Đức lại không tiến xa được như dự kiến; kế hoạch chia cắt các lực lượng Anh và Pháp, sau đó đánh bọc sườn và đẩy lui quân Anh ra phía biển đã không thực hiện được. Thực chất thì trừ một số đơn vị tinh nhuệ ra thì đa số quân Đức cũng đã mệt mỏi, kiệt quệ và thiếu thốn đủ thứ. Nhưng do thắng lợi ban đầu quá lớn và quá nhanh chóng, nên Kaiser Wilhelm tuyên bố ngày 24 tháng 3 là lễ hội toàn quốc, và tin tưởng rằng chiến thắng đã ở trước mắt.
Cuộc tấn công của quân Đức bắt đầu chậm dần và cuối cùng bị chặn đứng gần như hoàn toàn vào ngày 5 tháng 4. Lúc này, các lực lượng quân Mỹ đầu tiên đã xuất hiện ở mặt trận phía tây, nhưng chưa được tung ra trận ngay vì tướng Pershing của Mỹ không muốn quân của mình ở dưới sự chỉ huy của Anh và Pháp.
Đến ngày 9 tháng 4, Ludendorff tiếp tục cho quân Đức mở chiến dịch Georgette với mục tiêu là chọc thủng phòng tuyến Anh ở đoạn giữa La Basses và Armentiere. Trước khi tấn công 2 ngày thì pháo binh Đức đã nã đạn liên tục vào vị trí này, sử dụng cả đạn khí độc. Rồi ngay khi pháo binh kết thúc bắn yểm trợ, các đơn vị tinh nhuệ Đức là lính Bão tố đã xông lên đánh chiếm dãy chiến hào ở tuyến trước trong khi các đơn vị phía sau ập vào chiếm giữ vị trí vừa thất thủ. Quân Đức dùng tất cả những thứ vũ khí có được, khoét sâu vào trung tâm phòng thủ của đối phương, đôi khi phải đánh cận chiến bằng dao, xẻng và cả tay không. Màn sương mù dày đặc càng khiến cuộc tấn công của Đức thêm thuận lợi. Tuyến phòng thủ của Anh bị vỡ vụn, và họ buộc phải rút lui về phía sau tới hàng chục km.
Nhưng cũng như lần trước, đà tiến của quân Đức chậm lại rồi dừng hẳn do kiệt sức và sa sút tinh thần. Tới ngày 30 tháng 4, chiến dịch kết thúc khi cả hai bên đều thiệt hại quá nặng để tiếp tục. Nhưng tình hình bi đát hơn cho quân Đức khi họ thiếu hẳn các lực lượng dự bị, trong khi quân Mỹ đã bắt đầu ồ ạt tiến ra chiến trường để hỗ trợ cho quân Anh và Pháp.
Nhưng không chấp nhận bỏ cuộc, vào ngày 27 tháng 5, Ludendorff lại tiếp tục phát động chiến dịch Blücher - Yorck nhắm vào quân Pháp ở vùng sông Aisne. Các lực lượng phòng thủ ở đây đã suy yếu nghiêm trọng bởi các trận đánh từ trước; thành ra tuyến phòng thủ của họ nhanh chóng bị xuyên thủng. Quân Đức vượt qua được hai con sông chỉ trong một ngày và khoét một mũi sâu hơn 30km vào sau phòng tuyến phe Hiệp Ước. Họ đánh bật được các lực lượng phòng thủ và tiếp viện, và đến tận hôm sau phe Hiệp Ước vẫn không cản nổi bước tiến của đối phương. Lúc này, họ chỉ còn cách Paris hơn 100km mà thôi.

Lính Anh trong trận Aisne
Thất bại nhanh chóng của quân Pháp khiến các chỉ huy phe Hiệp Ước kinh hoàng, đến cả Ludendorff cũng bất ngờ khi thấy quân Đức có thể tiến nhanh đến như thế. Ban đầu ông chỉ định lôi kéo quân dự bị Pháp ở Flanders tới tham chiến để khiến quân Anh ở đó suy yếu. Nhưng sau khi nhìn thấy thắng lợi bất ngờ của cuộc tiến công này, Ludendorff quyết định biến cuộc tiến công giới hạn của mình thành mũi tấn công chính. Ngày 29 tháng 5, quân Đức đổ thêm quân dự bị vào mặt trận Aisne, tiến sâu qua phòng tuyến cũ của Pháp hơn 45 km. Nhiều đơn vị tiên phong của Đức chỉ cách Paris 90 km. Nhưng hai bên cánh của quân Đức, các thành phố Reims và Noyon vẫn đứng vững khiến họ không thể nới rộng vùng kiểm soát.
