Tóm lược toàn bộ Kinh Thánh
Cái nhìn tổng quan về toàn bộ Kinh Thánh, theo mạch thời gian và nội dung chính, giúp người đọc nắm được bối cảnh, nhân vật và các chủ đề cốt lõi của Cựu Ước và Tân Ước một cách ngắn gọn, dễ theo dõi.
Xin chào các bạn. Mình viết bài này với hy vọng nhiều người sẽ hiểu hơn về Công giáo, Tin Lành và các tôn giáo khác bắt nguồn từ Abraham. Mình sẽ giữ văn phong ở mức trung lập với sự tôn trọng cho tất cả mọi người, mong rằng sẽ nhận được những phản hồi tích cực từ mọi người.
Mình là một lập trình viên, bên cạnh công việc viết code, mình cũng có sở thích đọc Kinh Thánh.

Kinh Thánh
Kinh Thánh chính là cuốn sách bán chạy nhất thế giới, và được dịch ra rất nhiều ngôn ngữ. Nhưng khi lần đầu tiếp xúc với Kinh Thánh, mình đã gặp những khó khăn. Đây là một văn bản cổ, được viết qua hàng ngàn năm, bởi nhiều tác giả, trong nhiều bối cảnh lịch sử khác nhau. Chính vì thế, có những đoạn lặp lại, có những phần sắp xếp chưa theo trình tự, thậm chí có những chi tiết mâu thuẫn nhau. Thêm nữa, nhiều bản dịch hiện nay thường dùng ngôn từ cũ, khiến người mới đọc rất khó tiếp thu một cách chính xác.
Từ trải nghiệm đó, mình bắt đầu dự án biên soạn lại Kinh Thánh với vài ý tưởng đơn giản:
• Dùng ngôn ngữ gần gũi, dễ hiểu, tránh cách dịch quá nặng tính cổ điển.
• Sắp xếp lại theo dòng thời gian, để mạch truyện liền lạc hơn.
• Lược bỏ những phần trùng lặp, để người đọc tập trung vào phần chính yếu.
Toàn bộ nội dung được mình đăng tải trên website của dự án. Nếu bạn thực sự quan tâm có thể truy cập để xem thêm.

Kinh Thánh Lược Truyện
Một thử thách khác của Kinh Thánh để tiếp cận người đọc phổ thông là nó quá dài. Mặc dù bản "lược truyện" trên đã rút ngắn số chương từ gần 1200 xuống còn 270 chương, chừng đó vẫn là khá nhiều và khó nắm bắt. Vì vậy, mình xin viết thêm bài này để tóm tắt nội dung chính chỉ trong một bài viết, với hy vọng bất cứ ai, kể cả những người thuộc tôn giáo bạn, có thể nắm được phần cốt yếu.
Sau đây, mình sẽ đi vào nội dung bài viết.
1. SÁNG THẾ
Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất.
Bấy giờ, đất còn trống rỗng, tối tăm. Ngày thứ nhất, Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, Ngài gọi ánh sáng là ngày, bóng tối là đêm. Ngày thứ hai, Thiên Chúa tạo ra bầu trời, phân tách nước phía trên và nước phía dưới. Ngày thứ ba, Thiên Chúa gom nước dưới trời thành biển để cho đất khô hiện ra. Ngày thứ tư, Thiên Chúa tạo ra mặt trời, mặt trăng, cùng các ngôi sao để phân biệt ngày với đêm, làm dấu hiệu cho mùa, ngày tháng, và để soi sáng đất. Ngày thứ năm, Thiên Chúa tạo ra các sinh vật lớn dưới biển, các loài cá, chim, cùng các sinh vật sống trên mặt đất.
Sang ngày thứ sáu, Thiên Chúa tạo nên con người theo hình ảnh Ngài. Ngài lấy bụi đất nắn nên một người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và người ấy trở thành một sinh linh sống, gọi là Adam. Vì Adam không có bạn đồng hành, nên Thiên Chúa rút một chiếc xương sườn của ông, đắp thịt vào để tạo nên một người đàn bà, gọi là Eve.
Qua ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn tất công việc sáng tạo của Ngài. Ngày đó, Ngài nghỉ ngơi, và đặt nó làm ngày thánh, gọi là ngày Sabbath.
Thiên Chúa trồng một khu vườn ở phía đông gọi là Eden, và đặt con người trong đó để canh giữ vườn. Adam và Eve bấy giờ còn ở trần truồng, nhưng không thấy hổ thẹn.
Trong các loài vật mà Thiên Chúa đã sáng tạo, rắn là loài xảo quyệt nhất. Nó xúi giục con người ăn trái của cây ở giữa vườn để được khôn ngoan, biết điều thiện điều ác như Thiên Chúa. Con người làm theo, để rồi sau khi ăn, mắt họ mở ra và họ biết mình trần truồng, thì lấy lá cây vả kết thành khố che thân. Vì tội đó, Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Eden. Họ sẽ phải làm lụng vất vả để có cái ăn, và sẽ trở về với bụi đất sau khi chết.
Adam và Eve sinh được hai con trai là Cain và Abel. Abel đẹp lòng Thiên Chúa, khiến Cain ghen tị và giết cậu đi. Thiên Chúa phạt Cain khiến ông phải đi lang thang khắp mặt đất mà không có chỗ trú chân. Dòng dõi của Cain xây dựng các thành phố, và phát minh ra các nghề chăn súc vật, nhạc công, thợ rèn.
Adam và Eve lại sinh thêm được người con trai khác là Seth. Dòng dõi của Seth là những người tin kính và kêu cầu danh Thiên Chúa.
Khi loài người sinh sôi nhiều trên mặt đất, thì họ ngày càng trở nên đồi bại. Thiên Chúa thấy sự hung ác của họ rất nhiều, thì hối tiếc đã dựng lên loài người. Thiên Chúa cho trận đại hồng thủy ngập trên mặt đất suốt một trăm năm mươi ngày. Nhưng một người trong dòng dõi của Seth là Noah thì sống công chính, nên Thiên Chúa đã cảnh báo trước cho ông để đóng một con tàu lớn, đem theo vào tàu tất cả các sinh vật một đực một cái để gia đình ông và các loài sinh vật sống sót qua trận nước lụt. Khi nước rút đi, gia đình Noah và các loài sinh vật ra khỏi tàu. Các con trai cùng đi với Noah trên tàu là Japheth, Shem và Ham. Dòng dõi họ tản ra sinh sống trên khắp mặt đất.
Một người trong dòng dõi của Shem là Abram. Thiên Chúa gọi ông hãy rời khỏi quê hương mà đi tới đất Canaan. Abram đưa gia đình từ thành Ur đi tới xứ Canaan. Nơi đó bấy giờ đang có người Canaan, và người Amorit sinh sống.
Thiên Chúa đổi tên Abram thành Abraham, nghĩa là cha của nhiều dân tộc. Ngài lập giao ước với Abraham, hứa sẽ ban đất này cho dòng dõi ông, và cho dòng dõi ông được nhiều như sao trên trời, như cát ngoài bãi biển. Đổi lại, dòng dõi ông sẽ phải đi theo đường lối của Thiên Chúa, làm chứng về Ngài giữa những dân tộc khác. Dấu chỉ của giao ước này là mọi đàn ông con trai sinh ra trong nhà sẽ phải chịu phép cắt bì. Chính Abraham cũng chịu phép cắt bì ngày hôm đó.
Vì Sarah vợ ông Abraham đã già mà chưa có con, nên bà đã trao người đầy tớ gái cho chồng để ông ngủ cùng nàng. Người đầy tớ sinh cho Abraham một con trai, đặt tên là Ishmael.
Nhưng Thiên Chúa không chọn Ishmael. Ngài cho Sarah có thai, bà sinh con trai và đặt tên là Isaac. Ngày Isaac thôi bú, ông Abraham mở tiệc mừng. Sarah xúi chồng đuổi hai mẹ con Ishmael đi để giữ lại sản nghiệp riêng cho Isaac. Hai mẹ con Ismael đi về phía đông. Ismael sinh được mười hai người con trai, về sau trở thành tổ tiên của nhiều dân tộc Ả Rập.
Một ngày, Thiên Chúa muốn thử thách Abraham. Ngài sai Abraham hãy đem con trai là Isaac đi hiến tế trên núi Moriah. Abraham vâng lời, đem con trai và củi theo để làm lễ hiến tế. Lúc chuẩn bị ra tay, thì có thiên sứ ngăn lại, và chỉ cho ông một con cừu đực sừng đang bị mắc trong bụi cây gần đó để hiến tế thay con trai mình. Nhờ vượt qua thử thách này, Thiên Chúa xác nhận đức tin của Abraham và chọn dòng dõi ông làm dân riêng của Ngài.
Khi Abraham đã già, ông sai người đầy tớ về quê hương mình tại Harran để tìm vợ cho Isaac giữa bà con của mình. Người đầy tớ đi về, gặp được Rebekah, con ông Bethuel và là cháu gái ông Abraham. Rebekah được đưa về làm vợ Isaac.
Sau khi Abraham qua đời, Isaac vẫn ở trong xứ. Ông được Thiên Chúa chúc phúc, nên ngày càng trở nên thịnh vượng giàu có. Vua Abimelek phải tới lập giao ước với ông để hai bên có thể sống hòa bình trong xứ.
Rebekah sinh đôi được hai con trai là Esau và Jacob. Lớn lên, Esau làm nghề thợ săn, còn Jacob làm nghề trồng cấy.
Khi Isaac đã già, mắt mờ không còn nhìn rõ nữa, ông sai Esau vào rừng săn thú, làm một món ngon cho ông ăn, để ông chúc phúc cho cậu trước khi chết. Nhưng bà Rebekah, vốn thương Jacob hơn, lại xui Jacob giả làm Esau, rồi bà sẽ chuẩn bị thịt rừng cho cậu để cha cậu chúc phúc cho. Ông Jacob không nhận ra Jacob nên đã chúc phúc cho cậu trước khi Esau kịp trở về.
