Thế kỷ 20, nhân loại đã trải qua một cuộc chiến thảm khốc mà đến nay vết thương của nó vẫn còn hằn sâu trong tâm thức của nhiều quốc gia và dân tộc trên thế giới. Cuộc chiến kéo dài ngót 6 năm và có sự tham gia của hơn 30 quốc gia lúc bấy giờ, thực sự là một cuộc chiến toàn diện. Các quốc gia tham chiến đã dồn toàn bộ nguồn lực kinh tế, quân sự, khoa học, công nghiệp vào nỗ lực giành chiến thắng. Vô số vụ thảm sát và diệt chủng kinh hoàng và những trận đánh đẫm máu đã diễn ra. Hậu quả mà nó để lại thì hết sức kinh hoàng khi số người thiệt mạng lên đến hơn 70 triệu người, và hàng trăm triệu người khác bị ảnh hưởng. Nền kinh tế các quốc gia sụp đổ, phần lớn hạ tầng công nghiệp cũng bị phá hủy… Sau tất cả, nỗi đau chiến tranh vẫn còn nhức nhối trong nhiều thế hệ ở các quốc gia bị ảnh hưởng. Trật tự thế giới cũng được viết lại từ cuộc chiến thảm khốc này.

Từ Thế chiến thứ Nhất tới Thế chiến thứ Hai
Thời điểm bắt đầu cuộc chiến ở châu Âu vẫn thường được xem là khi quân Đức xâm lược Ba Lan ngày 1 tháng 9 năm 1939 và sau đó 2 ngày thì Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Còn trên Mặt trận Thái Bình Dương, có người cho rằng thực chất chiến tranh thế giới đã bắt đầu từ khi Nhật Bản xâm lược Trung Quốc ngày 7 tháng 7 năm 1937. Thậm chí còn có ý kiến cho rằng Thế chiến thứ Hai bắt đầu từ tận năm 1931, với việc Nhật xâm lược vùng Mãn Châu ngày 19 tháng 9.
Nhưng thực sự mà nói, Thế chiến thứ Hai bắt đầu không chỉ trong ngày một ngày hai, hoặc vì 1-2 sự kiện. Nó là hệ quả từ một chuỗi những sự kiện xảy ra liên tục từ khi Thế chiến thứ Nhất còn chưa kết thúc. Thế chiến thứ Hai chính là tập hợp của nhiều xung đột. Tuy hầu hết là quốc gia đối đầu quốc gia, song cuộc nội chiến ở quy mô quốc tế giữa hai bên tả - hữu cũng có vai trò quan trọng không kém và thậm chí còn chi phối nhiều cuộc chiến trong số đó. Khó mà tóm gọn được nguyên nhân xảy ra Thế chiến thứ Hai chỉ trong vài câu, bởi vì nguyên nhân bùng nổ của cuộc chiến tàn khốc và ác liệt nhất thế giới từng biết đến này ở mỗi khu vực lại khác nhau.
Những tác động khủng khiếp của Thế chiến thứ Nhất đã khiến ngay cả những nước thắng trận như Pháp và Anh cũng kiệt quệ và kiên quyết rằng bằng mọi giá không để lặp lại việc tương tự nữa. Trung Âu thì bị phân mảnh bởi những đường biên giới mới được vẽ ra tại Hội nghị Versailles, lại hứng chịu sự nhục nhã và bần cùng mà thất bại mang lại. Niềm kiêu hãnh của các binh lính và sĩ quan Áo - Hung thì nát tan; người Đức thậm chí còn cay đắng hơn vì tính đến trước tháng 7 năm 1918 thì quân đội của họ vẫn bất bại. Điều ấy càng khiến việc trở thành nước bại trận là việc khó mà nuốt trôi được.

Cảnh ký kết Hiệp ước Versailles
Thế rồi siêu lạm phát giai đoạn 1923 - 1924 càng khiến nước Đức trở nên kiệt quệ. Sự cay đắng do nỗi nhục quốc gia lẫn cá nhân mang đến đã sinh ra cơn giận khổng lồ. Những người mang chủ nghĩa dân tộc Đức khao khát đến cái ngày trả được nỗi nhục sau khi bại trận. Đời sống ở Đức được cải thiện trong nửa sau những năm 1920, chủ yếu nhờ những khoản vay lớn từ Mỹ. Thế rồi cuộc suy thoái toàn thế giới, vốn bắt đầu từ sau sự sụp đổ của Phố Wall năm 1929 đã giáng đòn nặng hơn lên nước này khi Anh và các nước khác từ bỏ bản vị vàng vào tháng 9 năm 1931. Nỗi lo sợ trước một lần siêu lạm phát nữa đã buộc chính phủ của Thủ tướng Bruning phải duy trì đồng tiền Reichsmark theo giá vàng, khiến đồng tiền này bị định giá quá cao. Các khoản vay của Mỹ đã ngưng lại, chủ nghĩa bảo hộ chặn đường đến với các thị trường xuất khẩu của Đức, dẫn đến thất nghiệp tràn lan, tình cảnh khiến cơ hội cho những người với tư tưởng cực đoan trỗi dậy tăng lên đáng kể.
Khủng hoảng tư bản đã đẩy nhanh cuộc khủng hoảng dân chủ tự do. Phần lớn các hệ thống nghị viện xuất hiện sau khi ba đế chế của châu Âu sụp đổ khi Thế chiến thứ Nhất kết thúc đều không đủ sức đối phó với xung đột dân sự. Và các nhóm sắc tộc thiểu số vốn vẫn khá yên ổn dưới các chế độ đế quốc cũ giờ lại bị đe dọa trước các thuyết về sự thuần khiết quốc gia dân tộc.
Ký ức hãy còn mới về cách mạng Nga và các cuộc nội chiến khủng khiếp ở Hungary, Phần Lan, các nước Baltic và ngay cả ở Đức đã đẩy quá trình phân cực chính trị lên cao. Chủ nghĩa báo thù và chủ nghĩa xét lại đã nổi lên tại một số quốc gia châu Âu. Xu hướng này đặc biệt phát triển mạnh mẽ tại Đức. Ở Đức, Đế quốc bị giải thể trong cuộc Cách mạng 1918 - 1919. Một chính phủ dân chủ gọi là Cộng hòa Weimar được thành lập. Thời kỳ sau đó chứng kiến sự xung đột giữa những người ủng hộ nền cộng hòa non trẻ và những người chống đối không nhân nhượng - cả cánh tả lẫn cánh hữu.

Siêu lạm phát xảy ra ở Đức giai đoạn Khủng hoảng kinh tế 1923
Một nước khác là Ý thì vì có tư cách là quốc gia đồng minh của phe Hiệp ước thắng trận nên có giành được một số vùng đất. Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa dân tộc Ý đã nổi giận khi Anh và Pháp không thực hiện đủ những lời hứa hẹn của họ khi thuyết phục Ý tham chiến chống phe Liên minh Trung tâm. Hậu quả là từ năm 1922 đến năm 1925, phong trào Phát xít do Benito Mussolini lãnh đạo đã lên cầm quyền tại Ý. Chính quyền Mussolini đã sử dụng chủ nghĩa dân tộc làm cái cớ để thực hiện chế độ toàn trị, xóa bỏ nền dân chủ đại nghị, đàn áp các lực lượng xã hội chủ nghĩa, cánh tả và tự do. Ý chuyển sang theo đuổi chính sách đối ngoại bành trướng hung hãn nhằm biến nước này trở thành một cường quốc trên thế giới, một "Đế chế La Mã mới."
Quay trở lại Đức, thì thế lực của Đảng Xã hội Quốc gia (tức Đảng Quốc xã) cũng theo chủ nghĩa phát xít dần lớn mạnh. Đảng Quốc xã do Adolf Hitler lãnh đạo đã từng tổ chức bạo động ở bang Bayern năm 1923 nhằm lật đổ chính quyền ở đây rồi tiến tới lật đổ Cộng hòa Weimar. Tuy cuộc đảo chính thất bại, nhưng nó cũng góp phần khiến tên tuổi Hitler nổi danh trên cả nước, nhiều người coi ông ta là một nhà ái quốc lớn lao và một người anh hùng dân tộc Đức. Dần dà, thế lực của Đảng Quốc xã nói chung và của Hitler nói riêng trở nên mạnh mẽ hơn. Đến tháng 9 năm 1930, tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Quốc xã đã tăng từ 2,5% lên tới 18,3%. Cuối cùng thì đến năm 1933, Hitler chính thức trở thành Thủ tướng Đức, và sau đó là Quốc trưởng. Ông ta nhanh chóng tiến hành loại bỏ những kẻ đối địch, bãi bỏ chế độ dân chủ và tham vọng thay đổi trật tự thế giới, nâng cao vị thế của dân tộc và quốc gia Đức.
Tài năng lớn nhất của Hitler nằm ở chỗ ông ta nhận ra và khai thác được điểm yếu của đối thủ. Phe cánh tả ở Đức sau khi phân đôi thành Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội Dân chủ đã không còn là mối đe dọa thực sự. Hitler thì dễ dàng dắt mũi được những người bảo thủ ngây thơ ngạo mạn tưởng rằng họ đã kiểm soát được ông ta. Ngay sau khi củng cố xong địa vị và quyền lực ở Đức, Hitler chuyển sang việc thách thức phá vỡ Hiệp ước Versailles. Đức tổ chức trưng binh trở lại vào năm 1935, Hải quân được tăng cường và Không quân được thành lập. Ban đầu, Anh, Pháp và Ý cùng thành lập Mặt trận Stresa vào tháng 4 năm 1935 để kiềm chế nước Đức đang quân sự hóa. Thế nhưng chỉ 2 tháng sau, Anh đã cùng nước Đức đàm phán thỏa thuận hải quân độc lập, nới lỏng các hạn chế trước đó. Lo ngại trước những tham vọng lãnh thổ của Đức tại Đông Âu, Liên Xô đã cùng với Pháp soạn thảo một hiệp ước tương trợ. Một nước khác là Mỹ cũng tỏ ra lo ngại trước những diễn biến căng thẳng ở châu Âu và châu Á. Do đó, Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Trung lập vào tháng 8 cùng năm.