Quân Đức tiếp tục tiến và chiều ngày 30 tháng 5 đã tới được Marne, cách Paris hơn 60km. Tổng chỉ huy quân Pháp là Pétain hoảng hồn và buộc phải cho giảm bớt lực lượng phòng thủ ở Verdun để rút về hỗ trợ. Ông thậm chí còn khuyên Thủ tướng Clemencau chủ động rút về Bordeaux đề phòng tình huống xấu nhất. Nhưng may mắn là các lực lượng dự bị của Pháp vẫn đông đảo và sẵn sàng. Nhờ sự chuẩn bị của tướng Foch, những cuộc phản công của quân Hiệp Ước ngày càng hiệu quả. Quân Đức bắt đầu gặp trở ngại và không tiến xa hơn được bao nhiêu. Pétain liên tục điều động quân đến Marne và động viên toàn quân rằng chỉ cần cố gắng cầm cự ít lâu thì quân Mỹ sẽ tham chiến.
Đến ngày 4 tháng 6, tại Château-Thierry, quân Mỹ được quân Pháp hỗ trợ đã chặn đứng được các đợt xung phong của Đức. Có một vài đơn vị Đức vượt qua được bờ nam sông Marne nhưng đều bị đẩy lui. Tuy chưa hiện diện đông đảo nhưng sự xuất hiện của quân Mỹ đã làm sĩ khí quân Pháp tăng cao. Đồng thời, tướng Foch cũng ra lệnh toàn quân giữ vững các phòng tuyến để đề phòng quân Đức vượt qua được. Thế nhưng ở một vài vị trí, quân Pháp dù cố chống trả và chịu thiệt hại nặng nhưng vẫn không giữ nổi. Một vài lực lượng quân Đức nhờ vậy đã có thể tiến sâu thêm 11km. Nhưng dù sao thì Pétain cũng đã vẫn kịp thiết lập thêm một hàng phòng thủ nữa. Quân Đức tiếp tục bị chặn lại và lần này không còn đủ sức vượt qua nữa.
Trong khi đó thì ở mặt trận Ý, quân đội Áo - Hung mở một cuộc tấn công vào Asiago và sông Piave, nhưng kết quả là họ hứng chịu thất bại nặng nề với 118,000 thương vong. Thất bại này khiến sĩ khí quân Áo - Hung hoàn toàn sụp đổ. Mọi thứ giờ chỉ còn trông chờ vào quân Đức ở mặt trận phía tây.
Ludendorff quyết định tung thêm một đợi tấn công nữa, với hy vọng mong manh rằng quân Đức có thể bẻ gãy quân Anh. Chiến dịch Marneschutz - Reims bắt đầu ngày 15 tháng 7, nhưng tình hình thực tế không thuận lợi chút nào - quân Mỹ tham chiến ngày càng đông đảo, bù vào sự thiếu hụt và kiệt quệ của Anh và Pháp. Đợt tấn công này của quân Đức nhắm vào Reims, lấy đây làm hướng đột phá chính và mở màn bằng các đợt bắn phá dữ dội của pháo binh và súng cối Đức. Sau đó, bộ binh Đức mang theo mặt nạ phòng độc xung phong dưới sự che chở và yểm trợ của cả xe tăng lẫn máy bay bay thấp. Tuy nhiên, phe Hiệp Ước đã chuẩn bị và dự đoán được trước, tổ chức phòng thủ kỹ càng và thậm chí còn được tướng Foch tăng viện. Hai bên giao chiến ác liệt, giành nhau từng tấc đất một, nhưng cuối cùng Đức là bên kiệt quệ trước và buộc phải rút lui sau khi hứng chịu thiệt hại nặng nề. Tính đến lúc này, chiến dịch mùa xuân của Ludendorff đã khiến quân Đức hứng chịu thương vong lên tới hơn 688,000 người; và họ hoàn toàn không còn đủ sức tiếp tục tấn công hoặc thậm chí là chống đỡ trước quân đội phe Hiệp Ước đông đảo hơn nhiều nữa.