Esau nổi giận với Jacob và định giết cậu, nên Jacob phải trốn về quê ngoại tại Harran. Ở đó, cậu sống cùng bác là Laban.
Ông Laban có hai người con gái là Leah và Rachel. Leah bị tật ở mắt còn Rachel thì lại xinh đẹp. Jacob yêu Rachel, nên thỏa thuận sẽ làm việc cho ông Laban bảy năm để được cưới Rachel. Nhưng sau hạn bảy năm, ông Laban lại âm thầm đưa Leah vào lều của Jacob, vì theo tục ở đó em không được cưới trước chị. Jacob không chịu, nên ông Laban hứa sẽ gả thêm Rachel cho cậu nữa nếu cậu chịu ở lại làm thêm bảy năm.
Trong thời gian ở với ông Laban, Jacob đã gây dựng giúp ông rất nhiều sản vật, cừu và dê. Hai vợ ông cũng sinh cho ông mười hai người con trai là Reuben, Simeon, Levi, Judah, Dan, Naphtali, Gad, Asher, Issachar, Zebulun, Joseph, và Benjamin. Sau khi hạn mười bốn năm đã hết, Jacob xin ông Laban cho trở về Canaan, nhưng ông Laban vẫn muốn Jacob ở lại làm cho mình, và sẽ chia cho Jacob một phần của cải.
Jacob dùng mưu để cắt xén số súc vật của ông Laban, nên ngày càng trở nên giàu có. Khi ông Laban biết chuyện, thì Jacob bí mật đem gia đình bỏ trốn về Canaan. Ông gặp một người lạ trên đường, hai người vật lộn với nhau, rồi người lạ chúc phúc và đổi tên Jacob thành Israel, nghĩa là kẻ chiến đấu với Thiên Chúa.
Khi trở về, Israel gặp lại Esau, bấy giờ đã là thủ lĩnh một bộ tộc lớn. Hai người làm lành, và gia đình Israel tới sống tại thành Shechem. Về sau, do con trai của chủ thành Shechem hãm hiếp con gái ông Israel, nên các con trai ông đã giết cả thành rồi chuyển tới sống ở Bethel.
Trong số các con trai, ông Israel thương yêu Joseph hơn cả, và may cho cậu một chiếc áo chùng rất đẹp. Vì ghen ghét, nên các anh cậu đã bán cho đoàn người lái buôn, nhúng cái áo vào máu dê rồi gửi về cho cha. Ông Israel tưởng cậu đã chết nên khóc thương cậu lâu ngày.
Đoàn lái buôn tới Ai Cập và bán Joseph cho Potiphar, quan chỉ huy thị vệ của Pharaoh. Joseph là người khôn ngoan, nên Potiphar cho cậu làm quản gia, coi sóc mọi việc trong nhà. Joseph cũng trẻ và đẹp trai, nên vợ ông Potiphar để mắt tới, nhiều lần dụ dỗ cậu. Nhưng vì Joseph không chịu, nên bà chủ vu cáo cậu định sàm sỡ mình. Potiphar cho nhốt cậu vào trong ngục.
Trong ngục, Joseph giúp giải mộng cho hai người bạn tù là quan hầu rượu và quan làm bánh của Pharaoh. Mọi điều xảy ra giống như lời cậu tiên đoán, rằng quan hầu rượu sẽ được tha, còn quan làm bánh sẽ bị xử tử. Trong một đêm, Pharaoh có một giấc chiêm bao nhưng không ai giải nghĩa được. Quan hầu rượu bấy giờ nhớ lại Joseph, bèn tâu với vua. Joseph được đưa vào cung, cậu giải nghĩa cho Pharaoh rằng sẽ có bảy năm thịnh vượng trong xứ, rồi sau đó sẽ xảy ra bảy năm đói kém khủng khiếp. Joseph khuyên Pharaoh hãy tích trữ lương thực trong những năm được mùa để dùng cho những năm đói kém.
Pharaoh bèn đặt Joseph lên cai quản khắp Ai Cập, quyền hành chỉ sau Pharaoh. Khi đó, Joseph được ba mươi tuổi.
Joseph cho xây các kho lương thực và tích trữ trong bảy năm được mùa. Sau đó, xảy ra một nạn đói khủng khiếp trong xứ. Dân chúng đến với Joseph để mua lương thực. Khi tiền đã cạn, họ lại phải bán đất đai của mình cho Pharaoh để mua.
Ông Israel biết ở Ai Cập có thóc lúa, bèn sai các con tới đó để mua, riêng Benjamin em út thì không được đi. Các anh em tới Ai Cập, Joseph nhận ra họ, nhưng giả bộ không biết. Joseph tố các anh em là gián điệp, sai giam giữ Simeon, bắt những người còn lại phải mang Benjamin đến chuộc.
Khi họ trở về, ông Israel rất sầu khổ và không muốn cho Benjamin đi, vì cậu là em cùng mẹ với Joseph. Nhưng vì nạn đói quá lớn, nên cuối cùng ông đành để Benjamin đi, và dặn mang các tặng phẩm để dâng lên quan xứ Ai Cập.
Lần thứ hai xuống Ai Cập, Joseph niềm nở tiếp đãi họ trong nhà, và tỏ cho anh em biết mình chính là Joseph. Joseph bảo anh em hãy trở về đưa cha già tới Ai Cập, để cả gia đình được sống sung túc trong xứ. Các anh em đưa ông Israel đến Ai Cập. Joseph xin Pharaoh cấp cho họ đất Goshen để sinh sống. Từ đó gia đình ông Israel định cư tại đó, ngày càng thịnh vượng và sinh đông con cháu.
2. XUẤT HÀNH
Khi gia đình ông Israel xuống Ai Cập, cả thảy là bảy mươi người. Về sau, thế hệ đó đều qua đi, nhưng dân Israel sinh sôi thêm rất nhiều, trở nên cường thịnh và sống trong khắp xứ.
Bấy giờ, có một Pharaoh mới lên trị vì. Vua này không biết công lao của Joseph ngày trước, và sợ rằng dân Israel quá đông dễ sinh biến loạn, nên bắt họ phải làm nô lệ. Tàn ác hơn, Pharaoh còn ra lệnh ném những trẻ trai Israel mới sinh xuống sông Nile.
Có một người thuộc chi tộc Levi tên là Amram, sinh được con trai là Aaron và con gái là Miriam. Bà lại sinh thêm một con trai nữa đúng lúc Pharaoh ra lệnh tàn sát các trẻ trai Israel. Vì muốn cứu con, bà đặt con vào thúng rồi thả xuống sông Nile. Công chúa Ai Cập đang tắm ở sông Nile, trông thấy đứa trẻ thì động lòng thương, nhận làm con và đặt lên là Moses.
Lớn lên, Moses nhận ra mình thuộc về dân tộc Israel. Một lần, trông thấy người quản nô Ai Cập đang đánh đập một người Israel, cậu giết người quản nô đó rồi trốn tới Midian. Ở đó, cậu giúp đỡ các con gái ông Jethro, nên được ông tiếp đón tại nhà và gả con gái Zipporah cho. Từ đó, Moses ở lại xứ Midian.
Một hôm, Moses đang chăn cừu cho bố vợ. Ông dẫn đàn vật đi tới núi Sinai. Tại đó, ông nhìn thấy một bụi gai bốc cháy nhưng không lụi tàn. Tò mò, ông lại gần thì có tiếng Thiên Chúa phán với ông. Thiên Chúa sai ông hãy trở về Ai Cập đã dẫn dân Israel ra khỏi đó.
Trở về Ai Cập, Moses cùng anh trai Aaron tập hợp các trưởng lão Israel, nói cho họ biết kế hoạch của Thiên Chúa. Hai ông tới gặp Pharaoh, xin cho dân Israel được đi vào hoang mạc để dâng tế lễ lên Thiên Chúa. Nhưng vì Pharaoh cứng lòng, nên Thiên Chúa giáng xuống trên Ai Cập rất nhiều tai họa. Các tai họa đó gồm nước sông Nile hóa thành máu, nạn ếch nhái, nạn ruồi muỗi, gia súc chết, ghẻ chốc, mưa đá, châu chấu, bóng tối bao phủ. Lần nào Pharaoh cũng hứa sẽ giải phóng dân Israel, nhưng khi tai họa qua đi thì lại nuốt lời.
Thiên Chúa phán sẽ mang một tai họa khủng khiếp nhất đến Ai Cập, mọi con trai đầu lòng của người Ai Cập sẽ chết. Để người Israel không phải chịu hình phạt này, mỗi nhà sẽ giết cừu hoặc dê, lấy máu bôi lên khung cửa. Đêm đó, các gia đình Israel sẽ ở trong nhà, ăn thịt nướng và bánh không men, tay cầm gậy để sẵn sàng ra đi. Đó chính là lễ Vượt Qua đầu tiên.
Đêm đó, trong khắp Ai Cập đầy những tiếng khóc than bởi các con trai đầu lòng đã chết, từ con của người nô lệ cho tới con của Pharaoh. Pharaoh ngay lập tức cho đuổi dân Israel ra khỏi Ai Cập. Moses dẫn dân chúng ra đi, cả thảy là khoảng sáu trăm nghìn người đàn ông, chưa kể đàn bà và trẻ con.
Khi dân Israel đi rồi thì Pharaoh lại hối hận, cho thắng chiến xa cùng kỵ binh đuổi theo. Khi tới Biển Đỏ, dân Israel không còn lối thoát, họ quay sang oán trách Moses. Moses giơ cây gậy trên mặt biển, nước liền rẽ đôi ra để dân Israel đi qua. Quân của Pharaoh cũng đuổi theo đi vào lòng biển, nhưng khi chưa qua khỏi thì nước đã ập trở lại, nhấn chìm hết chiến xa cùng kỵ binh.