Adolf Hitler vào năm 1933
Tháng 3 năm 1936, Hitler công khai thách thức và vi phạm các hiệp ước Versailles và Locarno bằng cách đưa quân vào vùng phi quân sự hóa Rhineland. Hành động này không khác nào một cái tát vào mặt Pháp - nước đã chiếm đóng vùng này hơn một thập niên; đồng thời cũng khiến sự ngưỡng mộ Quốc trưởng lan rộng khắp nước Đức - kể cả những người vốn không bỏ phiếu cho ông ta. Sự ủng hộ này, cộng với việc các nước châu Âu nhân nhượng và phản ứng yếu ớt khiến Hitler càng hào hứng làm tới. Bên trong nước Đức, Hitler bắt đầu những hành động đàn áp và bài trừ người Do Thái. Bên ngoài, ông ta sốt sắng trong việc thực hiện tham vọng của mình - biến cả Trung Âu và toàn bộ lãnh thổ của Nga đến tận sông Volga thành lãnh thổ của Đức, để đảm bảo cho Đức một vị thế siêu cường. Hitler thậm chí còn ra tay can thiệp vào cuộc nội chiến Tây Ban Nha, góp phần giúp phe phát xít của Francisco Franco giành thắng lợi. Cuộc nội chiến Tây Ban Nha cũng góp phần đưa hai quốc gia đi theo chủ nghĩa phát xít là Đức và Ý trở nên thân thiết với nhau hơn.
Tháng 10 năm 1936, Đức và Ý thành lập Trục Rome - Berlin. Đồng thời, với mong mỏi có thêm đồng minh trong cuộc chiến sắp tới chống Liên Xô, Hitler đã lập ra Hiệp ước Chống Quốc tế Cộng sản với Nhật Bản vào tháng 11 năm 1936. Và một năm sau thì Ý cũng tham gia hiệp ước này, dần hình thành nên Trục Rome - Berlin - Tokyo.
Ở châu Á lúc bấy giờ, Nhật Bản cũng đã bành trướng thuộc địa ở Viễn Đông từ tận những năm cuối của thế kỷ 19. Lợi dụng sự suy yếu của nhà Thanh ở Trung Quốc, Nhật Bản đã thiết lập sự hiện diện ở Mãn Châu, chiếm đảo Đài Loan và bán đảo Triều Tiên. Thế rồi thắng lợi trước nước Nga trong cuộc chiến 1904 - 1905 đã biến Nhật Bản thành thế lực quân sự lớn mạnh bậc nhất trong khu vực. Còn ở Trung Quốc thì sau khi cách mạng Tân Hợi thành công và nhà Thanh kết thúc, quốc gia này nhanh chóng rơi vào tình trạng hỗn loạn nội chiến giữa các thế lực khác nhau. Giữa những năm thập niên 1920, Quốc dân Đảng phát động chiến dịch Bắc phạt với mục tiêu thống nhất Trung Quốc, đồng thời tiêu diệt quyền lực của các thế lực quân phiệt cát cứ. Tuy chiến dịch kết thúc thành công và Trung Quốc đã được thống nhất, nhưng chính quyền Tưởng Giới Thạch sau đó nhanh chóng rơi vào cuộc nội chiến với Đảng Cộng sản (dù sau này vào cuối năm 1936, hai bên đồng ý ngừng chiến và hợp tác để chống lại sự gây hấn ngày càng gia tăng của Nhật Bản).

Ái Tân Giác La Phổ Nghi - Hoàng đế bù nhìn của Mãn Châu Quốc
Tháng 9 năm 1931, quân đội Nhật tạo nên sự kiện Phụng Thiên khi cho nổ đường sắt để lấy cớ chiếm cả Mãn Châu. Mục tiêu của Nhật chính là biến Mãn Châu thành vựa lương thực để nuôi chính quốc. Họ thành lập ra cái gọi là Mãn Châu Quốc, lập ra một chính quyền bù nhìn cho vị vua cuối cùng của nhà Thanh là Phổ Nghi, đã thoái vị từ năm 1912 khi cách mạng thành công ở Trung Quốc. Để đáp trả, Trung Quốc yêu cầu Hội Quốc Liên cấm vận Nhật Bản, nhưng bị từ chối. Tuy vậy, hành động của Nhật ở Mãn Châu cũng khiến nước này bị cô lập ngoại giao. Nhưng điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến tham vọng của giới quân sự hiếu chiến trong chính phủ Nhật. Quân đội Nhật bắt đầu dòm ngó đến Liên Xô và để mắt tới khu vực phía nam Thái Bình Dương; mục tiêu là các thuộc địa Viễn Đông của Anh, Pháp và Hà Lan. Song song với đó, quan hệ giữa Nhật và Trung cũng ngày càng căng thẳng hơn, cuối cùng dẫn đến Sự kiện Lư Câu Kiều ngày 7 tháng 7 năm 1937, khi quân đội hai bên nổ súng vào nhau và chiến tranh Trung - Nhật chính thức bắt đầu.
Quay lại châu Âu thì nhìn chung thái độ của nhiều quốc gia với nước Đức ngày càng hung hãn với lực lượng quân sự càng lúc càng mạnh, vẫn là tương đối dè chừng và mang tâm lý cầu may. Nhiều người thậm chí còn coi Đức Quốc xã như một tấm khiên chắn để chống lại chủ nghĩa Bolshevik. Số khác ngại đối mặt với chính quyền Hitler vì tin rằng Đức đã bị đối xử quá bất công ở hội nghị Versailles. Trên hết là các nước đứng đầu châu Âu là Anh và Pháp lo ngại trước một cuộc chiến quy mô toàn châu Âu nữa. Việc nhắm mắt làm ngơ để Đức Quốc xã thôn tính Áo vào tháng 3 năm 1938 có vẻ là một cái giá nhỏ để duy trì hòa bình thế giới.
Hitler sau đó mới quyết định muốn xâm chiếm Tiệp Khắc vào tháng 10 năm đó. Nhưng trước khi Hitler kịp tìm cớ gây chiến, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain và Thủ tướng Pháp Édouard Daladier đã ký với Đức Hiệp ước Munich, đồng ý nhượng vùng Sudetenland của Tiệp Khắc cho Đức với hy vọng duy trì hòa bình. Hitler tuy bị tước đi cơ hội gây chiến ngay trong năm 1938, nhưng chuyện này với nước Đức cũng chỉ có lợi. Chamberlain còn có một nước đi sai lầm cốt yếu khác là từ chối hỏi ý kiến Stalin. Chamberlain tin rằng chỉ cần mình ông là có thể thuyết phục được Hitler rằng giữ hòa bình và mối quan hệ tốt với các quốc gia phía tây sẽ chỉ có lợi - nhưng rõ ràng ông đã đánh giá sai tham vọng của Hitler. Chính việc ấy đã góp phần tác động để khiến Liên Xô ký với Đức Quốc xã Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau vào tháng 8 năm 1939. Hiệp ước này không phải là thoả thuận liên minh, mà là sự hoà hoãn tạm thời giữa 2 quốc gia đối thủ nhằm hoãn việc lập tức gây chiến - Đức khi ấy muốn đánh Ba Lan và sau đó là Pháp trước nên cần tránh việc Liên Xô nhúng tay, mà Liên Xô cũng cần tranh thủ thời gian để củng cố sức mạnh quân sự.
Một số sử gia có đưa ra ý kiến rằng nếu Anh và Pháp sẵn sàng chiến đấu vào mùa thu năm 1938 thì hẳn là mọi sự đã khác. Điều ấy thì cũng có thể, ít ra là từ quan điểm phía Đức. Nhưng thực tế thì người dân cả Anh lẫn Pháp đều chưa sẵn sàng tâm lý cho chiến tranh, chủ yếu là bị các chính trị gia có xu hướng hòa hoãn đánh lạc hướng. Bất kỳ ai cố sức cảnh báo về nguy cơ chiến tranh và tham vọng của Hitler lúc ấy, giả dụ như Winston Churchill, đều bị coi là hiếu chiến.
Phải đến tháng 11 năm 1938, người ta mới sáng mắt ra trước bản chất thực của chế độ Hitler. Sau sự việc một thanh niên Ba Lan gốc Do Thái ám sát một quan chức sứ quán Đức ở Paris, quân đặc chủng Quốc xã đã tiến hành một cuộc khủng bố nhắm vào những người Do Thái trên toàn lãnh thổ Đức và Áo. Sự kiện này về sau còn được gọi bằng cái tên là "Đêm kính", khiến cả trăm người thiệt mạng và hàng chục nghìn người bị bắt vào các trại tập trung. Rồi đến tháng 3 năm 1939, Hitler chiếm nốt phần còn lại của Tiệp Khắc, vi phạm trắng trợn Hiệp ước Munich. Tham vọng thống trị châu Âu của Hitler lúc này đã quá rõ ràng, không thể ngó lơ được. Các nước châu Âu, đứng đầu là Anh và Pháp, lập tức thay đổi lập trường và cảnh báo Hitler đừng có mà lấn tới. Nhưng sau khi ký Hiệp ước không xâm phạm với Liên Xô tháng 8 năm đó, Hitler đã hoàn toàn rảnh tay để bắt đầu cuộc chiến mà ông ta khao khát từ lâu.

Một cửa hàng sau "Đêm kính"
Ngẫm lại thì, cái vòng lặp phẫn uất từ Hiệp ước Versailles dường như đã khiến cho việc bùng nổ một cuộc thế chiến khác là điều không thể tránh khỏi. Hậu quả của Thế chiến thứ Nhất đã tạo ra những bất ổn và căng thẳng khắp châu Âu cũng như châu Á. Nhưng phải nói rằng Adolf Hitler chính là kẻ hào hứng muốn tạo nên đám cháy mới và khủng khiếp hơn nhiều, để phục vụ tham vọng của ông ta.
Chiến tranh bùng nổ ở châu Âu
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức Quốc xã xâm lược Ba Lan sau khi dàn dựng một loạt vụ việc, trong đó có vụ lính Ba Lan phóng hỏa đốt trụ sở cơ quan phát thanh Đức tại Gleiwitz. Cuộc tấn công đầu tiên của quân Đức nhắm vào hệ thống phòng thủ của Ba Lan tại Westerplatte. Trước hành động xâm lược quân sự của Đức, nước Anh gửi tối hậu thư yêu cầu Đức dừng ngay cuộc tấn công. Sau khi tối hậu thư bị phía Đức bác bỏ, cả Anh và Pháp đều đồng loạt tuyên chiến ngày 3 tháng 9. Tuy đã tuyên chiến, nhưng Anh và Pháp không có hành động quân sự nào đáng kể để giúp đỡ Ba Lan. Nước Anh gần như án binh bất động, trong khi Pháp cũng chỉ có một cuộc thăm dò quân sự quy mô nhỏ vào cùng Saarbrucken. Ngoài ra, các nước phe Đồng Minh cũng bắt đầu một cuộc phong tỏa hải quân đối với Đức với mục đích tấn công nền kinh tế và kiềm chế những hành động quân sự của nước này. Đức Quốc xã nhanh chóng trả đũa khi cho triển khai tàu ngầm tấn công tàu của các nước phe Đồng Minh. Xung đột trên biển dần leo thang và biến thành một chuỗi những trận chiến giằng co nhau giữa các phe, kéo dài mãi đến khi Thế chiến thứ Hai kết thúc.
Ngày 8 tháng 9 năm 1939, quân đội Đức Quốc xã tiến đến vùng ngoại ô Warsaw. Đợt phản công của quân đội Ba Lan ở phía tây tuy cầm chân được người Đức trong vài ngày, nhưng họ nhanh chóng bị quân Đức tấn công và bao vây. Tàn quân Ba Lan đột kích vòng vây để quay về cố thủ Warsaw đang bị vây chặt. Nhưng rồi đến ngày 17 tháng 9, sau khi ký hiệp định đình chiến với Nhật Bản, Liên Xô tấn công miền đông Ba Lan. Liên Xô lấy lý do là để bảo vệ người Ukraine và Belarus, do nhà nước Ba Lan đã sụp đổ và không còn khả năng bảo vệ người dân của mình nữa. Ngoài ra, Liên Xô cũng tuyên bố rằng họ không còn bị giới hạn bởi hiệp ước không xâm phạm với Ba Lan nữa vì chính phủ nước này đã không còn tồn tại. Đến ngày 27 tháng 9, các đơn vị đồn trú ở thủ đô Warsaw đầu hàng quân Đức và đến ngày 6 tháng 10 thì lực lượng chính quy lớn nhất cuối cùng của Ba Lan cũng đầu hàng. Dù vậy, chính phủ Ba Lan quyết định không đầu hàng mà thành lập một chính phủ lưu vong. Một lượng lớn binh lính Ba Lan di tản sang Romania và các nước Baltic và nhiều người trong số họ về sau tiếp tục chiến đấu chống phe Trục trên các mặt trận khác.