Pháo của quân Mỹ
Sau khi đẩy lui được quân Đức, phe Hiệp Ước bắt đầu phản công trên toàn mặt trận phía tây. Quân Đức đã cạn kiệt về quân số và đạn dược nên không còn khả năng chống trả mạnh mẽ như trước đây nữa. Cuộc tấn công bắt đầu từ 8 tháng 8 bằng trận Amiens, liên quân đồng loạt phối hợp tấn công: quân Pháp bên phải, quân Anh bên trái, các quân đoàn Canada và Úc làm mũi nhọn tấn công chính diện với hàng trăm xe tăng. Quân Đức liên tục bị đẩy lùi về phía sau hàng chục km.
Đến ngày 21 tháng 8, quân Anh tiếp tục mở trận sông Somme lần thứ hai, đánh bật quân Đức về vị trí như lúc mới bắt đầu cuộc chiến. Tuy vậy cuộc phản công dừng lại cuối tháng 9 khi quân đội phe Hiệp Ước không tiến xa thêm được. Hai bên lại giữ thế giằng co cho đến cuối cuộc chiến.
Trên các mặt trận còn lại, Bulgaria và Đế quốc Ottoman cũng liên tục hứng chịu các thất bại trong hai tháng 9 và 10. Bulgaria nhanh chóng phải ký thỏa thuận ngừng bắn, trong khi Ottoman thì mất một loạt thành phố quan trọng như Damascus và Aleppo. Và đến cuối tháng 10, Đế quốc Ottoman chấp nhận ký thỏa thuận ngừng bắn. Ở mặt trận Ý, Áo - Hung hứng chịu đòn kết liễu trong trận Vittorio Veneto. Quân đội Áo - Hung tan rã hoàn toàn khi 448,000 người bị bắt làm tù binh. Đế quốc Áo - Hung coi như đã đến hồi cáo chung, và họ ký thỏa thuận ngừng bắn vào ngày 3 tháng 11.
Tình thế giờ đã rõ, quân Đức đã không còn khả năng giành được chiến thắng nữa. Thậm chí hải quân Đức ở Kiel còn nổi loạn chống đối khi được lệnh thực hiện một cuộc tấn công tự sát nhắm vào hải quân Anh. Ludendorff đã phải thông báo cho Kaiser Wilhelm rằng tình hình trên chiến trường đã vô vọng, và Đế quốc Đức buộc phải tìm kiếm một thỏa thuận ngừng bắn để kết thúc chiến tranh, tránh để tình hình xấu hơn. Đức đã gửi đề xuất ngừng bắn tới Mỹ, và Tổng thống Wilson đã đáp lại bằng việc yêu cầu Đức rút quân khỏi mọi vùng lãnh thổ họ đang chiếm đóng, đồng thời Kaiser sẽ phải thoái vị. Làn sóng cách mạng lúc này đã bùng nổ và nhanh chóng lan rộng ở Đức khiến Kaiser Wilhelm phải thoái vị vào ngày 9 tháng 11. Nền cộng hòa Weimar ở Đức ra đời và ngày 11 tháng 11 năm 1918, Đức ký kết thỏa thuận ngừng bắn và chấp nhận đầu hàng. 11 giờ trưa hôm ấy, chiến tranh chính thức khép lại. Binh lính cuối cùng bỏ mạng trong cuộc chiến là Binh nhì Henry Gunther của quân đội Mỹ, khi anh này xung phong vào một ổ súng máy của quân Đức và trúng đạn chết đúng 1 phút trước khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực.
Cuộc Đại chiến kéo dài hơn 4 năm khiến cả châu Âu kiệt quệ đã kết thúc với hơn 17 triệu người thiệt mạng ở cả hai bên. Tác động của cuộc chiến này với châu Âu nói riêng và cả thế giới nói chung cực kỳ sâu sắc và còn kéo dài đến nhiều năm về sau. Người ta thường gọi đây là "Cuộc chiến để kết thúc mọi cuộc chiến", nhưng kỳ thực khi nó chấm dứt, không một quốc gia nào thực sự đạt được mục tiêu của mình. Các vấn đề cố hữu chưa được giải quyết triệt để, mà thậm chí một số mâu thuẫn mới còn nảy sinh. Và cuối cùng hơn 20 năm sau, cả châu Âu và thế giới lại một lần nữa bị cuốn vào một cuộc chiến khác khốc liệt và bi thảm hơn gấp bội - đó chính là Thế chiến thứ Hai. Một vở bi kịch thảm khốc nhất lịch sử nhân loại, và một phần căn nguyên của bi kịch đó, đến từ chính Cuộc Đại chiến, đến từ chính Thế chiến thứ Nhất.

Bản đồ châu Âu sau khi Thế chiến thứ Nhất kết thúc

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