Moses dẫn dân Israel đi vào trong hoang mạc. Họ không tìm thấy nước nên oán trách Moses, đòi quay trở lại Ai Cập. Nhưng nhờ phép lạ của Thiên Chúa, Moses đập cây gậy vào tảng đá khiến nước trào ra. Ở đó cũng không có đồ ăn, nên Thiên Chúa ban cho họ manna. Dân Israel còn ăn manna trong bốn mươi năm cho tới khi đến được biên giới xứ Canaan.
Khi tới núi Sinai, Moses đi lên núi để gặp gỡ Thiên Chúa. Tại đó, Thiên Chúa ban cho ông mười điều răn, được khắc trên hai phiến đá. Các điều răn đó chứa những điều luật cơ bản cho dân Israel, là phải thờ phượng Thiên Chúa duy nhất, không được làm hình tượng, phải kính trọng cha mẹ, không giết người, khong gian dâm, không trộm cắp hay làm chứng gian.
Trong lúc Moses còn ở trên núi, dân Israel tưởng ông sẽ không quay lại nên xin Aaron làm cho họ một tượng bò vàng để họ thờ cúng. Moses đi xuống, trông thấy họ đang làm lễ cho bò vàng thì nổi giận, sai người giết hết những kẻ đó.
Moses cho làm Hòm Giao Ước, đặt hai bia đá chứa mười điều răn vào đó, và đặt Aaron cùng chi tộc Levi làm các tư tế chuyên lo việc thờ phượng. Có một số người chống lại Aaron, không muốn ông được đặt trên họ. Moses sai lấy mười hai cây gậy của các thủ lĩnh chi tộc, đặt trước Hòm Giao Ước, chỉ có cây gậy của Aaron là nở hoa, minh chứng cho việc ông được chọn.
Khi tới được xứ Canaan, Moses sai người đi do thám xứ. Nhưng khi trở về, họ khuyên dân đừng tiến vào đó bởi dân trong xứ rất mạnh mẽ cường thịnh, chỉ có Joshua và Caleb bảo nên đánh. Dân nản chí và muốn quay trở về Ai Cập. Thiên Chúa nổi giận, phạt họ phải đi lang thang trong hoang mạc cho tới khi thế hệ đó chết hết. Dân hối hận, tự ý đi đánh người Canaan, nhưng người Canaan từ trên đỉnh đồi tràn xuống, đánh cho họ phải tháo chạy tới Hormah.
Sau bốn mươi năm lang thang trong hoang mạc, thế hệ đó qua đi, chỉ còn lại Moses, Joshua và Caleb còn sống. Dân Israel đi đến miền Negev, vua Arad đem quân ra đánh họ, bắt vài người làm tù binh. Moses dẫn dắt dân Israel đánh bại chúng, phá hủy thành. Rồi họ rời khỏi hoang mạc tới thung lũng trong bờ cõi dân Moab, trên đỉnh núi Pisgah, nơi có thể nhìn rộng khắp khu vực.
Israel gửi lời tới vua dân Amorit, xin cho họ đi qua xứ đó để vào Canaan. Nhưng vua Amorit không nghe mà đem quân đến đánh. Quân Israel đánh bại quân Amorit, chiếm hết các thành của họ ở phía đông sông Jordan.
Những người chi tộc Reuben, Gad và Manasseh vốn có nhiều súc vật, thấy rằng chỗ đó thích hợp chăn nuôi, nên đã xin Moses chia cho họ đất đó, đổi lại họ sẽ cùng các chi tộc khác vượt qua sông Jordan để chiếm xứ hứa rồi mới quay trở về. Moses đồng ý, chia đất phía đông sông Jordan cho các chi tộc Reuben, Gad và một nửa chi tộc Manasseh.
Moses đã rất già. Ông chọn Joshua làm người kế vị, rồi đi lên núi Abarim nhìn khắp xứ hứa. Ông qua đời mà không được đi vào trong đó.
3. THỦ LĨNH
Sau khi Moses qua đời, Joshua lên lãnh đạo Israel. Ông dẫn dân Israel vượt sông Jordan để tiến vào xứ hứa. Các tư tế khiêng Hòm Giao Ước đi trước dân. Ngay khi họ đặt chân xuống nước, nước sông ngừng chảy và dân Israel đi qua dễ dàng. Joshua sai mang mười hai hòn đá từ lòng sông đến dựng tại Gilgal để làm chứng ngày Israel tiến vào xứ hứa.
Joshua sai người đi do thám thành Jericho. Ở đó có một cô gái điếm đã giúp đỡ những người do thám trốn thoát. Joshua dẫn dân Israel vượt sông Jordan và tiến đánh Jericho. Khi phá được thành, ông đã tha cho gia đình người gái điếm nọ.
Sau thành Jericho, quân Israel lại tiến đánh thành Ai. Khoảng ba nghìn người đi lên, nhưng họ bị quân thành Ai đánh đuổi, khiến Israel kinh sợ và mất ý chí chiến đấu. Joshua lại sai ba mươi nghìn quân đặt phục binh, rồi tự mình dẫn một toán quân nhỏ tới khiêu chiến, dụ địch ra khỏi cổng thành. Quân Israel giả vờ thua chạy, khi quân thành Ai đuổi theo thì phục binh xông ra giết sạch. Quân Israel đi vào thành, đốt phá và không để ai sống sót.
Dân thành Gibeon, nghe biết việc Joshua đã làm với thành Jericho và Ai thì sợ hãi, bèn giả bộ là dân từ xa đến, xin lập giao ước trước Thiên Chúa rằng hai bên sẽ hòa hiếu với nhau. Sau Joshua mới biết họ là thành ở ngay bên cạnh, bèn gọi họ đến trách cứ. Nhưng vì đã trót thề nên Joshua không thể tiến đánh họ, và dân Gibeon nguyện làm chư hầu, phải làm các công việc chẻ củi, xách nước phục vụ Đền Tạm.
Sau đó, Joshua còn đem quân đi đánh hết các thành trong xứ Canaan, làm chủ toàn bộ lãnh thổ từ Kadesh Barnea cho tới Gaza, và từ Goshen cho tới Gibeon.
Sau khi chiếm được xứ, Joshua chia đất phía tây sông Jordan cho chín chi tộc và một nửa chi tộc Manasseh còn lại. Riêng chi tộc Levi không được chia đất. Họ được chia cho bốn mươi tám thành nằm rải rác khắp Israel, để sống giữa dân và phục vụ họ trong việc thờ phượng. Các chi tộc Reuben, Gad và một nửa chi tộc Manasseh cũng trở về đất của mình phía bên kia sông Jordan.
Có một người Levi lấy một cô vợ lẽ ở Bethlehem. Nhưng nàng lừa dối chồng và bỏ về nhà cha mình. Người chồng mang hai con lừa tới đón nàng về. Khi đang trên đường trở về, trời đã tối, nhưng người chồng nhất quyết không vào thành dân ngoại mà tới thành Gibeah thuộc chi tộc Benjamin để nghỉ chân. Ở đó, có một ông già tiếp đón họ vào nhà. Nhưng ban đêm, mấy tên du côn trong thành bao vây căn nhà, đòi phải mang người đàn ông ra để chúng làm trò tiêu khiển. Người đàn ông bèn đưa vợ lẽ của mình ra cho họ. Chúng hãm hiếp nàng, tới sáng thì nàng chết bên thềm cửa. Người chồng đem xác nàng về, phân thành mười hai mảnh, gửi tới các chi tộc Israel để tố cáo tội lỗi của thành Gibeah.
Các chi tộc Israel tụ họp lại, cử ra bốn mươi nghìn quân để đi trừng phạt thành Gibeah. Họ gửi lời tới các thủ lĩnh Benjamin xin giao nộp thành Gibeah, nhưng người Benjamin không chịu mà lại tập hợp hai mươi sáu nghìn quân để chống lại. Ban đầu, Benjamin có lính tinh nhuệ nên đánh bại liên quân Israel. Nhưng về sau, quân Israel đặt phục binh phá được thành Gibeah, sau đó tản ra đốt phá khắp các thành khác của Benjamin, giết gần như toàn bộ người Benjamin cả trai lẫn gái, già lẫn trẻ. Chỉ có sáu trăm người đàn ông Benjamin sống sót chạy tới núi Rimmon để trú ẩn.
Sau khi tàn sát chi tộc Benjamin, các chi tộc khác đã lập lời thề rằng không gả con gái cho những người Benjamin còn sống sót. Nhưng về sau, họ khóc lóc tiếc thương vì một chi tộc trong Israel sắp biến mất. Họ bèn gọi những người sống sót trở về, bày kế đi bắt cóc các cô gái nhảy múa trong lễ hội về làm vợ, nhờ đó chi tộc Benjamin sẽ được duy trì mà họ cũng sẽ không phạm phải lời thề.
Bấy giờ, Israel vẫn chưa có vua, và họ sống giữa các dân ngoại. Họ không còn được chứng kiến những dấu lạ lớn lao mà Thiên Chúa làm cho Israel nên dần sa vào việc thờ hình tượng và các thần của dân ngoại. Các dân Canaan, Hittite, Amorit, Perizzi, Hivvi, và Jebusite cũng thường xuyên tới cướp phá họ. Trong những hoàn cảnh đó, Thiên Chúa dấy lên các thủ lĩnh để dẫn dắt họ chống lại kẻ thù.
Othniel, cháu trai và là con rể của Caleb dẫn dắt Israel đánh bại quân của vua xứ Aram Naharaim. Xứ được yên bình trong bốn mươi năm cho tới khi ông qua đời.
Sau đó, vua Moab lại hợp binh với người Ammon và người Amalek tiến đánh, dân Israel phải làm tôi mọi cho vua Moab trong mười tám năm. Ehud người Benjemin được chọn đi tiến cống cho vua Moab. Ông giấu một thanh gươm bên hông, khi dâng lễ vật ông nói có điều bí mật muốn tâu với vua. Khi tất cả đã ra ngoài thì ông rút gươm ra đâm chết vua Moab, rồi quay lại tập hợp người Israel đánh đuổi người Moab ra khỏi xứ. Xứ lại được yên bình trong tám mươi năm.