Quân Đức Quốc xã diễu binh mừng chiến thắng trước Hitler tại Warsaw
Sau khi Ba Lan thất thủ thì Đức nhanh chóng sáp nhập miền tây và chiếm đóng miền trung nước này, trong khi miền đông bị Liên Xô sáp nhập. Một phần nhỏ lãnh thổ Ba Lan được chuyển cho Lithuania và Slovakia. Hitler chưa công bố khai tử nhà nước Ba Lan ngay mà hy vọng những gì đã xảy ra sẽ có thể khiến Anh và Pháp đi đến một thỏa thuận. Việc phe Đồng Minh không đưa quân tham chiến giúp đỡ Ba Lan khiến Hitler cho rằng Anh và nhất là Pháp không thực sự muốn tiếp tục cuộc chiến. Ngày 5 tháng 10, sau khi nhận sự chào đón tại cuộc diễu binh chiến thắng ở Warsaw, Hitler đã nói với các nhà báo nước ngoài rằng:
"Thưa các vị, các vị đã nhìn thấy đống đổ nát của Warsaw. Hãy để đây là lời cảnh báo cho các chính khách ở London và Paris vẫn còn nghĩ đến chuyện tiếp tục chiến tranh."
Ngày hôm sau, ông ta thông báo muốn đàm phán hòa bình công khai với Anh và Pháp, nhưng nhấn mạnh rằng tương lai của nhà nước Ba Lan sẽ do Đức và Liên Xô quyết định. Tuy nhiên đề xuất của Hitler bị cả Anh và Pháp từ chối, vì vậy ông ta lập tức muốn đưa quân tấn công Pháp. Thế nhưng cuối cùng chiến dịch bị hoãn đến mùa xuân năm 1940 do thời tiết không thuận lợi.
Trong khi đó, Liên Xô cũng tìm cách tác động lên các nước vùng Baltic như Estonia, Latvia và Lithuania. Stalin buộc các nước này ký một hiệp ước tương trợ, cho phép Liên Xô đóng quân trên lãnh thổ của họ. Nhưng Phần Lan khước từ việc ký kết hiệp ước này, cũng không đồng ý nhượng lại một phần lãnh thổ của mình. Đàm phán kéo dài đến tận tháng 11 mà không đi đến được thỏa thuận cuối cùng, do đó Stalin quyết định tấn công Phần Lan. Liên Xô cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao với Phần Lan vào ngày 29 tháng 11 và ngay hôm sau cho quân tấn công. Hành động này khiến Liên Xô bị trục xuất khỏi Hội Quốc Liên 2 tuần sau đó. Mặc dù sở hữu ưu thế vượt trội về quân số, nhưng Liên Xô chỉ đạt những thành công cực kỳ khiêm tốn về mặt quân sự. Tuy trả giá đắt, nhưng cuối cùng Liên Xô vẫn có thể coi là đạt được mục đích khi Phần Lan cắt khu vực Karelia cho Liên Xô.
Đến tháng 6 năm 1940, Liên Xô dùng vũ lực sáp nhập lãnh thổ các nước Estonia, Latvia, Lithuania cùng một số vùng lãnh thổ tranh chấp với Romania. Giai đoạn này, quan hệ hợp tác chính trị và kinh tế giữa Đức Quốc xã và Liên Xô cũng dần đổ vỡ. Dù sao thì hiệp ước không xâm phạm được hai nước này ký hai năm trước cũng chỉ là biện pháp tạm thời để chuẩn bị cho chiến tranh. Tham vọng của Hitler luôn là nuốt lấy toàn bộ phần phía đông của Nga, và vì thế cuộc đụng độ giữa Đức Quốc xã và Liên Xô là điều không thể nào tránh khỏi.

Binh sĩ Phần Lan trong cuộc chiến mùa đông với Liên Xô
Tây Âu và Địa Trung Hải
Tháng 4 năm 1940, Đức xâm lược Đan Mạch và Na Uy nhằm bảo vệ tuyến đường vận chuyển quặng sắt từ Thụy Điển mà phe Đồng Minh đang cố gắng cắt đứt. Đan Mạch đầu hàng chỉ sau vài giờ chiến đấu, và Na Uy cũng thất thủ 2 tháng sau - kể cả khi đã có sự hỗ trợ từ quân Đồng Minh. Việc không thể cứu Na Uy cũng khiến dư luận nước Anh bất mãn, Neville Chamberlain phải từ chức, Winston Churchill lên thay làm Thủ tướng vào ngày 10 tháng 5.
Cùng ngày hôm đó, Đức cũng mở màn chiến dịch tấn công Pháp. Để đi vòng qua Phòng tuyến Maginot kiên cố trải dài dọc biên giới Pháp - Đức, quân Đức đã chuyển hướng cuộc tấn công sang các quốc gia trung lập như Bỉ, Hà Lan và Luxembourg. Quân Đức di chuyển xuyên qua khu vực rừng Ardennes - vốn được quân Đồng Minh coi như một hàng rào tự nhiên không thể bị lực lượng thiết giáp chọc thủng. Bằng chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng, quân Đức tiến như vũ bão tới eo biển Manche. Bị đánh bọc sườn và bất ngờ trước tốc độ tiến quân của Đức, phần lớn quân đội Đồng Minh bị bao vây tại biên giới Pháp - Bỉ gần Lille. Để giải cứu lực lượng này, Churchill đã cho mở Chiến dịch Dynamo (hay còn được gọi là Cuộc di tản Dunkirk). Tuy phải bỏ lại hầu như tất cả trang bị vũ khí, nhưng chiến dịch đã giải cứu thành công hơn 330,000 quân Đồng Minh. Thiệt hại không hề nhỏ, nhưng quan trọng nhất là phe Đồng Minh đã giải cứu được một lượng lớn binh sĩ.

Bãi biển Dunkirk trước cuộc di tản
Đến ngày 10 tháng 6, Ý xâm lược Pháp, tuyên chiến với cả Anh. Trong khi đó, các lực lượng Đức nhanh chóng hướng về phía nam tấn công quân Pháp đã suy yếu và cuối cùng Paris thất thủ ngày 14 tháng 6. 8 ngày sau, Pháp buộc phải ký hiệp định đình chiến với Đức. Nước Pháp bị chia thành các khu vực do Đức và Ý chiếm đóng, và chính phủ Vichy là một chính phủ phát xít thân phe Trục được lập nên.
Để tránh việc hạm đội Pháp bị trưng dụng để tấn công các lực lượng Đồng Minh, vào ngày 3 tháng 7, Anh tấn công hạm đội Pháp đang neo đậu tại gần Algérie, đánh chìm nhiều tàu chiến. Cũng vào đầu tháng 7, các đơn vị không quân Đức bắt đầu không kích nước Anh bằng những cuộc oanh tạc nhắm vào tàu bè và bến cảng. Tuy nhiên, do không thể đánh gục được Không quân Hoàng gia Anh, nên Đức buộc phải trì hoãn vô thời hạn cuộc xâm lược Anh có mật danh Chiến dịch Sư tử biển đã được lên kế hoạch từ trước. Đức tiếp tục tăng cường không kích ban đêm nhắm vào London và nhiều thành phố trọng điểm khác suốt trong năm 1940 và đầu năm 1941. Tuy vậy, Đức vẫn không ngăn được Anh tham chiến, nên chiến dịch oanh tạc của không quân Đức kết thúc hoàn toàn vào tháng 5 năm 1941.
Cuối tháng 9 năm 1940; Nhật Bản, Ý và Đức ký kết Hiệp ước Ba bên, chính thức thành lập phe Trục. Hiệp ước Ba bên quy định rằng nếu bất kỳ quốc gia nào tấn công các quốc gia phe Trục, thì các nước còn lại sẽ ngay lập tức tham chiến. Đến tháng 11, thêm các nước Hungary, Slovakia và Romania tham gia phe Trục.
Giai đoạn này, Mỹ chưa trực tiếp tham gia cuộc chiến, vì đến tận năm 1941 dư luận Mỹ vẫn phản đối can thiệp quân sự trực tiếp. Từ trước khi Pháp sụp đổ, Churchill đã gửi một bức điện cho Tổng thống Roosevelt để hy vọng Mỹ ra tay hành động. Roosevelt đáp lại đầy thiện chí, nhưng chưa đưa ra cam kết gì. Tháng 12 năm 1940, Roosevelt cáo buộc Hitler lên kế hoạch chinh phục thế giới và tuyên bố mọi cuộc đàm phán với Đức là vô ích. Dù chưa chính thức tham chiến, nhưng Mỹ cũng đã bắt đầu lập kế hoạch chiến lược để chuẩn bị cho một cuộc tấn công toàn diện nhằm vào Đức.
Ở Địa Trung Hải thì vào đầu tháng 6 năm 1940, Không quân Hoàng gia Ý tấn công và bao vây đảo Malta của Anh. Từ cuối hè đến đầu thu, Ý chiếm Somaliland thuộc Anh và tiến hành xâm lược thuộc địa Ai Cập của Anh. Sang tháng 10, Ý đưa quân xâm lược Hy Lạp nhưng bị đẩy lui và quân Ý hứng chịu thương vong nặng nề. Chiến dịch Hy Lạp của Ý kết thúc trong vòng vài tháng, và quân Ý chỉ chiếm được một vài vùng lãnh thổ nhỏ. Để hỗ trợ Ý, Đức triển khai các cuộc tấn công vào vùng Balkan nhằm ngăn cản nước Anh giành được chỗ đứng tại đây - vì nếu thành công, quân Anh có thể trở thành mối đe dọa tới các mỏ dầu ở Romania. Còn nếu phe Trục chiếm được vùng Balkan thì có thể sử dụng nó làm bàn đạp để tấn công các vùng lãnh thổ thuộc Anh ở khu vực Địa Trung Hải.
Tháng 12 năm 1940, nước Anh phát động phản công quân Ý ở Ai Cập và Đông Phi, giành được nhiều thắng lợi. Đến đầu tháng 2 năm 1941, Ý đánh mất quyền kiểm soát miền đông Libya. Hải quân Ý cũng phải hứng chịu những thất bại nặng nề trước những cuộc tấn công của Hải quân Hoàng gia Anh. Thất bại của Ý và nguy cơ phe Trục bị đánh bật khỏi châu Phi đã buộc Đức phải cử một lực lượng viễn chinh đến Bắc Phi trợ chiến. Cuối tháng 3 năm 1941, Quân đoàn châu Phi của Đức dưới sự chỉ huy của Erwin Rommel đã phát động các đợt phản công đánh lui các lực lượng thuộc Khối thịnh vượng chung Anh. Chỉ trong chưa đầy 1 tháng, các lực lượng phe Trục đã tiến đến tây Ai Cập và bao vây cảng Tobruk.