Vua Jabin của Canaan tiến đánh xứ, đàn áp Israel dã man trong hai mươi năm. Có nữ ngôn sứ Deborah, tiên báo rằng Barak người chi tộc Naphtali sẽ dẫn quân Israel đánh bại người Canaan. Barak sợ nên xin bà cùng đi với mình, thì bà nói vinh quang chiến thắng sẽ không thuộc về ông nữa mà sẽ về tay một người đàn bà. Barak triệu tập được một vạn quân, đánh bại quân Canaan. Quan tổng binh Canaan là Sisera phải trốn chạy tới lều của Heber, một đồng minh của mình. Vợ Heber dụ cho Sisera đi nằm nghỉ, rồi dùng cái cọc đóng xuyên qua thái dương, sau đó báo cho Barak. Quân Israel liên tiếp thắng trận cho tới khi vua Jabin bị tiêu diệt. Xứ được yên bình trong bốn mươi năm.
Quân Midian lại tiến đánh xứ, Israel phải làm tôi mọi cho chúng trong bảy năm. Vì người Midian đàn áp họ quá tàn bạo, nên họ phải trú ẩn trong khe núi, hang động và thành lũy.
Một ngày, Gideon người Manasseh đang đập lúa kín đáo tránh người Midian trông thấy. Thiên sứ của Thiên Chúa tới ngồi dưới gốc cây sồi gần đó, và nói với Gideon rằng chính ông sẽ giải cứu Israel khỏi tay người Midian. Gideon không tin, và xin một dấu lạ để chứng tỏ rằng ông là người được chọn. Thiên sứ bảo ông chuẩn bị lễ vật đặt trên đá, thì có lửa bốc lên thiêu rụi các lễ vật. Ngay đêm đó, Gideon về đập phá bàn thờ của thần Baal và thần Asherah trong thành. Sáng hôm sau, dân trong thành đến đòi giết ông, nhưng cha ông nói với họ rằng nếu Baal là một vị thần, hẳn là đã tự cứu được mình khi có ai đó đập phá bàn thờ rồi.
Gideon kêu gọi những người Israel đến với mình, cả thảy được ba mươi nghìn người. Nhưng Thiên Chúa phán với ông rằng số này quá nhiều, nếu có thắng được người Midian thì họ cũng sẽ cho rằng nhờ sức người mà làm được. Vì vậy, Gideon đã giảm số người xuống chỉ còn ba trăm. Ban đêm, ông chia người của mình thành ba đội, mang theo kèn và đuốc tới trại quân Midian. Họ thổi kèn và phóng hỏa, quân Midian hoảng loạn tự quay sang tàn sát lẫn nhau.
Gideon dẫn ba trăm người đuổi theo. Khi vượt qua sông Jordan, ông xin dân thành Sukkoth cho người của ông đồ ăn, nhưng họ coi khinh ông. Tiếp đó, ông lại dẫn quân đến chỗ tháp Peniel để xin đồ ăn nhưng họ cũng lại từ chối. Bấy giờ, quân Midian còn lại khoảng mười lăm nghìn người, Gideon dẫn người của mình truy đuổi và tiêu diệt toàn bộ quân địch. Khi trở về, ông trừng phạt dân thành Sukkoth và phá hủy tháp Peniel.
Dân Israel muốn lập Gideon làm vua, nhưng ông từ chối, và bảo rằng Thiên Chúa là vua của họ. Gideon quay về quê sinh sống, xứ được yên bình trong bốn mươi năm.
Gideon có cả thảy bảy mươi người con trai và một con của vợ lẽ ở Shechem là Abimelek. Abimelek xui dân thành Shechem rằng hãy theo hắn đi giết các con trai của Gideon và lập hắn lên làm vua, để thành được cai trị bởi một người đồng hương. Dân Shechem ủng hộ Abimelek, theo hắn tới nhà cha mình mà giết bảy mươi anh em trên một phiến đá. Nhưng Jotham, con trai út của Gideon thì trốn thoát.
Dân Shechem tụ họp lại để tôn Abimelek làm vua. Khi Jotham biết chuyện, thì trèo lên đỉnh núi gần đó, hét xuống để cáo buộc dân Shechem đã phản bội cha mình, là người có công đánh đuổi người Midian. Nói xong Jotham bỏ trốn.
Sau khi Abimelek đã cai trị được ba năm, mâu thuẫn giữa ông và dân thành Shechem ngày càng lớn. Gaal dẫn dắt dân chúng nổi dậy chống lại Abimelek nhưng thất bại. Abimelek tàn phá thành Shechem, giết hết dân chúng. Tiếp đó, Abimelek chiếm được thành Thebez. Trong thành có một cái tháp kiên cố, tất cả người sống sót trong thành trốn trong đó. Abimelek tới chỗ cái tháp định phóng hỏa, nhưng một người đàn bà từ trên đỉnh tháp ném cái cối xay trúng đầu khiến ông ta bể sọ mà chết. Sau thời của Abimelek, hai thủ lĩnh là Tola và Jair dẫn dắt Israel.
Israel lại xảy ra giao chiến với người Ammon. Những quan trưởng Israel lo sợ không biết ai sẽ lãnh đạo họ chống lại người Ammon.
Jephthah là một chiến binh mạnh mẽ. Ông có cha là người Gilead, mẹ là một gái điếm. Những người con khác của cha ông đuổi ông ra khỏi nhà. Jephthah tới sống tại Tob và tập hợp được một đám du côn theo mình.
Một thời gian sau, các trưởng lão Israel tới tìm Jephthah, xin ông lãnh đạo họ đánh người Ammon, và hứa sẽ tôn ông lên làm thủ lĩnh. Jephthah thề trước Thiên Chúa rằng nếu Ngài trao dân Ammon cho ông, thì ông sẽ dâng sinh mạng đầu tiên nào sẽ ra đón ông khi ông trở về. Jephthah dẫn dắt quân Israel đánh bại người Ammon. Nhưng khi trở về, con gái nhỏ của ông chạy ra đón. Dù rất đau khổ, nhưng ông vẫn phải hiến tế con gái để cho trọn lời thề.
Jephthah còn lãnh đạo Israel trong sáu năm rồi qua đời.
Israel lại rơi vào tay người Phistine, phải làm tôi mọi cho họ trong bốn mươi năm.
Có một người đàn bà vợ một người chi tộc Dan. Bà bị hiếm muộn nên không có con. Thiên sứ của Thiên Chúa hiện đến với bà, báo tin rằng bà sẽ có con trai. Con trẻ sẽ được dành riêng cho Thiên Chúa từ khi lọt lòng mẹ, dao cạo sẽ không được đụng tới đầu nó, và nó sẽ dẫn dắt Israel đánh bại người Philistine. Tới kỳ sinh, bà sinh con trai, đặt tên là Samson. Đứa trẻ lớn lên thì sống ở trong trại của chi tộc Dan.
Samson cưới một cô vợ người Philistine. Người Philistine ghen ghét nên đã đi đến nhà bố vợ Samson, thiêu chết cả nhà ông. Samson bèn đi báo thù, giết được rất nhiều người, sau đó trốn trong một cái hang ở Etam.
Quân Philistine kéo đến đóng trại ở Judah, đánh người Israel và bắt họ giao nộp Samson. Ba trăm người Judah bèn đến hang Etam, xin Samson để họ giao nộp cho người Philistine. Họ trói Samson lại, nhưng khi gặp quân Philistine, ông bứt đứt dây trói, nhặt một cái xương hàm lừa và giết chết một nghìn tên địch. Samson dẫn dắt Israel trong hai mươi năm để chống lại người Philistine.
Samson phải lòng một người đàn bà tên là Delilah. Người Philistine đến tìm ả, xui ả dụ Samson nói ra bí mật sức mạnh của mình, hứa thưởng cho một số bạc lớn. Delilah dùng lời ngon ngọt dụ dỗ Samson, và ông đã nói rằng ông không được để dao cạo đụng đến đầu, nếu không sức mạnh ông sẽ biến mất. Trong lúc Samson đang ngủ, Delilah lấy dao cắt tóc Samson. Quân Philistine xông ra tóm lấy ông, chọc mù đôi mắt rồi giải xuống Gaza.
Các thủ lĩnh Philistine nhóm họ lại trong đền thờ thần Dagon để ăn mừng. Trong bữa tiệc, họ đem Samson ra để làm trò tiêu khiển. Lúc Samson đứng bên mấy cột trụ, ông cầu xin Thiên Chúa cho ông sức mạnh một lần nữa để đánh bại người Philistine. Ông dùng hết sức đẩy hai cột trụ, đền thờ đổ sụp xuống vùi lấy tất cả những ai trong đó. Ông đã giết nhiều người lúc chết hơn cả khi còn sống. Các anh em ông tới mang xác ông về để chôn tại quê nhà.
4. CÁC VUA
Có một người đàn ông thuộc chi tộc Ephraim tên là Elkanah. Ông lấy hai vợ, một người tên là Peninnah còn người kia tên là Hannah. Peninnah có con nhưng Hannah thì không, vì thế bà Hannah thường bị châm chọc mỉa mai.
Hàng năm ông Elkanah đều đưa gia đình lên Shiloh đề thờ phượng và dâng của lễ lên Thiên Chúa. Trong một lần dâng lễ, bà Hannah buồn sầu mà khóc lóc, xin Thiên Chúa cho bà một đứa con trai, bù lại bà sẽ dâng nó lên cho Thiên Chúa trọn đời. Khi trở về, bà thụ thai và sinh con trai, đặt tên là Samuel. Tới ngày đứa trẻ cai sữa, bà đưa nó lên Shiloh để dâng cho Thiên Chúa. Từ đó, Samuel ở với tư tế Eli để phục vụ trong việc thờ phượng.