"Cáo sa mạc" Erwin Rommel
Cuối tháng 3 năm 1941, Bulgaria và Nam Tư cũng tham gia ký kết Hiệp ước Ba bên. Tuy nhiên chỉ hai ngày sau, chính phủ thân Đức của Nam Tư đã bị phe dân tộc chủ nghĩa thân Anh lật đổ. Đáp trả lại hành động này, Đức đưa quân xâm lược cùng lúc cả Nam Tư lẫn Hy Lạp vào đầu tháng 4. Chỉ trong chưa đầy một tháng, cả hai nước đã phải đầu hàng. Cuộc tấn công bằng không quân vào đảo Crete của Hy Lạp cuối tháng 5 cũng đánh dấu việc chiến dịch Balkan của Đức thành công với rất ít tổn thất. Thế nhưng dù giành được thắng lợi chóng vánh, phe Trục đã phải đối phó với những sự kháng cự quyết liệt của du kích Nam Tư, và cuộc kháng chiến ấy kéo dài đến tận khi chiến tranh kết thúc.
Ở mặt trận Trung Đông thì vào tháng 5, các lực lượng thuộc Khối thịnh vượng chung Anh đã dập tắt được một cuộc nổi dậy ở Iraq do Đức Quốc xã giật dây thông qua chính phủ phát xít bù nhìn. Từ tháng 6 đến tháng 7, các lực lượng của Khối thịnh vượng chung Anh đã tiến hành tấn công và kiểm soát được các thuộc địa của Pháp ở Syria và Lebanon với sự hỗ trợ của chính quyền Nước Pháp Tự do lưu vong do Charles de Gaulle thành lập sau khi nước Pháp bị Đức Quốc xã chiếm.
Liên Xô bị tấn công
Lúc này thì cả Đức Quốc xã, Nhật Bản và Liên Xô đều bắt đầu chuẩn bị cho những bước đi tiếp theo. Nhật Bản muốn lợi dụng chiến tranh ở Châu Âu để chiếm đoạt nguồn tài nguyên giàu có tại các thuộc địa Đông Nam Á của phương Tây. Về phía Liên Xô, thì vì cảnh giác với căng thẳng ngày càng gia tăng với Đức, nước này đã ký hiệp ước không xâm phạm Xô - Nhật vào tháng 4 năm 1941 để tránh phải chiến đấu với cả hai nước phe Trục cùng lúc.
Trước đó thì vào cuối tháng 7 năm 1940, Hitler đã bắt đầu nghĩ đến việc xâm lược Liên Xô để sáp nhập lãnh thổ của Ukraine, Belorussia và các nước khu vực Baltic. Tuy nhiên, nhiều tướng lĩnh Đức cho rằng nếu có thể thì nên mời Liên Xô tham gia ký kết Hiệp ước Ba bên để tạo nên một khối liên minh Âu - Á để đối chọn với các nước Đồng Minh nói chung và Đế chế Anh nói riêng. Vì vậy nên vào tháng 11, Đức và Liên Xô tiến hành đàm phán song phương để xác định xem liệu Liên Xô có tham gia Hiệp ước Ba bên hay không. Liên Xô bày tỏ sự quan tâm nhưng lại yêu cầu Phần Lan, Bulgaria, Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật Bản phải nhượng bộ; và Hitler không chấp nhận yêu sách này. Đàm phán đổ vỡ, và Hitler ban hành chỉ thị cho các lực lượng chuẩn bị xâm lược Liên Xô.
Ngày 22 tháng 5 năm 1941, quân Đức có sự hỗ trợ của các Tập đoàn quân Ý và Romania, bắt đầu mở Chiến dịch Barbarossa, tiến vào lãnh thổ Liên Xô. Hai nước Phần Lan và Hungary cũng nhanh chóng tham chiến theo phe Đức. Các mục tiêu chính của chiến dịch này là khu vực Baltic, thủ đô Moskva và lãnh thổ Ukraine. Tham vọng của Hitler là đánh quỵ Liên Xô, tiêu diệt Chủ nghĩa Cộng sản, bành trướng lãnh thổ của Đệ tam Đế chế Đức để cung cấp cho dân Đức cái gọi là "Lebensraum" (nghĩa là "không gian sống"), bằng cách trục xuất dân bản địa ở những khu vực bị chiếm đóng, đồng thời khai thác được những nguồn lực có ở các khu vực ấy để phục vụ cho chiến tranh.

Lính Đức chiến đấu trong Chiến dịch Barbarossa
Dù Liên Xô đã có những sự chuẩn bị nhất định, nhưng trước đà tiến công mạnh mẽ của quân Đức, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã buộc phải áp dụng phương án phòng thủ chiến lược. Trong suốt mùa hè, quân Đức đã tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô, gây ra nhiều tổn thất nặng nề về cả nhân lực lẫn vật lực. Tuy nhiên đến giữa tháng 8, Bộ Chỉ huy tối cao Đức quyết định tạm hoãn các cuộc tấn công của Cụm tập đoàn quân Trung tâm đã mệt mỏi sau gần 2 tháng tiến quân chớp nhoáng. Quân Đức điều hướng Tập đoàn thiết giáp 2 tới miền trung Ukraine và Leningrad để tăng viện cho mặt trận ở đây. Ngoài ra, Đức Quốc xã cũng giành thắng lợi lớn trong cuộc tấn công vào Kiev, khi tiêu diệt được gần như hoàn toàn Phương diện quân Tây Nam của Liên Xô. Nhờ vậy, Đức đã có bàn đạp để thọc sâu vào Crimea và khu vực công nghiệp ở miền đông Ukraine.
Việc Đức dồn quân vào đánh Liên Xô ở Mặt trận phía Đông cũng có nghĩa là lục quân và phần lớn không quân phe Trục đã rời khỏi Pháp và trung tâm Địa Trung Hải. Trước tình hình đó, nước Anh đã có những điều chỉnh về chiến lược tổng. Tháng 7 năm 1941, Anh và Liên Xô thành lập liên minh quân sự chống Đức. Đến tháng 8, Anh và Mỹ cùng nhau ban hành Hiến chương Đại Tây Dương, vạch ra các mục tiêu của hai nước đối với thế giới sau chiến tranh. Cuối tháng đó, Anh và Liên Xô cùng đưa quân xâm lược nước trung lập Iran với mục đích đảm bảo tuyến đường tiếp tế qua Hành lang Ba Tư, kiểm soát các mỏ dầu ở đây và ngăn ngừa phe Trục có thể dùng Iran làm nơi trung chuyển để tiến quân đến chiếm các mỏ dầu ở Azerbaijan hoặc thậm chí là Ấn Độ.
Tháng 10 năm 1941, quân Đức cơ bản đã hoàn thành phần lớn các mục tiêu tác chiến ở Ukraine và vùng Baltic, nhưng vẫn chưa chiếm được Leningrad và Sevastopol. Bộ Chỉ huy tối cao Đức bèn tái khởi động chiến dịch tấn công Moskva với mục tiêu là bằng mọi cách chiếm lấy thành phố này để đánh gục sĩ khí của Liên Xô. Sau hai tháng kịch chiến trong điều kiện thời tiết ngày càng trở nên khắc nghiệt, quân Đức đã đến được ngoại ô Moskva. Thế nhưng bấy giờ người Đức đã kiệt quệ và buộc phải tạm hoãn tấn công. Đức Quốc xã chiếm được một vùng lãnh thổ rộng lớn, nhưng chiến dịch của họ đã không đạt được các mục tiêu chính khi hai thành phố trọng yếu là Leningrad và Moskva vẫn được Liên Xô phòng thủ và giữ vững. Cuối cùng, quân Đức sa lầy ở cả hai mặt trận này trong những cuộc vây hãm kéo dài và khốc liệt, còn thiệt hại thì vô cùng lớn. Không thể chiếm được Moskva, còn bị Hồng quân tổ chức phản công đánh bật ra, giai đoạn chiến tranh chớp nhoáng của Đức ở mặt trận châu Âu cũng đi đến hồi kết.