Eli có hai người con trai, nhưng chúng trở nên đồi bại và thường ăn chặn của dâng lễ. Trong một đêm, khi Samuel đang ngủ trước Hòm Giao Ước, Thiên Chúa gọi Samuel, nói cho cậu biết rằng dòng dõi tư tế của Eli sẽ bị loại bỏ, và cậu sẽ là ngôn sứ của Thiên Chúa trong Israel. Samuel lớn lên trong ơn nghĩa của Thiên Chúa và mọi người.
Người Israel lại xảy ra xung đột với người Philistine. Trong một lần giao tranh, quân Philistine đã giết hai con trai của tư tế Eli, và cướp lấy Hòm Giao Ước. Khi nghe tin đó, Eli ngã ngửa ra khỏi ghế mà gãy cổ chết.
Sau khi lấy được Hòm Giao Ước, người Philistine mang nó đi nhiều nơi và đặt trong đền thờ thần của họ. Nhưng nơi nào có Hòm Giao Ước tới, nơi đó xảy ra tai ương bệnh dịch. Sau bảy tháng, người Philistine phải đem trả lại Hòm Giao Ước cho Israel. Họ đặt Hòm Giao Ước lên một chiếc xe bò cùng với các của lễ và để nó đi về đất Israel. Những người Israel đem nó tới giữ tại nhà ông Abinadab ở vùng đồi Baalah.
Sau khi Hòm Giao Ước trở về, Samuel đã lãnh đạo quân Israel đánh bại người Philistine, xứ được yên bình trong nhiều năm. Hàng năm, Samuel đi khắp Israel để xét xử cho dân chúng.
Khi Samuel đã già, các trưởng lão Israel tập hợp nhau lại, tới xin ông chọn ra một người làm vua Israel, để cai trị họ và dẫn dắt họ trong các cuộc chiến. Samuel buồn lòng vì chuyện đó, nhưng Thiên Chúa bảo ông hãy xức dầu cho Saul làm vua.
Saul là một thanh niên cao lớn và đẹp trai. Trong một lần Saul đi tìm bầy lừa bị mất của cha mình, cậu đến tìm ông Samuel để xin lời khuyên. Samuel nói rằng bầy lừa của cha cậu đã được người ta tìm thấy, rồi dẫn cậu ra ngoài thành và xức dầu cho cậu. Sau đó, Samuel tập hợp dân Israel lại, tuyên bố là ông đã tìm được cho họ một vị vua. Người Israel thấy tướng mạo của Saul thì thích ông và tôn ông làm vua của họ, nhưng vẫn có nhiều người còn nghi ngờ. Sau đó, Saul trở về quê của mình sinh sống.
Một thời gian sau, Nahash vua dân Ammon kéo đến đánh Israel. Saul khi ấy ba mươi tuổi, đã dẫn dắt người Israel đánh bại chúng. Sau việc đó, Saul chính thức lên ngôi vua Israel.
Saul là một vị vua tài giỏi, đã dẫn dắt Israel qua nhiều cuộc chiến với người Philistine và người Amalek. Dần dần Saul trở nên kiêu ngạo. Trong một lần chuẩn bị ra trận, ông đã không đợi Samuel đến mà tự mình dâng của lễ lên Thiên Chúa, điều chỉ được phép làm bởi một tư tế. Vì lẽ đó, Samuel cảnh báo ông rằng Thiên Chúa sẽ tước ngai vàng Israel ra khỏi tay ông mà trao cho một người tôi tớ trung thành.
Ở Bethlehem có một người tên Jesse có tám người con trai. Thiên Chúa sai Samuel đến gặp ông để chọn một người con làm vua. Samuel đi tới, lần lượt gặp từng anh em, nhưng không có ai được chọn. Cuối cùng, người con út tên là David đang đi chăn cừu ngoài đồng trở về, Samuel nói cậu chính là người được chọn, và ông xức dầu cho cậu.
Một thời gian sau, vua Saul tâm trí thường bất an, nên sai người đi tìm ai biết gảy đàn để vào hầu vua. Người ta mang David về cho ông và từ đó David vào hầu dưới trướng vua Saul.
Bấy giờ, người Philistine lại tập hợp đánh Israel. Trong quân đội Philistine có một chiến binh mạnh mẽ cao lớn tên là Goliath. Hắn thường xuyên ra tiền tuyến hò hét làm quân Israel khiếp sợ, không ai dám ra đánh. David xin vua Saul được giao chiến với Goliath. Khi Goliath trông thấy David, thấy chỉ là một cậu bé, thì tỏ ra khinh thường. David thò tay vào túi lấy ra một viên đá, rồi dùng ná thun bắn vào giữa trán Goliath. Viên đá găm vào đầu khiến hắn ngã khuỵu xuống.
David chạy lại, dùng gươm chặt đầu Goliath. Thừa lúc đó, quân Israel xông lên, truy kích quân Philistine, khiến chúng tháo chạy. Từ đó, vua Saul giữ David lại luôn bên mình.
David thành công trong mọi việc và được thăng lên cấp bậc cao trong quân đội. Vua Saul cũng gả con gái mình là Michal cho David làm vợ.
Một lần, khi David theo vua Saul đi đánh người Philistine trở về, các phụ nữ Israel ra đón họ, vừa nhảy múa vừa ca hát rằng: "Saul giết được hàng ngàn, còn David giết được hàng vạn."
Vua Saul nổi giận vì lời ca đó và từ đó muốn giết David. Một hôm, khi David đang gảy đàn thì vua Saul với lấy cây giáo, vung về phía David, nhưng ông né được.
David vốn thân thiết với con trai vua Saul là Jonathan. David tới gặp Jonathan oán trách vì sao vua lại muốn giết ông. Hai người lập giao ước ngầm giúp đỡ nhau rồi Jonathan để cho David trốn đi.
David đi tới xứ Nob, gặp tư tế Ahimelek. Khi ấy Ahimelek chưa biết việc David bỏ trốn nên đem đồ lễ cho ông ăn. Một người ở đó tới báo tin cho vua Saul. Vua Saul bèn đem quân tới Nob mà giết hết các tư tế trong thành đó đi.
David tới lẩn trốn trong một cái hang ở Adullum. Tại đó, ông tập hợp được khoảng bốn trăm người đi theo mình. Sau khi đánh đuổi được người Philistine, vua Saul lại đem quân đi tìm David. Vua đi vào trong cái hang để tiểu tiện, David lén trườn đến phía sau vua, cắt lấy vạt áo nhưng không giết ông. David dùng cái vạt áo để chứng minh là mình vô tội, không hề có ý muốn giết vua Saul, rồi thả cho ông đi. Sau đó, David tới lẩn trốn trong xứ người Philistine.
Quân Philistine lại tấn công Israel. Trong trận đó, vua Saul và Jonathan tử trận. David từ xứ người Philistine trở về đất Judah. Những người Judah nhớ tới công lao David ngày trước nên đã tôn ông làm vua của Judah. Vua Israel bấy giờ là Ish-Bosheth, con trai của vua Saul, không được lòng người nên họ giết ông đi rồi tới gặp David và tôn ông lên làm vua của cả Israel.
Vua David đánh chiếm Jerusalem, chọn làm kinh đô, rồi cho rước Hòm Giao Ước về đó. Cho tới lúc bấy giờ, Hòm Giao Ước vẫn thường đặt trong lều nên vua David muốn xây một ngôi nhà cho Thiên Chúa. Thiên Chúa bảo rằng chính con trai của vua David sẽ xây nhà cho Ngài, cùng lời hứa rằng vương quyền của nhà David sẽ vững bền tới muôn đời.
Một ngày, khi quân Israel đang giao chiến vơi người Ammon thì vua David ở lại trong cung. Ông lên sân thượng, trông thấy nàng Bathsheba đang tắm thì thèm muốn, sai người đem nàng vào cung và ngủ với nàng, sau đó nàng có thai. Vì chồng của Bathsheba đang ngoài mặt trận nên vua cho gọi ông về, định bụng rằng nếu ông ngủ với vợ thì coi như chuyện này sẽ không bị lộ. Chồng của Bathsheba là người trung thành, không muốn về nhà khi đồng đội còn đang chiến đấu, nên vua David lập mưu để ông bị quân địch giết. Ngôn sứ Nathan cảnh báo vua David rằng đứa con của ông và Bathsheba sẽ chết, và ông sẽ phải chịu biến cố nội loạn. Sau đó, con trai vua David là Absalom dấy lên chống lại cha mình, khiến vua David phải đem quân trốn chạy khỏi Jerusalem. Về sau, nhờ sự giúp sức của những người trung thành mà vua David đã đoạt lại được vương quyền, còn Absalom thì bị giết.
Bathsheba sinh thêm cho vua David một người con trai khác, đặt tên là Solomon. Sau khi vua David qua đời, Solomon lên kế vị làm vua Israel.
Vua Solomon xin Thiên Chúa cho mình sự khôn ngoan để cai trị Israel. Vì lời xin khiêm nhường đó, Thiên Chúa hứa sẽ không chỉ cho ông sự khôn ngoan mà còn cho sự giàu sang phú quý không ai sánh bằng. Vua Solomon cho giao thương với các nước láng giềng, thu về rất nhiều của cải không đếm xuể, khiến nhiều nước phải thần phục và nhiều vua đến để nghe sự khôn ngoan của ông.
Dưới triều vua Solomon, Đền Thờ Jerusalem cũng được hoàn thành. Hòm Giao Ước được chuyển vào trong Đền Thờ, như dấu chỉ rằng Thiên Chúa sẽ ở với dân Israel, và ban phước cho những ai tới đó để kêu cầu danh Ngài. Thời vua Solomon, Israel được thịnh trị tột đỉnh, trước khi bị phân tách thành hai vương quốc.
Sau khi vua Solomon qua đời, con trai ông là Rehoboam lên kế vị. Những người Israel tới xin vua Rehoboam cho miễn giảm lao dịch, nhưng ông không nghe theo mà còn muốn bắt họ phải làm nhiều hơn. Vì lẽ đó, những người Israel đi theo một quan dưới trướng là Rehoboam, lập ông lên làm vua Israel. Nhưng những người thuộc chi tộc Judah và Benjamin thì vẫn còn trung thành với nhà David. Từ đó, tồn tại hai vương quốc đồng thời là vương quốc Israel phía bắc, thủ đô là Samaria và vương quốc Judah phía nam, thủ đô là Jerusalem.
Vì sợ người Israel mỗi khi đi thờ phượng Thiên Chúa lại phải tới Đền Thờ ở Jerusalem, có thể họ sẽ lại theo nhà David, nên vua Rehoboam cho dựng hai con bê bằng vàng ở hai đầu đất nước, để họ tới đó thờ phượng và dâng của lễ trên đó. Các vua đời sau của Israel thường giữ lại truyền thống này, và còn dựng nhiều nơi thờ phượng khác trên núi. Người Israel cũng vì vậy mà dần xa rời Thiên Chúa, đi theo thờ phượng thần Baal của dân ngoại. Ngôn sứ Elijah tới cảnh báo dân Israel, và đưa ra lời thách thức với các tư tế của thần Baal. Hai bên sẽ dựng một bàn thờ, chất củi lên nhưng không đốt lửa, nếu thần của bên nào là thật thì sẽ cho lửa xuống để thiêu cháy của lễ. Các tư tế của thần Baal cầu khẩn từ sáng tới tối nhưng không có gì xảy ra. Tới lượt Elijah cầu khẩn Thiên Chúa thì lửa từ trời bốc xuống thiêu của lễ trên bàn thờ. Elijah còn làm nhiều dấu lạ nữa trong dân Israel để kêu gọi họ quay về với Thiên Chúa trước khi ông được đưa về trời.
Người Assyria thường xuyên đem quân tiến đánh Israel, nên các vua đời sau phải làm chư hầu cho vua Assyria. Tới đời vua Hoshea, ông liên minh với Ai Cập và không tiến cống hàng năm cho Assyria nữa. Tới năm thứ chín triều đại vua Hoshea, quân Assyria đánh chiếm được thành Samaria và bắt dân Israel đi lưu đày. Vương quốc Israel tới đây là chấm dứt.
Nói về vương quốc Judah phía nam, họ đã chống lại được ách xâm lược của người Assyria. Judah cũng chịu ảnh hưởng của các thần ngoại nhưng vì là nơi đặt Đền Thờ Jerusalem và có nhiều vua theo đường lối Thiên Chúa nên vẫn giữ được truyền thống tôn giáo của tổ tiên.
Thời vua Hezekiah, trong một lần vua lâm bệnh nặng, có sứ đoàn Babylon tới thăm. Nhân dịp đó, vua cho người Babylon chiêm ngưỡng hết những của cải quý giá trong Đền Thờ và cung điện. Ngôn sứ Isaiah cảnh báo rằng rồi đây những của cải đó sẽ bị đem về Babylon.
Tới thời vua Jehoiachin, vua Nebuchadnezzar của Babylon dẫn quân tới vây hãm Jerusalem, cho cướp hết vàng bạc, của cải đem đi. Ông ta cũng bắt dân Jerusalem phải đi lưu đày tới Babylon. Zedekiah được Babylon đặt lên làm vua Judah, nhưng vì ông không phục tùng Babylon nên vua Nebuchadnezzar lại sai quân đi đánh thành Jerusalem. Chúng phá hủy thành và Đền Thờ, móc mắt vua Zedekiah, lấy khóa đồng cùm tay lại rồi giải về Babylon. Vương quốc Judah tới đây là chấm dứt.
5. LƯU ĐÀY
Cùng với đoàn người Judah bị đem về Babylon, vua Nebuchadnezzar sai chọn ra những người có vẻ ngoài ưa nhìn, đầu óc thông minh. Họ sẽ được dạy tiếng nói và văn hóa của người Babylon trong ba năm rồi sẽ ra phục vụ vua. Trong số đó có mấy ông Daniel, Hananiah, Mishael và Azariah. Hết hạn ba năm, họ được đưa vào trình diện vua Nebuchadnezzar và từ đó làm quan cố vấn cho vua.
Vua Nebuchadnezzar cho dựng một pho tượng vàng, và ra lệnh tất cả dân chúng phải quay mặt về phía tượng vàng mà thờ lạy. Nhưng ba người Hananiah, Mishael và Azariah vì một lòng với Thiên Chúa nên không chịu thờ lạy pho tượng. Vua Nebuchadnezzar sai đem họ quăng vào lò lửa, nhưng thiên sứ của Thiên Chúa hiện ra cứu họ khỏi bị thiêu cháy. Khi họ đi ra ngoài bình an, vua Nebuchadnezzar ngạc nhiên và hạ lệnh toàn dân không ai được nói phạm tới Thiên Chúa của Israel.
Một đêm, vua Nebuchadnezzar có một giấc mơ. Không có nhà thông thái trong nước nào có thể giải nghĩa cho vua nên ông hạ lệnh giết hết đi. Daniel xin được vào gặp vua, và giải nghĩa cho ông biết rằng, sau thời của Babylon, sẽ xuất hiện thêm ba vương quốc khác, trong đó vương quốc thứ tư, cứng rắn như sắt, sẽ tàn phá mọi thứ. Sau cùng, Thiên Chúa sẽ lập nên một vương quốc đời đời, không bao giờ bị tiêu diệt và sẽ trao vương quyền cho một Con Người đến từ mây trời, muôn dân thuộc khắp mọi nước sẽ thờ phượng Người.
Sau khi vua Nebuchadnezzar qua đời, Babylon trải qua mấy đời vua cho tới vua Nabonidus, con trai ông là Belshazzar nắm quyền nhiếp chính. Một lần, Belshazzar tổ chức bữa tiệc lớn, cho mời một nghìn quý tộc đến tham dự. Đang lúc cao hứng, ông sai mang ra những chén vàng và bạc trong Đền Thờ mà lúc trước vua Nebuchadnezzar đã cho đem về từ Jerusalem. Họ rót rượu vào những chén đó mà uống với nhau. Bỗng nhiên có chữ viết trên tường ngay trong cung. Khi các nhà thông thái không ai giải nghĩa được những chữ đó, Daniel được đưa đến. Ông giải thích rằng vì sự kiêu ngạo, nên Babylon sẽ bị chia cắt mà trao vào tay người Media và Ba Tư. Ngay tối hôm đó, Belshazzar bị giết. Về sau, Babylon bị hoàng đế Cyrus của Ba Tư Chinh phạt, Darius người Media được bổ nhiệm làm vua xứ đó.
Vua Darius bổ nhiệm một trăm hai mươi tổng trấn để cai quản khắp Babylon, trên họ là ba quan đại thần, trong đó có Daniel. Vì ghen ghét, nên họ tìm cách vu cáo Daniel, nhưng không tìm được lý do vì ông là người công chính, không tham nhũng hay làm việc tắc trách.
Họ tới gặp vua Darius, xin ra chỉ thị rằng trong ba mươi ngày, không ai được thờ thần nào khác ngoại trừ vua Darius, nếu không sẽ bị quăng vào hang sư tử. Nhưng Daniel vẫn theo thông lệ mà quay mặt về phía Jerusalem, cầu nguyện ba lần một ngày. Những người kia bắt gặp và tới báo với vua Darius.
Vua Darius không muốn giết Daniel, nhưng vì đã ra sắc lệnh nên đành phải làm theo. Daniel bị quăng vào trong hang sư tử. Sáng hôm sau, vua Darius đi tới chỗ hang sư tử, cất tiếng gọi thì có tiếng Daniel đáp lại. Vua sai đưa Daniel ra ngoài, và quăng những kẻ đã tố cáo ông vào đó, lập tức họ bị lũ sư tử xé xác. Darius ra chỉ thị cho toàn dân phải tôn vinh Thiên Chúa của Israel.
Sau khi vua Darius tiếp quản Babylon một thời gian, quyền cai trị được chuyển giao trực tiếp cho hoàng đế Cyrus. Ngay trong năm đầu tiên, Cyrus ra chỉ thị cho những người Judah được trở về Jerusalem để dựng lại Đền Thờ cho Thiên Chúa. Người Judah vui mừng ra đi, trở về Jerusalem và bắt đầu xây cất lại Đền Thờ. Nhưng vì bị các dân ngoại xung quanh ngăn cản, nên mãi tới thời hoàng đế Darius cai trị Ba Tư thì Đền Thờ Jerusalem mới được dựng xong. Dân Judah sắp đặt lại các nghi lễ thờ phượng và cử hành lễ Vượt Qua như cha ông họ ngày trước.
6. PHÚC ÂM
Sau thời kỳ bị Babylon và đế quốc Ba Tư kiểm soát, Judah lại rơi vào tay người Hy Lạp và sau đó trở thành tỉnh Judea thuộc đế quốc La Mã. Còn vương quốc Israel cổ phía bắc thì giờ bị chia thành hai tỉnh là Galilee và Samaria.
Dưới thời vua Herod cai trị Judea, có một tư tế tên là Zechariah, vợ ông tên là Elizabeth, cả hai thuộc dòng dõi của Aaron. Họ sống công chính, tuân theo các lề luật và giới răn không chút lỗi phạm nào. Nhưng họ đã già mà chưa có con.
Một lần, khi Zechariah đang dâng lễ trong Đền Thờ, thiên sứ Gabriel hiện ra với ông, báo rằng vợ ông sẽ sinh con trai, đứa trẻ này sẽ mang nhiều người Israel trở lại với Thiên Chúa, và chuẩn bị cho Chúa một dân đã sẵn sàng.
Bà Elizabeth sau đó có thai. Tới kỳ sinh, bà sinh con trai, đặt tên là John. Đứa trẻ lớn lên thì sống trong hoang mạc.