Xe thiết giáp Đức trong cuộc vây hãm Moskva
Mặt trận Thái Bình Dương
Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương thì từ trước khi chiến tranh bùng nổ ở châu Âu, quan hệ giữa Nhật và Mỹ đã xấu đi bởi một loạt hành động gây hấn của Nhật. Năm 1931, Nhật dàn dựng sự kiện Phụng Thiên để chiếm Mãn Châu của Trung Quốc; rồi năm 1937, Nhật tiếp tục dàn dựng sự kiện Lư Câu Kiều để chính thức xâm lược Trung Quốc, gây ra hàng loạt tội ác nghiêm trọng - ví dụ như thảm sát Nam Kinh. Vì vậy nên đến năm 1939, Mỹ quyết định không tiếp tục gia hạn hiệp ước thương mại song phương với Nhật nữa. Vì dư luận Mỹ phản đối chủ nghĩa bành trướng của Nhật dẫn đến việc nước này thực hiện một loạt biện pháp trừng phạt kinh tế lên Nhật. Chính phủ Mỹ cũng đã ban hành Đạo luật Kiểm soát Xuất khẩu, chấm dứt hoạt động xuất khẩu hóa chất, khoảng sản và các bộ phận dùng để chế tạo vũ khí sang Nhật.
Chiến tranh Trung - Nhật dần rơi vào thế giằng co trong giai đoạn này. Quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc mở một cuộc phản công quy mô lớn vào đầu năm 1940. Rồi đến tháng 8, quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng mở chiến dịch lớn ở miền trung. Để gia tăng sức ép với Trung Quốc bằng cách cắt đứt các tuyến đường tiếp tế và để bố trí quân đội trong trường hợp xảy ra chiến tranh với các cường quốc phương Tây, Nhật xâm lược và chiếm đóng miền bắc Đông Dương vào tháng 9 năm 1940.
Tháng 7 năm 1941, Nhật đưa quân đến miền nam Đông Dương, đe dọa các thuộc địa của Anh và Hà Lan ở Viễn Đông. Các quốc gia phương Tây đã đáp trả hành động này bằng cách đóng băng mọi tài sản của Nhật ở nước ngoài, đồng thời áp đặt lệnh cấm vận dầu một cách triệt để. Lúc này thì Nhật vốn đang lên kế hoạch xâm lược vùng Viễn Đông của Liên Xô, với ý định lợi dụng việc nước này đang bận chống trả cuộc xâm lược của Đức ở phía tây. Tuy nhiên, trước các lệnh trừng phạt của phương Tây, Nhật đã phải từ bỏ ý định này.
Cũng từ đầu năm 1941, Mỹ và Nhật đã ngồi vào bàn đàm phán nhằm cải thiện mối quan hệ căng thẳng song phương và chấm dứt chiến tranh ở Trung Quốc. Trong các cuộc đàm phán này, Nhật đã đưa ra một số đề xuất, nhưng bị Mỹ bác bỏ vì cho rằng những đề xuất ấy không thỏa đáng chút nào. Đàm phán rơi vào bế tắc, và chiến tranh ở Trung Quốc vẫn tiếp diễn. Trong giai đoạn này, ba nước Anh - Mỹ - Hà Lan cũng đã bí mật họp để lên kế hoạch phòng vệ trong trường hợp Nhật Bản tấn công. Tổng thống Mỹ Roosevelt cũng đã cho tăng cường quân lực đóng ở Philippines, đồng thời cảnh báo rằng Mỹ sẽ đáp trả nếu Nhật Bản có bất kỳ hành động quân sự với các nước láng giềng trong khu vực.

Trân Châu Cảng bị quân Nhật tấn công
Bế tắc vì tình hình cuộc chiến ở Trung Quốc, cộng thêm việc bị ảnh hưởng từ các lệnh phong tỏa của Anh - Mỹ - Hà Lan; Nhật Bản bắt đầu chuẩn bị cho chiến tranh toàn diện. Ngày 20 tháng 11 năm 1941, nội các mới dưới quyền Thủ tướng Tojo Hideki đưa ra tối hậu thư, yêu cầu Mỹ chấm dứt viện trợ cho Trung Quốc, dỡ bỏ lệnh cấm vận cung cấp dầu và các nguồn tài nguyên khác cho Nhật Bản. Đổi lại, nước này hứa sẽ không nhòm ngó tới Đông Nam Á và rút quân đội ra khỏi miền nam Đông Dương. Ngày 26 tháng 11, Mỹ trả lời bằng cách yêu cầu Nhật rút quân khỏi Trung Quốc vô điều kiện và ký kết hiệp ước không xâm phạm với các cường quốc khu vực Thái Bình Dương. Như vậy tức là Nhật Bản buộc phải lựa chọn giữa việc từ bỏ tham vọng của mình ở Trung Quốc, hoặc chiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Đông Ấn thuộc Hà Lan mà nước này cần bằng vũ lực. Quân đội Nhật Bản không định làm theo yêu cầu của Mỹ, và bắt đầu vạch kế hoạch tấn công.
Nhật Bản lên kế hoạch đánh chiếm các thuộc địa châu Á của các nước phương Tây một cách nhanh chóng để tạo một vành đai phòng thủ lớn kéo dài đến khu vực trung tâm Thái Bình Dương. Theo kế hoạch thì sau khi thành công, Nhật sẽ có thể tự do khai thác các nguồn tài nguyên của Đông Nam Á, đồng thời giữ thế phòng thủ chủ động trước các lực lượng Đồng Minh phải dàn mỏng. Để ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ trong khi đảm bảo vành đai phòng thủ, Nhật Bản quyết định sẽ chủ động tấn công Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ.
Vậy là ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật tuyên chiến với Mỹ và các nước Đồng Minh bằng việc đồng loạt tấn công vào nhiều địa điểm chiến lược ở khu vực Thái Bình Dương - ví dụ như Trân Châu cảng, đảo Guam, Philippines, Mã Lai, Thái Lan và Hồng Kông. Để đáp trả những cuộc tấn công này thì Mỹ và các nước Đồng Minh tuyên chiến với Nhật - và đây cũng là thời điểm đánh dấu việc Mỹ chính thức tham gia Thế chiến thứ Hai. Chỉ có Liên Xô vẫn duy trì thỏa thuận trung lập với Nhật Bản do đang phải căng sức chiến đấu với quân Đức. Và cũng vì thỏa thuận đã ký kết với Nhật Bản từ trước, Đức cùng một số quốc gia phe Trục tuyên chiến với Mỹ.
Đà tiến của phe Trục bị chặn lại
Đầu tháng 1 năm 1942, 4 nước lớn là Anh - Mỹ - Liên Xô - Trung Quốc cùng đại diện từ 22 quốc gia và chính phủ lưu vong khác của phe Đồng Minh đã cùng nhau ban hành Tuyên bố chung Liên Hiệp Quốc; qua đó xác nhận Hiến chương Đại Tây Dương và thống nhất không nước nào được phép ký hòa ước riêng với các nước phe Trục.
Trong năm 1942, chuyện quan trọng cần phải làm rõ trước với các nước Đồng Minh là họ sẽ theo đuổi chiến lược như thế nào với cuộc chiến này. Tất cả đều thống nhất rằng ưu tiên hàng đầu là đánh bại Đức Quốc xã. Mỹ ủng hộ việc mở một cuộc tấn công trực diện quy mô lớn nhắm vào Đức thông qua lãnh thổ nước Pháp. Liên Xô khi ấy cũng đang yêu cầu các nước Đồng Minh khác mở một mặt trận thứ hai ở châu Âu để chia lửa. Nhưng nước Anh thì lại cho rằng nên thực hiện các hoạt động quân sự nhắm vào những khu vực ngoại vi để tiêu hao sức mạnh và sĩ khí của người Đức, đồng thời hỗ trợ các lực lượng kháng chiến ở những nước bị chiếm đóng. Song song với đó, Đồng Minh cũng sẽ triển khai các chiến dịch không kích lớn nhắm vào nước Đức; sau đó tiếp tục phát động một cuộc tấn công chủ yếu sử dụng tăng thiết giáp thay vì sử dụng quân đội quy mô lớn. Cuối cùng, Anh cũng thuyết phục được Mỹ rằng đổ bộ ngay vào Pháp trong năm 1942 là bất khả thi và mạo hiểm. Trước mắt, các lực lượng Đồng Minh nên tập trung vào việc đánh bật hoàn toàn phe Trục khỏi Bắc Phi.
Ở chiến trường Xô - Đức thì dù phải hứng chịu một cuộc phản công quy mô lớn của Hồng quân vào đầu năm 1942 sau khi không chiếm được Moskva; quân Đức vẫn chặn đứng được đà tấn công của Liên Xô, bảo toàn hầu hết lãnh thổ mà họ chiếm được năm trước đó. Vào tháng 6, sau khi đánh bại Liên Xô ở bán đảo Kerch và Kharkov, Đức mở chiến dịch tiến công xuống phía nam nhằm chiếm các mỏ dầu ở Caucasus và thảo nguyên Kuban, án binh bất động tại các vị trí ở phía bắc và trung tâm của chiến tuyến.
Quân Đức đã chia Cụm tập đoàn quân Nam thành hai: Tập đoàn quân A được lệnh tiến đến hạ lưu sông Đông và đánh về hướng đông nam tới dãy Caucasus. Trong khi đó, Tập đoàn quân B sẽ tiến về phía sông Volga. Liên Xô đã quyết định tử thủ tại thành phố Stalingrad bên bờ tây sông Volga để chặn đứng đà tiến công của quân Đức. Đến giữa tháng 11, Đức và Liên Xô vẫn đang trong tình trạng giành giật từng góc phố và tòa nhà ở Stalingrad, khiến thương vong của hai bên đều cực kỳ nặng nề. Đây cũng là lúc mùa đông khắc nghiệt của nước Nga kéo đến. Sau một thời gian dài chuẩn bị, Liên Xô mở liên tiếp các chiến dịch lớn như Chiến dịch Sao Hỏa và Chiến dịch Sao Thiên Vương, vây chặt hơn 300,000 quân Đức tại vòng vây Stalingrad. Đến đầu tháng 2 năm 1943, Hồng quân đẩy lui hoàn toàn quân Đức khỏi Stalingrad, đẩy lùi chiến tuyến Xô - Đức về vị trí cũ trước cuộc tấn công mùa hè. Đến giữa tháng 2, khi bước tiến của Liên Xô dần khựng lại, quân Đức với hy vọng xoay chuyển tình thế đã mở một cuộc tấn công khác vào Kharkov, tạo nên một chiến tuyến hình vòng cung vây quanh thành phố Kursk.