Cũng trong lúc bà Elizabeth đang mang thai, thiên sứ Gabriel lại tới thành Nazareth trong tỉnh Galilee, gặp một trinh nữ tên là Mary đã đính hôn với Joseph, một người thuộc dòng dõi vua David. Thiên sứ báo rằng rồi đây nàng sẽ có thai, sinh con trai và hãy đặt tên là Jesus. Con trẻ sẽ nên cao trọng và người ta sẽ gọi Người là Con của Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ trao cho Người ngai vàng của vua David tổ tiên Người, và Người sẽ trị vì nhà Jacob đến muôn đời.
Rồi Mary có thai. Joseph là người công chính, không muốn tố cáo nàng nên định âm thầm rời bỏ nàng. Nhưng thiên sứ hiện ra với cậu trong mơ, nói cho cậu biết người con mà Mary đang mang là nhờ quyền năng Thiên Chúa, dặn cậu hãy đón Mary về nhà làm vợ.
Vào những ngày đó, hoàng đế Augustus ra lệnh cho mọi người trong khắp đế quốc phải trở về nguyên quán để đăng ký hộ tịch. Joseph đưa Mary trở về nguyên quán mình ở Bethlehem trong tỉnh Judea. Tại Bethlehem, họ không tìm được quán trọ nên phải ở tạm trong một cái hang lừa. Ở đó, Mary trở dạ và sinh con. Nàng lấy khăn bọc con lại và đặt trong máng cỏ. Có mấy người chăn cừu ngoài đồng được thiên sứ báo tin cũng đến để được thấy con trẻ, rồi họ trở về, vừa đi vừa ca ngợi Thiên Chúa.
Lúc được tám ngày tuổi, người ta làm lễ cắt bì cho con trẻ và đặt tên là Jesus.
Có ba nhà thông thái từ phương đông tới Jerusalem gặp vua Herod, hỏi rằng vua dân Judah mới sinh ở đâu để họ tới bái lạy, vì họ đã trông thấy ngôi sao của Người xuất hiện. Vua Herod cho gọi các thầy thượng tế và kinh sư vào hỏi. Họ tra xét các sách tiên tri thì có sách chép rằng ở Bethlehem sẽ sinh ra một vị lãnh đạo dẫn dắt Israel. Vua Herod bảo ba nhà thông thái đi Bethlehem, dặn rằng khi tìm được con trẻ thì quay lại báo với vua để ông cũng đến. Ba nhà thông thái lên đường, nhờ ngôi sao chỉ dẫn nên họ tới được chỗ con trẻ đang ở. Họ mở tráp ra, dâng lên các món quà quý bằng vàng, nhũ hương và mộc dược. Họ được báo mộng không được trở lại gặp vua Herod nữa, nên đã chọn đường khác về xứ sở mình.
Khi vua Herod nhận ra những nhà thông thái không quay lại, ông ta nổi giận, sai giết tất cả các trẻ trai từ hai tuổi trở xuống tại Bethlehem và các vùng phụ cận. Thiên sứ hiện ra báo mộng cho Joseph hãy đem con trẻ trốn sang Ai Cập. Ngay đêm đó, Joseph đem Mary và con trẻ sang Ai Cập. Tới Khi vua Herod qua đời, Joseph lại đưa gia đình trở về sống trong thành Nazareth thuộc tỉnh Galilee.
Vào năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tiberius, có lời Thiên Chúa phán với John con trai của Zechariah trong hoang địa. Ông đi khắp các miền ven sông Jordan, rao giảng và làm phép rửa cho các tội nhân. Những người Judah đến với ông, thú tội cùng ông, và ông làm phép rửa cho họ. Có mấy thầy tư tế ở Jerusalem đến gặp ông, hỏi rằng ông có phải là Đấng Cứu Thế không, nhưng ông nói rằng sẽ có một Đấng đến sau ông, ông chẳng đáng cởi quai dép cho Người, Người sẽ làm phép rửa bằng Thánh Linh.
Khi Đức Jesus được ba mươi tuổi, Người cũng đến với ông John để chịu phép rửa. Trông thấy Đức Jesus, John nói rằng chính Người là người ông đã nhắc tới. Ngay khi Đức Jesus ra khỏi nước, các tầng trời mở ra, có Thánh Linh ngự trên Người dưới hình chim bồ câu, và có tiếng từ trời phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đàng."
Sau khi chịu phép rửa, Đức Jesus đi vào trong hoang mạc để chịu sự cám dỗ của ma quỷ trong bốn mươi ngày. Suốt thời gian này, Người không ăn gì cả. Sau đó, Người đi ra chỗ John đang làm phép rửa, hai môn đệ của John tên là John và Andrew đi theo Người. Sau đó, lại có thêm các ông Simon anh trai của Andrew - mà được Người đổi tên thành Peter, Philip và Nathanael cũng đi theo Người.
Trong một bữa tiệc cưới ở Cana, Đức Jesus và bà Mary được mời tới dự. Đang trong bữa tiệc thì hết rượu, bà Mary xin Người hãy giúp họ. Vâng lời mẹ, Đức Jesus sai rót đầy các chum đá, rồi hóa ra rượu cho chủ bữa tiệc. Đây chính là phép lạ đầu tiên được ghi chép của Người.
Đức Jesus đi về thành Nazareth nơi mình lớn lên. Vào ngày Sabbath, Người vào trong hội đường để giảng dạy. Người đọc một đoạn trong sách của ngôn sứ Isaiah, tiên báo về Đấng Cứu Thế, và tự nhận rằng những lời đó đã ứng nghiệm nơi mình. Khi đám đông tỏ ra hoài nghi, Người nói rằng không có ngôn sứ nào được tiếp đón tại quê hương mình. Họ nổi giận và định giết Người, nên Đức Jesus rời khỏi nơi đó.
Đức Jesus đi khắp miền Galilee, rao giảng cho dân Israel về Nước Trời, và về ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho họ thông qua Người. Người cũng làm nhiều dấu lạ chữa lành những người bị đau yếu, quỷ ám. Khắp mọi nơi người ta đến với Người, đem theo đủ mọi thứ bệnh tật, và Người chữa lành cho họ. Trong một lần giảng dạy cho dân mà trời đã tối, Người đã làm dấu lạ hóa bánh cho năm nghìn người ăn, rồi thêm một lần khác hóa bánh cho bốn nghìn người.
Đức Jesus củng cố và làm mới lại một số điều luật của Moses. Theo lời Người, con người ta không chỉ cần công chính trong hành động mà còn cần trong tư tưởng, và hãy yêu thương tha thứ cho kẻ khác như với chính mình. Trên hết, Người nhấn mạnh sự yêu thương và ân sủng của Thiên Chúa dành cho những ai đến với Ngài. Đức Jesus cũng công khai gọi Thiên Chúa là Cha, và dạy các môn đệ làm như vậy.
Đức Jesus chỉ trích những người Pharisee, là những người vốn thông thạo kinh sách, được xem là đạo đức trong dân. Đức Jesus chỉ ra rằng họ là những kẻ đạo đức giả, chỉ cố tỏ vẻ cho người ta ca tụng nhưng lòng dạ thật là lang sói. Đức Jesus thường đến với những người bé mọn, hoặc người tội lỗi, nói rằng chính những người ấy mới là lý do Người được sai đến. Vì lẽ đó, các tư tế và người Pharisee không ưa Người, và thường tìm cách bắt bẻ tố cáo Người.
Đức Jesus chọn ra mười hai tông đồ trong số các môn đệ, là các ông Peter, Andrew, James và John con của Zebedee, Philip, Matthew, Bartholomew, Thomas, James con của Alphaeus, Simon Nhiệt Thành, Judas con của James, và Judas Iscariot. Người sai các ông đi rao giảng, ban cho phép chữa lành các thứ bệnh tật, nói trước cho họ những khó khăn sẽ phải trải qua phía trước. Các tông đồ bèn ra đi như lời dặn.
Một lần, Đức Jesus hỏi các môn đệ xem họ nghĩ mình là ai. Ông Peter thưa rằng Người chính là Đấng Cứu Thế. Đức Jesus ngợi khen Peter rằng ông thật có phúc vì đã nhận được sự mặc khải từ Thiên Chúa, và cho ông làm nền tảng của Hội Thánh. Cũng hôm đó, Đức Jesus tiết lộ cho các môn đệ biết rằng Người sẽ phải đi Jerusalem, phải chịu khổ hình trong tay các thượng tế và kinh sư, rồi ba ngày sau Người sẽ sống lại.
Đức Jesus cùng các môn đệ khởi hành đi Jerusalem để tham dự lễ Vượt Qua. Tới gần thành, Người sai hai môn đệ đi trước, dắt về cho Người một con lừa. Người vào thành trên lưng lừa, được dân Jerusalem chào đón nồng nhiệt. Người ta chặt các cành cây để trải lối Người đi.
Đức Jesus đi vào trong Đền Thờ, đuổi hết những kẻ buôn bán ở đó đi. Khi họ hỏi Người có quyền gì làm như vậy, Người đáp rằng hãy cứ phá hủy Đền Thờ này đi, rồi trong ba ngày Người sẽ xây lại. Họ không biết rằng Người đang nói về chính mình.
Đức Jesus cùng các môn đệ ăn tối mừng ngày lễ Vượt Qua. Trong bữa ăn, Người trao bánh và rượu cho các môn đệ, nói rằng đó chính là mình máu của Người, và dặn các ông hãy cử hành nghi thức này để tưởng nhớ đến Người.
Sau khi ăn xong, Người đứng dậy, quấn khăn ngang lưng và rửa chân cho các môn đệ. Người dặn các ông rằng nếu Người là thầy mà còn rửa chân cho các môn đệ, thì họ cũng phải rửa chân cho nhau. Nhờ dấu chỉ của tình yêu thương này mà người ta sẽ nhận biết họ là môn đệ của Người.