Những hình ảnh nổi bật về trận Stalingrad
Ở chiến trường Tây Âu và Địa Trung Hải thì ban đầu, nhờ lợi dụng và khai thác được điểm yếu trong khâu chỉ huy và tác chiến của hải quân Mỹ mà hải quân Đức đã tiến hành quấy nhiễu, phá hoại uyến đường vận tải hàng hải của Đồng Minh ngoài khơi bờ biển Đại Tây Dương.Tại Bắc Phi, các lực lượng Khối thịnh vượng chung Anh đã mở một cuộc phản công mang tên Chiến dịch Crusader vào tháng 11 năm 1941, lấy lại được tất cả các vùng đất bị quân Đức - Ý chiếm trước đó. Để đáp trả, quân Đức mở cuộc tấn công vào tháng 1 năm 1942, đẩy quân Anh trở lại vị trí ở phòng tuyến Gazala. Tình hình chiến sự ở khu vực này tạm lắng xuống vì Đức bước vào quá trình chuẩn bị cho các chiến dịch tiếp theo.
Vì lo rằng Nhật Bản có thể sử dụng các căn cứ ở Madagascar làm bàn đạp tấn công, Anh quyết định đưa quân chiếm đảo này vào tháng 5 năm 1942. Còn ở Lybia, các lực lượng phe Trục đã ép quân Đồng Minh phải lùi sâu trong lãnh thổ Ai Cập, trước khi bị chặn lại ở El Alamein. Còn ở châu Âu, quân Đồng Minh quyết định mở các cuộc đột kích nhằm vào các mục tiêu chiến lược, đỉnh điểm là trận Dieppe đẫm máu - quân Đồng Minh tuy đông áp đảo nhưng không thể chiếm được bãi biển Dieppe mà còn chịu thiệt hại nặng. Trận thua này một lần nữa củng cố nhận định của các tướng lĩnh Anh rằng lúc này lực lượng của họ sẽ không thể bám trụ nổi nếu đổ bộ lên các vùng lãnh thổ do quân Đức chiếm đóng.
Nhưng rồi dần dần, chiến sự mặt trận Xô - Đức diễn ra ác liệt đã buộc Đức Quốc xã phải dồn quân về đây, dẫn đến việc lực lượng của họ ở các mặt trận khác mỏng đi trông thấy. Quân Đức ở Bắc Phi vì thế bị thiếu đạn dược và nhiên liệu, không thể tiếp tục tấn công. Đến tháng 8 năm 1942, các lực lượng Đồng Minh thành công chặn đứng thêm một cuộc tấn công nữa của phe Trục tại El Alamein và sau đó xoay sở đưa được tiếp tế đến cho đảo Malta vẫn đang bị vây hãm từ tận tháng 6 năm 1940. Vài tháng sau, quân Đồng Minh phát động tấn công đánh bật quân đội phe Trục khỏi Ai Cập và bắt đầu tiến quân về phía tây.
Tháng 11 năm 1942, tình hình càng bi đát hơn khi quân Đồng Minh mở Chiến dịch Bó Đuốc, đổ bộ vào Morocco và Algérie, bao vây các lực lượng phe Trục. Nhờ vậy, phe Đồng Minh lại kiểm soát được các thuộc địa Pháp ở khu vực Bắc Phi. Để đáp trả, Hitler ra lệnh cho quân Đức chiếm đóng lãnh thổ của chính phủ Vichy Pháp. Dù quân đội Vichy không làm gì để chống lại sự vi phạm hiệp ước đình chiến này nhưng họ đã cố gắng di chuyển hạm đội để ngăn chặn nó rơi vào tay người Đức. Chính phủ Vichy thực sự biến thành một chính phủ bù nhìn của Đức Quốc xã, chỉ còn quyền thi hành các chính sách dân sự. Dù vậy, tình hình ở mặt trận Bắc Phi vẫn không khá khẩm hơn là bao cho phe Trục. Lực lượng phe Trục ở châu Phi rút lui về Tunisia và cuối cùng bị đánh bật khỏi Bắc Phi vào tháng 5 năm 1943.

Quân Đồng Minh đổ bộ vào Bắc Phi trong Chiến dịch Bó Đuốc
Sau đó đến tháng 6 năm 1943, Anh và Mỹ bắt đầu mở chiến dịch ném bom chiến lược nhắm vào nước Đức. Mục tiêu của những chiến dịch không kích này là nhằm suy giảm nhuệ khí, phá hủy nhà cửa của thường dân và phá hoại nền kinh tế của Đức.
Ở mặt trận Thái Bình Dương thì đến tháng 4 năm 1942, Nhật Bản và đồng minh Thái Lan đã chiếm được gần như toàn bộ Miến Điện, Mã Lai, Đông Ấn thuộc Hà Lan, Singapore và Rabaul. Bất chấp sự chống trả quyết liệt của quân đội Philippines và Mỹ, Thịnh vượng chung Philippines cuối cùng vẫn bị Nhật đánh chiếm vào tháng 5 năm 1942, buộc chính quyền Manila phải lưu vong. Bên cạnh lục quân, hải quân Nhật Bản cũng giành nhiều thắng lợi trên Biển Đông, Biển Java và Ấn Độ Dương. Hạm đội Nhật gồm tàu sân bay cũng tiến xa tới vùng biển thuộc Úc, tiến hành ném bom căn cứ hải quân của Đồng Minh tại Darwin. Tuy vậy, tai hại ở chỗ là vì giành được quá nhiều chiến thắng liên tiếp giữa các lực lượng Đồng Minh chưa chuẩn bị kỹ càng đã khiến Nhật trở nên tự mãn và lực lượng bị phân tán quá mỏng trên khắp khu vực.
Đầu tháng 5 năm 1942, Nhật Bản lên kế hoạch đánh chiếm Cảng Moresby bằng một cuộc tấn công đổ bộ với mục tiêu cô lập hai nước Úc và New Zealand với Mỹ. Mục đích của Nhật là cắt đứt tuyến đường liên lạc và tiếp tế giữa các nước này. Tuy nhiên, kế hoạch của Nhật bị cản trở bởi Mỹ trong trận chiến biển San hô, khi một đơn vị tác chiến đặc biệt của Đồng Minh, dẫn đầu bởi hai tàu sân bay của hạm đội Mỹ đã chặn được hạm đội của Nhật. Để đáp trả những cuộc không kích của Mỹ nhắm vào đảo chính Honshu, Nhật Bản lên kế hoạch chiếm Rạn san hô vòng Midway và dụ tàu sân bay Mỹ tham chiến rồi nhân cơ hội đó tiêu diệt. Để dương đông kích tây, Nhật Bản cũng gửi quân tới đánh chiếm quần đảo Aleutian thuộc Alaska.
Nhật Bản bắt đầu triển khai kế hoạch vào đầu tháng 6; tuy nhiên Mỹ đã phá được các đoạn tin mật của hải quân Nhật hồi cuối tháng 5. Nhờ vậy mà Mỹ nắm được rõ kế hoạch và phương án tác chiến của quân địch, và họ tận dụng được lợi thế này để giành được chiến thắng quan trọng trong trận Midway. Trận thua này khiến hải quân Nhật Bản tổn thất đến 4 tàu sân bay, 1 tuần dương hạm, mất 248 máy bay và hơn 3000 binh lính thiệt mạng. Cũng bởi thế mà hải quân Nhật Bản sụt giảm nghiêm trọng khả năng tác chiến. Nhật cố gắng cứu vãn tình thế bằng cách tập trung lực lượng để đánh chiếm Port Moresby thuộc Lãnh thổ Papua và New Guinea. Cùng lúc đó, Mỹ cũng lên kế hoạch phản công nhằm chiếm lại căn cứ tiền phương của người Nhật ở phía Nam quần đảo Solomon làm bước đầu tiên trong kế hoạch tái chiếm Rabaul – căn cứ chính của quân Nhật tại Đông Nam Á.

Tàu sân bay USS Yorktown sau khi trúng đạn pháo của hải quân Nhật
Cả hai kế hoạch đều diễn ra vào tháng 7, nhưng đến giữa tháng 9, Nhật Bản quyết định ưu tiên mặt trận ở đảo Guadalcanal thuộc quần đảo Solomon hơn nên đã ra lệnh rút quân khỏi khu vực Port Moresby đến phần phía Bắc của đảo New Guinea. Tại đây, quân Nhật đụng độ với quân đội Úc và Mỹ trong trận Buna - Gona. Guadalcanal nhanh chóng trở thành chiến trường ác liệt, cả hai bên đều phải hứng chịu thất bại nặng nề về quân số lẫn tàu bè trong cuộc kịch chiến. Cuối cùng đến đầu năm 1943, quân Nhật bị đánh bại và buộc phải rút khỏi đảo.
Còn ở trên đất liền, quân Nhật tiến nhanh vào sâu thuộc địa của Anh cho đến khi gặp phải sự kháng cự mãnh liệt tại Miến Điện. Quân đội Khối thịnh vượng chung Anh triển khai tác chiến tại vùng Arakan vào cuối năm 1942 nhưng sau đó đã phải rút về Ấn Độ vào tháng 5 năm 1943 vì hứng chịu thất bại nặng nề. Đến tháng 2 năm 1943, Anh chuyển sang sử dụng các lực lượng du kích không chính quy để quấy nhiễu hậu phương quân Nhật.
Phe Đồng Minh phản công
Sau khi Chiến dịch Guadalcanal kết thúc, Mỹ bắt đầu triển khai một loạt hoạt động quân sự chống lại Nhật Bản ở Thái Bình Dương. Tháng 5 năm 1943, liên quân Mỹ - Canada tiến hành chiến dịch quân sự ở đảo Aleutian để đánh bật quân Nhật khỏi nơi này. Tiếp theo đó, Mỹ liên tục mở nhiều chiến dịch lớn trên bộ, trên biển và trên không. Ý định của Mỹ là cô lập căn cứ Nhật tại Rabaul bằng cách chiếm các đảo xung quanh và phá vỡ vành đai phòng thủ ở Trung tâm Thái Bình Dương ở các quần đảo Gilbert và Marshall của Nhật. Đến cuối tháng 3 năm 1944, phe Đồng Minh đã hoàn thành cả hai mục tiêu này, đồng thời vô hiệu hóa được căn cứ trọng điểm của Nhật tại Truk thuộc quần đảo Caroline. Sang tháng 4, quân Đồng Minh tiếp tục triển khai một chiến dịch khác và thành công chiếm lại miền tây New Guinea.
Ở châu Âu, cả Đức và Liên Xô đều dành ra cả mùa xuân và đầu hè năm 1943 để chuẩn bị cho các cuộc tấn công lớn ở miền trung nước Nga. Ngày 4 tháng 7 năm 1943, tại trận Vòng cung Kursk, Đức đã tung ra những đơn vị thiết giáp lớn hòng xoay chuyển tình thế. Kursk trở thành trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử thế giới. Đức Quốc xã trước sau huy động đến hơn 3200 xe tăng các loại, còn phía Liên Xô thì huy động tới hơn 7300 xe tăng các loại. Sau 11 ngày tấn công mà không xuyên phá được tuyến phòng thủ của Liên Xô, Hitler buộc phải hạ lệnh hủy bỏ chiến dịch. Quyết định này được đưa còn vì tin tức Sicily ở miền nam nước Ý bắt đầu bị quân Đồng Minh tấn công từ ngày 9 tháng 7 và cuối cùng dẫn đến việc chính quyền phát xít nước này bị lật đổ còn Mussolini thì bị bắt giam.
Trong trận Vòng cung Kursk thì từ ngày 12 tháng 7, Liên Xô bắt đầu triển khai Chiến dịch Kutuzov tại khu vực phía bắc vòng cung Kursk. Cuộc phản công kéo dài đến ngày 18 tháng 8; Hồng quân giành được thắng lợi lớn và đập tan hoàn toàn hy vọng chiến thắng của quân Đức. Trận thua ở Kursk, cộng với thất bại nặng nề trong chiến dịch vây hãm Stalingrad trước đó đã đẩy quân Đức vào thế bị động, mất hẳn thế chủ động trên chiến trường. Trong khi đó thì Hồng quân dần chuyển từ phòng thủ sang chủ động tấn công khắp mặt trận. Quân Đức vẫn cố gắng ổn định mặt trận phía Đông dọc theo phòng tuyến Panther - Wotan (hay còn gọi là Bức tường phía đông), nhưng Hồng quân vẫn chọc thủng được một số vị trí của phòng tuyến này ở Smolensk và một đoạn ở phía bắc Biển Đen.

Xe tăng Đức Quốc xã trong trận Vòng cung Kursk
Ngày 3 tháng 9 năm 1943, các lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên đất liền Ý. Quân đội Ý không lâu sau đó đã đơn phương ký kết hiệp định đình chiến với phe Đồng Minh. Đức, với sự hỗ trợ của lực lượng phát xít Ý trung thành với Mussolini, đã đáp trả bằng cách giải giáp binh lính Ý không có cấp trên chỉ huy. Nhờ thế mà Đức nhanh chóng giành quyền kiểm soát quân sự trên nhiều khu vực của Ý và nhanh chóng xây dựng một loạt tuyến phòng thủ. Ngoài ra, lực lượng đặc biệt của Đức cũng tiến hành giải cứu Mussolini và sau đó dựng ông ta lên làm nguyên thủ quốc gia của chính phủ chư hầu mang tên Cộng hòa Xã hội Ý ở miền bắc. Quân đội các nước Đồng Minh lập tức tiến hành các chiến dịch quân sự, chọc thủng nhiều phòng tuyến của Đức ở nam Ý và áp sát tuyến phòng thủ chính vào giữa tháng 11 năm 1943.
Ở trên biển, các hoạt động quân sự của hải quân Đức cũng bị ảnh hưởng. Đến tháng 5 năm 1943, khi các biện pháp đối phó với hải quân Đức của quân Đồng Minh ngày càng hiệu quả thì tàu ngầm Đức đã phải hứng chịu tổn thất đáng kể, dẫn đến việc giảm hẳn hoạt động trong khu vực Đại Tây Dương. Tháng 11 năm 1943, Roosevelt và Churchill gặp Tưởng Giới Thạch ở Cairo, sau đó gặp Stalin ở Tehran. Hội nghị ở Cairo đi đến thống nhất rằng Nhật Bản sẽ phải trả lại các lãnh thổ mà họ chiếm được sau khi chiến tranh kết thúc, đồng thời vạch ra kế hoạch quân sự cho chiến dịch ở Miến Điện. Ở Tehran, các bên thỏa thuận rằng các nước Đồng Minh phương Tây sẽ mở chiến dịch tấn công nước Đức vào năm 1944, và Liên Xô đồng ý tuyên chiến với Nhật Bản trong vòng ba tháng sau khi nước Đức bị đánh bại.
Ngày 27 tháng 1 năm 1944, Hồng quân Liên Xô triển khai tấn công để đánh bật quân Đức ra khỏi khu vực Leningrad, giải vây thành phố này sau gần 900 ngày bị vây hãm. Cuộc bao vây đẫm máu nhất lịch sử thế giới đã kết thúc, với tổng cộng xấp xỉ 1,5 triệu người chết từ hai bên, tính cả thường dân. Cùng thời điểm đó, Hồng quân tiến sát tới biên giới Estonia thì bị Cụm tập đoàn quân Bắc của Đức Quốc xã chặn lại. Việc này khiến cho các hoạt động tác chiến tiếp theo của Liên Xô ở vùng Baltic bị chậm lại. Đến cuối tháng 5 năm 1944, Liên Xô giải phóng Crimea, đánh bật phần lớn lực lượng phe Trục khỏi Ukraine. Sau đó Liên Xô tiếp tục thực hiện các cuộc tấn công vào lãnh thổ Romania nhưng bị đẩy lui. Trong khi đó ở Ý, quân Đồng Minh thành công đánh bật quân Đức khỏi phòng tuyến gần Rome và đến ngày 4 tháng 6, phe Đồng Minh chiếm được Rome.
Cũng trong tháng 6 năm 1944, sau gần 3 năm liên tục bị Liên Xô thúc giục, phe Đồng Minh cuối cùng đã quyết định mở một mặt trận thứ hai ở châu Âu. Ngày 6 tháng 6 năm 1944, các lực lượng Đồng Minh phương Tây đồng loạt đổ bộ vào khu vực Normandy ở miền bắc nước Pháp. Chiến dịch diễn ra rất khốc liệt, phe Đồng Minh đã gặp rất nhiều khó khăn và phải hứng chịu tổn thất lớn dù áp đảo về quân số và trang bị. Tuy nhiên họ dần giành lấy ưu thế và buộc người Đức phải rút khỏi miền bắc nước Pháp. Quân Đồng Minh cũng đã điều động một số sư đoàn khỏi Ý để tấn công vào vùng Provence, thành công đánh bật quân Đức ra khỏi Pháp. Ngày 25 tháng 8 năm 1944, Paris được giải phóng bởi lực lượng kháng chiến và quân đội Pháp tự do do Charles de Gaulle chỉ huy. Nhân đà thắng lợi, quân Đồng Minh phương Tây tiếp tục đẩy lùi quân Đức trên mặt trận Tây Âu cho đến hết năm. Tuy nhiên, kế hoạch xâm lược miền Bắc nước Đức, mở đầu bằng một chiến dịch hàng không tại Hà Lan, đã thất bại. Quân Đồng Minh áp sát được nước Đức, nhưng không thể chọc thủng được phòng tuyến cuối cùng của quân Đức ở sông Roer.

Quân Đồng Minh đổ bộ vào bãi biển Normandy
Còn ở mặt trận châu Á - Thái Bình Dương thì vào tháng 3 năm 1944, quân Nhật triển khai chiến dịch tấn công vào Assam, Ấn Độ; nhanh chóng bao vây quân Anh ở Imphal và Kohima. Nhật Bản sau đó triển khai Chiến dịch Ichi-Go với mục tiêu đặt ra là tiêu diệt các đạo quân chủ lực của Trung Quốc,bảo đảm tuyến đường sắt kết nối các lãnh thổ do Nhật Bản chiếm giữ và đánh chiếm các sân bay của quân Đồng Minh.
Ngày 22 tháng 6, Liên Xô mở một cuộc tấn công chiến lược tại Belarus, tiêu diệt gần như hoàn toàn Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức. Sau thắng lợi này, Hồng quân liên tục phát động các chiến dịch quân sự khác, đánh bật quân Đức khỏi miền tây Ukraine và miền đông Ba Lan. Sau đó Liên Xô đã thành lập Ủy ban Giải phóng quốc gia Ba Lan nhằm kiểm soát lãnh thổ nước này và đối chọi với lực lượng Armia Krajowa trung thành với chính phủ Ba Lan lưu vong ở London. Hồng quân cũng không can thiệp mà chỉ quan sát khi quân Đức dập tắt Khởi nghĩa Warsaw do lực lượng Armia Krajowa phát động. Còn tại miền đông Romania, cuộc tấn công chiến lược của Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt một lượng lớn quân Đức tại đó; đồng thời kích động được hai cuộc đảo chính thành công tại Romania và Bulgaria, dẫn đến việc hai nước này cũng gia nhập phe Đồng Minh.
Tháng 9 năm 1944, Hồng quân tiến vào Nam Tư, khiến hai Tập đoàn quân E và F của Đức phải vội vàng rút lui khỏi Hy Lạp, Albania và Nam Tư để tránh bị cô lập hoàn toàn. Đến thời điểm này, lực lượng kháng chiến do Đảng Cộng sản Nam Tư lãnh đạo dưới sự chỉ huy của Josip Broz Tio đã kiểm soát phần lớn lãnh thổ của Nam Tư và tham gia cầm chân quân đội Đức ở phía nam. Tại bắc Serbia, Hồng quân với sự hỗ trợ tương đối hạn chế của Bulgaria, đã hỗ trợ quân kháng chiến giải phóng Beograd vào ngày 20 tháng 10. Vài ngày sau, Liên Xô mở một cuộc tấn công quy mô lớn vào Hungary. Chiến dịch này kết thúc khi Budapest thất thủ vào tháng 2 năm 1945.
Dù giành được nhiều chiến thắng ở khu vực các nước Balkan, nhưng Hồng quân vẫn gặp khó khăn ở Phần Lan khi người Phần Lan kháng cự quyết liệt ở Karelia đã khiến Liên Xô vẫn không thể chiếm đóng nước này. Cuối cùng, hai nước ký kết hiệp định đình chiến với những điều kiện tương đối nhẹ nhàng, nhưng Phần Lan vẫn bị ép phải tham gia phe Đồng Minh để chống lại Đức.
Ở khu vực Đông Nam Á thì đến đầu tháng 7 năm 1944, lực lượng Khối thịnh vượng chung Anh ở Đông Nam Á đã thành công đẩy lùi bước tiến của quân Nhật tại Assam, buộc quân Nhật phải rút lui về sông Chindwin, còn Trung Quốc cũng đã chiếm được Myitkyina. Vào tháng 9, quân Trung Quốc chiếm được núi Tùng và khai thông được tuyến đường Miến Điện. Trong lúc đó, quân Nhật cũng chiếm được Trường Sa giữa tháng 6 và Hành Dương vào đầu tháng 8. Nhật Bản sau đó tiếp tục tấn công Quảng Tây, giành chiến thắng tại Quế Lâm và Liễu Châu vào cuối tháng 11, thành công trong việc kết nối giữa hai lực lượng ở Trung Quốc và Đông Dương vào giữa tháng 12.
Ở khu vực Thái Bình Dương thì quân Mỹ tiếp tục đẩy lùi vành đai phòng thủ của quân Nhật. Giữa tháng 6 năm 1944, quân Mỹ chiếm lại các quần đảo Mariana và Palau từ tay quân Nhật, đồng thời đánh bại hải quân Nhật trong trận chiến trên biển Philippines. Những thất bại này đã buộc Thủ tướng Tojo Hideki phải từ chức, đồng thời Mỹ cũng đã có thể sử dụng các căn cứ không quân để tiến hành oanh tạc bằng máy bay ném bom hạng nặng nhằm vào các thành phố lớn của Nhật Bản.