Đức Jesus nói với các môn đệ rằng chính đêm nay họ sẽ vấp ngã vì Người. Peter khẳng định mình sẽ không như vậy, thì Người nói rằng trước khi gà gáy, ông sẽ chối Người ba lần.
Họ cùng nhau đi đến khu vườn Gethsemane. Ở đó, Đức Jesus thức cầu nguyện nhưng các môn đệ thì ngủ gật. Một người trong nhóm Mười Hai là Judas Iscariot đã thỏa thuận với các thầy thượng tế để nộp Đức Jesus với giá ba mươi đồng bạc. Hắn dẫn người của thầy thượng tế đến, rồi hôn má Đức Jesus để ra hiệu. Lập tức, chúng xông đến bắt Đức Jesus đem đi. Các môn đệ sợ hãi mà bỏ chạy hết.
Đức Jesus bị đưa đến chỗ thầy thượng tế Caiaphas. Ở đó, các kinh sư và trưởng lão tìm chứng cứ tố cáo Người. Đức Jesus cứ im lặng trước những lời cáo buộc. Sau cùng, thầy thượng tế hỏi Người có phải Con Thiên Chúa không. Đức Jesus xác nhận, thì hội đồng tuyên án Người phải chết vì phạm thượng.
Peter cũng đi theo cách một quãng, cho đến trước tòa hội đồng của thượng tế. Ở đó, có mấy người nhận ra ông, nhưng ông chối rằng mình không biết Đức Jesus. Vừa khi ông chối Người lần thứ ba thì có tiếng gà gáy. Peter ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
Vì Judea đang chịu sự cai trị của La Mã, nên các thầy thượng tế cho trói Đức Jesus lại rồi giải cho tổng trấn Pilate, với cáo buộc rằng Người xúi giục dân chúng chống lại luật pháp La Mã, và tự nhận mình là vua. Pilate không thấy Đức Jesus có tội, nên muốn cho đánh đòn rồi tha đi, nhưng họ không chịu. Bấy giờ, quan tổng trấn có thông lệ mỗi mùa lễ hội sẽ thả ra một người tù được dân chúng chọn lựa. Các thầy thượng tế xúi giục dân chúng xin Pilate cho giết Đức Jesus, rồi tha cho Barabbas, là kẻ tử tù. Vì sợ một cuộc náo động đang dấy lên, nên Pilate đành phóng thích Barabbas rồi trao Đức Jesus cho họ đem đi đóng đinh.
Quân lính dẫn Đức Jesus vào trong dinh tổng trấn và vây lấy Người. Chúng đánh đập và nhạo báng Người. Sau đó, chúng đưa Người đến đồi Golgotha, đóng đinh Người vào thập giá, ở giữa hai kẻ tử tù hai bên. Những kẻ qua lại đều lắc đầu và buông lời nhục mạ Người, nói rằng nếu Người là Con Thiên Chúa, thì phải tự cứu được mình và xuống khỏi đó.
Trên thập giá, Đức Jesus xin Thiên Chúa tha thứ tội cho họ, rồi Người phó thác linh hồn cho Thiên Chúa trước khi trút hơi thở cuối cùng.
Ngay lúc đó, bức màn trong Đền Thờ bị xé đôi, mặt đất rung chuyển, nhiều ngôn sứ đã qua đời hiện ra với nhiều người trong thành. Viên đội trưởng và lính canh trông thấy cảnh đó thì kinh hãi, nói rằng quả thật Người là Con Thiên Chúa.
Chiều tối, có một người giàu có tên là Joseph đến xin Pilate cho hạ xác Đức Jesus xuống để mình đem đi mai táng. Ông Joseph bọc thi hài Đức Jesus trong tấm vải liệm, đặt vào ngôi mộ của chính ông đục trong đá. Ông lăn một tảng đá lớn che cửa mộ lại rồi ra về.
Rạng sáng ngày thứ nhất trong tuần, có mấy phụ nữ mang dầu tới mộ để xức cho xác Đức Jesus. Họ thấy tảng đá lấp cửa mộ đã lăn ra, nhưng không thấy xác Đức Jesus đâu. Một thiên sứ hiện ra nói với họ rằng Đức Jesus đã sống lại, và đã đi trước họ tới Galilee.
Cùng ngày hôm đó, có hai môn đệ đang trên đường đi tới làng Emmaus, vừa đi vừa nói về những chuyện đã xảy ra. Trong lúc họ nói, Đức Jesus hiện đến cùng đi với họ, nhưng họ không nhận ra Người. Người giảng giải cho họ về Kinh Thánh, về việc Đấng Cứu Thế đã được tiên báo sẽ phải chịu khổ hình rồi ba ngày sau sẽ sống lại. Khi tới Emmaus, họ giữ Người lại. Trong lúc dùng bữa, Người cầm lấy bánh, bẻ ra và trao cho họ. Lập tức họ nhận ra Đức Jesus, nhưng Người biến mất. Ngay hôm đó hai môn đệ trở về Jerusalem, báo tin cho những người khác.
Đức Jesus còn hiện ra với các môn đệ nhiều lần trong vòng bốn mươi ngày kể từ khi Người chịu khổ hình. Tới kỳ hạn, Người cùng các môn đệ đi đến Bethany, thuộc tỉnh Galilee. Người căn dặn các môn đệ những lời sau cùng trước khi về trời.
7. SỨ VỤ
Sau khi Đức Jesus đã về trời, các môn đệ thường xuyên nhóm họp để cầu nguyện, cả thảy là khoảng một trăm hai mươi người. Họ chọn ông Matthias thay cho Judas trong nhóm Mười Hai để tiếp tục sứ vụ rao giảng.
Vào ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ đang nhóm họp thì có Thánh Linh ngự trên họ như ngọn lửa. Họ bắt đầu nói nhiều thứ tiếng khác nhau. Dân trong thành Jerusalem đến từ nhiều nước kinh ngạc khi thấy các môn đệ nói về Đức Jesus bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình.
Ngày hôm đó, có khoảng ba nghìn người đã gia nhập vào Hội Thánh. Với sự dẫn dắt của các tông đồ, họ sống cùng nhau và chia sẻ mọi vật sở hữu. Họ bán các tài sản để phân phát cho ai có nhu cầu. Mỗi ngày lại có thêm nhiều người gia nhập với họ.
Một ngày, khi Peter lên Đền Thờ để chuẩn bị cầu nguyện, ông đã chữa lành cho một người bị què từ khi mới sinh, thường ngồi ăn xin ở đó. Dân chúng kinh ngạc, thì Peter nói với họ rằng ông làm được điều này là nhờ danh Đức Jesus. Khi ông còn đang nói, thì các tư tế và người gác đền đến, bắt giữ Peter. Hôm sau, họ đưa ông ra xét xử, nhưng vì Peter được nhiều người ủng hộ, nên họ phải thả ông ra, đe dọa rằng không được tiếp tục rao giảng về Đức Jesus nữa.
Mặc cho sự ngăn cản từ phía giới lãnh đạo tôn giáo, các môn đệ tiếp tục công việc rao giảng. Có một người tên là Paul đã tố cáo một tín hữu vì tội phạm thượng, khiến dân chúng ném đá ông. Sau vụ đó, một cuộc bắt bớ dữ dội đã nổ ra tại Jerusalem. Các tín hữu phải tản đi khắp miền Judea và Samaria để rao giảng.
Paul đi lùng sục từng nhà, tìm bắt các tín hữu để tống vào ngục. Ông ta cũng xin thầy thượng tế cho đến Damascus để bắt bớ. Trên đường đi Damascus, Đức Jesus hiện ra với Paul, dặn ông hãy vào thành rồi sẽ có người đến nói cho ông biết phải làm gì. Paul bị mù tạm thời, phải để người ta dắt vào thành. Ngôn sứ Ananias đến gặp và làm phép rửa cho ông. Sau việc đó, Paul lại quay sang rao giảng về Đức Jesus, khiến ai cũng phải kinh ngạc.
Paul đi khắp các thành phố lớn của Địa Trung Hải để rao giảng. Ông thường bắt đầu tại các hội đường, dùng Kinh Thánh để chứng minh rằng Đức Jesus chính là Đấng Cứu Thế. Có người tin theo, có người chống đối, khiến Paul nhiều lần bị bắt bớ, đánh đập và trục xuất. Tuy vậy, ông không nản lòng mà tiếp tục công bố Tin Mừng cho cả người Judah lẫn dân ngoại, lập nên nhiều Hội Thánh tại Tiểu Á, Macedonia và Hy Lạp.
Khi trở về Jerusalem, dân trong thành biết chuyện ông đi rao giảng về Đức Jesus cho dân ngoại, nên đã bắt bớ ông. Viên chỉ huy quân đội là Lysias đến áp giải ông về trại, nhưng biết ông là công dân La Mã, nên không dám đánh ông mà đem giải đến cho quan tổng đốc Felix.
Các thầy thượng tế và kinh sư đến gặp Felix để trình cáo trạng chống lại Paul, nhưng Felix chỉ cho giam Paul lại, sai đối xử nhẹ nhàng với ông và hoãn xét xử. Tới thời tổng đốc Festus, bị người Judah thuyết phục, ông định đưa Paul trở lại Jerusalem trao cho họ, nhưng Paul muốn kháng cáo lên hoàng đế La Mã.
Tới ngày khởi hành đi Rome, Paul cùng một số tù nhân khác lên tàu. Trên hành trình, con tàu bị đắm và họ dạt vào một hòn đảo. Ba tháng sau, họ xuống một con tàu của Alexandria và sau nhiều ngày đã tới được Rome. Các nhà lãnh đạo Judah tại Rome nói rằng không ai ở đó tố cáo ông cả, và họ muốn nghe ông nói. Paul sống tại Rome trong hai năm ở một ngôi nhà thuê, và rao giảng về Nước Trời và về Đức Jesus một cách nhiệt thành, không bị ai ngăn trở.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