Tướng Douglas MacArthur cùng Tổng thống Philippines Sergio Osmeña tại Leyte
Đến cuối tháng 10, Mỹ chiếm được đảo Leyte của Philippines, sau đó hải quân Đồng Minh giành được thắng lợi quan trọng trước hải quân Nhật Bản trong trận Vịnh Leyte. Đây là trận hải chiến lớn nhất của Thế chiến thứ Hai và cũng là một trong những trận hải chiến lớn nhất lịch sử. Liên quân Mỹ - Úc đã sử dụng tổng cộng hơn 300 tàu chiến các loại, ngoài ra còn có cả gần 1500 máy bay. Bên phía Nhật Bản, họ triển khai hơn 67 tàu chiến các loại cùng hơn 300 máy bay. Trong trận hải chiến kéo dài 4 ngày này, hải quân Nhật hứng chịu tổn thất nặng nề với hơn 10,000 binh sĩ thiệt mạng và mất 26 tàu chiến, hầu như toàn bộ máy bay đều bị phá hủy; trong khi liên quân Mỹ - Úc tuy giành được chiến thắng nhưng cũng mất hơn 3000 binh sĩ, 11 tàu chiến và thiệt hại hơn 250 máy bay. Trận Vịnh Leyte cũng được ghi nhận là trận đánh đầu tiên mà máy bay Nhật thực hiện các cuộc tấn công tự sát kiểu kamikaze một cách có tổ chức (đó là lý do vì sao Nhật Bản mất hầu hết máy bay trong trận này).
Hồi kết của cuộc chiến
Ngày 16 tháng 12 năm 1944, Đức Quốc xã thực hiện nỗ lực cuối cùng để chia cắt các lực lượng Đồng Minh ở mặt trận phía Tây. Họ tung ra hầu hết những lực lượng dự bị để tiến hành một cuộc phản công lớn ở Ardennes và dọc theo biên giới Pháp - Đức. Đức hy vọng rằng làm vậy thì họ sẽ có thể bao vây phần lớn lực lượng Đồng Minh, và nhờ đó mà có thể đưa ra một giải pháp chính trị, tránh việc thua trận và phải đầu hàng vô điều kiện. Thế nhưng đến tháng 1 năm 1945, cuộc tấn công này của quân Đức đã bị đẩy lùi mà họ không đạt được mục tiêu chiến lược nào. Trong khi đó thì ở Ý, các lực lượng Đồng Minh vẫn bị kẹt lại, chưa xuyên thủng được các tuyến phòng thủ của quân Đức ở miền bắc.
Giữa tháng 1 năm 1945, Hồng quân mở các Chiến dịch Wisla - Oder và Chiến dịch Đông Phổ với mục tiêu giải phóng hoàn toàn Ba Lan. Trong Chiến dịch Wisla - Oder, Hồng quân đã đánh tan cụm tập đoàn quân A của Đức là cụm quân phòng thủ trên hướng Warsaw - Berlin, giải phóng đại bộ phận Ba Lan và bắc Tiệp Khắc. Thế nhưng quan trọng hơn cả là Hồng quân đã tiến sát đến Berlin, làm bàn đạp cho các chiến dịch đánh vào thủ đô Đức Quốc xã sau đó. Còn trong Chiến dịch Đông Phổ, Liên Xô tuy thiệt hại khá nặng, nhưng cũng đã đánh tan được hai cụm tập đoàn quân Tây Bắc và cánh trái Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức, chiếm được Đông Phổ và giải phóng thành công Ba Lan.
Vào ngày 4 tháng 2 năm 1945, ba nhà lãnh đạo của Mỹ - Anh - Liên Xô cũng đã gặp và họp tại Hội nghị Yalta để bàn bạc về những gì sẽ xảy ra sau khi chiến tranh kết thúc. Sự kiện này cũng dẫn đến việc hình thành Trật tự hai cực Yalta - chính là phân chia khu vực có ảnh hưởng giữa các nước lớn của phe Đồng Minh.

Churchill, Roosevelt và Stalin tại Hội nghị Yalta
Cũng trong tháng 2 năm 1945, Hồng quân tiến vào Silesia và Pomerania; trong khi các lực lượng Đồng Minh khác tiến vào miền tây nước Đức và đến sát sông Rhine. Đến tháng 3, quân Đồng Minh phương Tây đã vượt qua sông Rhine ở phía bắc và sông Ruhr ở phía nam, bao vây cụm tập đoàn quân B của Đức. Cũng trong đầu tháng 3, trong những nỗ lực cuối cùng để bảo vệ các mỏ dầu ở Hungary và chiếm lại Budapest, Đức đã phát động cuộc tấn công lớn cuối cùng vào Hồng quân gần hồ Balaton. Thế nhưng chỉ trong vòng 2 tuần, cuộc tấn công của Đức đã bị đẩy lùi và Hồng quân sau đó chiếm được Vienna. Đến tháng 4, Liên Xô chiếm được Königsberg, trong khi quân Đồng Minh phương Tây cuối cùng cũng chọc thủng được tuyến phòng thủ của Đức ở Ý, tiến lên và chiếm được cả Hamburg và Nuremberg. Vào ngày 25 tháng 4, quân Mỹ và Hồng quân gặp nhau tại bờ sông Elbe.
Cuối tháng 4 năm 1945, Liên Xô tiến vào được Berlin. Ngày 29 tháng 4, quân Đức ở Ý đầu hàng, và chính phủ Cộng hòa Xã hội Ý cũng đầu hàng 2 ngày sau đó. Bản thân Mussolini đã cố gắng bỏ trốn đi từ trước, nhưng bị bắt lại và hành quyết ngày 28 tháng 4. Ngày 30 tháng 4, Hồng quân chiếm được Tòa nhà Reichstag ở Berlin, báo hiệu ngày tàn của Đệ tam Đế chế Đức đã đến. Cùng ngày, Hitler tự sát tại sở chỉ huy. Đến các ngày 7 và 8 tháng 5, Đức Quốc xã đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu.
Tại mặt trận Thái Bình Dương thì quân Mỹ và Philippines đã đổ bộ vào Luzon trong tháng 1 năm 1945 và giải phóng Manila vào tháng 3. Giao tranh vẫn còn tiếp tục tại Luzon, Mindanao và các đảo khác của Philippines cho đến khi chiến tranh kết thúc. Quân Mỹ cũng đã phát động một chiến dịch ném bom hỏa lực quy mô lớn nhằm vào các thành phố lớn của Nhật Bản - trong đó cuộc không kích vào Tokyo đã gây ra thiệt hại vô cùng khủng khiếp về số người chết.
Tháng 5 năm 1945, quân Úc đã đổ bộ lên Borneo, chiếm lĩnh các mỏ dầu ở đó. Các lực lượng Anh, Mỹ và Trung Quốc đã đánh bại quân Nhật ở bắc Miến Điện vào tháng 3, và quân Anh vào được Rangoon ngày 3 tháng 5. Trong khi đó, Trung Quốc cũng tiến hành phản công, từng bước đẩy lui quân Nhật ra khỏi lãnh thổ. Quân Mỹ cũng đã chiếm được Iwo Jima vào tháng 3 rồi đến Okinawa vào cuối tháng 6, đồng thời cho hải quân phong tỏa các vùng biển của Nhật Bản.

Quân Mỹ dựng cờ tại Iwo Jima
Vào ngày 11 tháng 7, lãnh đạo ba nước đứng đầu phe Đồng Minh là Mỹ - Anh - Liên Xô tiếp tục họp tại Potsdam. Hội nghị đã xác nhận các thỏa thuận trước đó về nước Đức sau chiến tranh. Đồng thời, các nước Anh - Mỹ và Trung Quốc đã kêu gọi Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện: "Chúng tôi kêu gọi chính phủ Nhật Bản ra tuyên bố đầu hàng vô điều kiện ngay lập tức cho toàn bộ lực lượng vũ trang Nhật, và đưa ra sự đảm bảo thích đáng và đầy đủ đối với thiện ý của họ trong hành động như vậy. Sự lựa chọn khác cho Nhật Bản là sự hủy diệt toàn bộ ngay lập tức."
Nhật Bản ngay trong ngày 26 tháng 7 đã nhận được lời tuyên cáo này và đã có những phản ứng khác nhau trong giới lãnh đạo. Trong khi chính phủ Nhật Bản không có phản ứng cụ thể thì phe quân phiệt lại cho rằng tuyên cáo láo xược và chính phủ cần bác bỏ ngay. Chiều ngày 28, trong buổi họp báo, thủ tướng Kantaro Suzuki xin miễn bình luận về bản tuyên cáo và Nhật Bản vẫn tiếp tục cuộc chiến tranh. Vì vậy, Mỹ đã quyết định tiếp tục thực hiện phương án họ đưa ra trước đó: sử dụng bom nguyên tử để ép Nhật Bản phải đầu hàng.
Lần lượt trong hai ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, hủy diệt gần như hoàn toàn hai thành phố này và giết chết hàng chục nghìn người ngay lập tức, chưa kể đến hàng trăm nghìn người bị ảnh hưởng và chết dần chết mòn trong những năm tiếp theo. Trong lúc đó thì Liên Xô cuối cùng cũng đã tuyên chiến với Nhật Bản và tấn công Mãn Châu, đánh bại đạo quân Quan Đông của Nhật ở đây. Đêm ngày 9, rạng sáng ngày 10 tháng 8, Thiên Hoàng Hirohito đề nghị nên đầu hàng vô điều kiện. Đến trưa ngày 15, các đài phát thanh của Nhật đồng loạt phát đi thông điệp của Thiên hoàng, kêu gọi tất cả lực lượng đầu hàng. Ngày 17, lệnh đầu hàng được đưa xuống cho quân Nhật còn đang đóng rải rác trên đất Nhật và ở nước ngoài. Cuối cùng đến ngày 2 tháng 9, Nhật Bản chính thức ký vào văn kiện đầu hàng vô điều kiện. Thế chiến thứ Hai đến đây hoàn toàn kết thúc.
Thế chiến thứ Hai, một cuộc xung đột với quy mô toàn cầu, chính là thảm họa do con người gây ra lớn nhất trong lịch sử - 70 triệu người chết, vô số người bị thương tổn tật nguyền về cả thể xác lẫn tinh thần, hàng trăm triệu người bị ảnh hưởng, trật tự thế giới hoàn toàn thay đổi và biết bao nhiêu thế hệ chịu tác động bởi cuộc chiến này. Ảnh hưởng của cuộc chiến này, có lẽ vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay.

Hình ảnh đám mây phóng xạ phát ra do bom nguyên tử nổ tại Hiroshima và Nagasaki

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
