Những kỷ niệm và cảm xúc khi là fan của bác già Haruki Murakami
Kể từ lúc đọc cuốn "Rừng Nauy" của nhà văn Haruki Murakami cách đây 15 năm thì tôi đã tìm thấy một người bạn - người thầy – một ông bác già có lối sống và tư duy giống tôi.
Lúc 29 tuổi, Haruki Murakami không nghĩ rằng ông sẽ trở thành nhà văn hay tiểu thuyết gia, vì lúc đó ông và vợ còn điều hành một quán bar nhạc Jazz toàn thời gian. Nhưng sau khi ngồi dưới một thảm cỏ để coi một trận bóng chày thì tự nhiên ông có ý định muốn viết một cuốn tiểu thuyết, dù trước đó ông chưa từng viết một cái gì. Đó là giây phút "mặc khải" trong đời Haruki Murakami mà ông không bao giờ giải thích được.
Sau khi coi xong trận đấu bóng chày, Haruki Murakami mua giấy và chiếc bút máy. Ngay tối hôm đó, sau khi dọn dẹp quán bar xong, vào lúc nửa đêm thì ông đã ngồi viết những dòng đầu tiên tại quầy bar, mỗi ngày ông cứ viết một ít sau khi đóng cửa quán bar. Ông phải mất đến 6 tháng để hoàn thành tác phẩm đầu tiên vì ông không biết cấu trúc một tiểu thuyết như thế nào, phải viết từ đâu. Nhưng ông nảy ra một cách viết mà chẳng giống một nhà văn nào. Thay vì phải viết bằng tiếng Nhật (ngôn ngữ mẹ đẻ của bất cứ người Nhật nào) thì ông viết bằng tiếng Anh nhưng tiếng Anh của ông không xuất sắc chỉ bì bỏm và đôi khi vẫn bí từ vừng, cùng cách diễn đạt.
Sau đó, ông dịch thứ văn bản tiếng Anh đó ra tiếng Nhật, đó là lý do vì sao tiểu thuyết đầu tiên của ông là "Lắng nghe gió hát" (Hear the wind sing) có văn phong như là dịch lại tiếng Nhật. Với cách này, ông bắt đầu cái nghề mới là dịch giả song song với công việc viết tiểu thuyết sau này. Ông dịch tất cả các tiểu thuyết mà ông đọc và tâm đắc từ tiếng Anh ra tiếng Nhật.
Haruki Murakami mất khoảng 6 tháng cho cuốn tiểu thuyết Lắng nghe gió hát" ( Hear the wind sing) ,viết đi viết lại và cảm thấy rất khó khăn vì ông chẳng qua một trường viết văn nào hay được ai dạy để viết một cuốn tiểu thuyết như thế nào. Ông chỉ viết theo bản năng và trí thông minh "tiểu thuyết" cùng cách cảm mạch truyện của riêng ông.
Một ngày đẹp trời, ông gửi luôn bản duy nhất cuốn tiểu thuyết này cho một cuộc thi. Hàng ngày, ông tập trung cho công việc điều hành quán bar để trả tiền mượn ngân hàng khi mở quán, quên luôn việc gửi cuốn tiểu thuyết “Lắng nghe gió hát” tham dự cuộc thi.
Một điều chắc chắn, nếu ông không đạt giải thưởng thì ông cũng không còn văn bản của tiểu thuyết này vì đây bản tiểu thuyết viết tay duy nhất của ông. May mắn, ông đã giành chiến thắng giải Gunzo vào năm 1979 (giải thưởng trao hàng năm cho nhà văn mới). Đó chính là bước đệm cho thành công vì sau đó một thời gian, ông quyết định nghỉ việc làm ông chủ quán bar để trở thành nhà văn bền bỉ - một tiểu thuyết gia trong 45 năm cho đến hiện nay.
Haruki Murakami là người kín tiếng, không giao du với nhà văn hay tham gia hội văn bút nào. Ông cũng không đặt mục tiêu phải giành giải thưởng văn học nào từ giải thưởng văn học Akutagawa đến giải thưởng Nobel, những giải thưởng văn học mà ông có được sau này chỉ là “tình cờ”.
Trước khi viết tiểu thuyết đầu tiên thì Haruki Murakami còn không đọc bất cứ nhà văn người Nhật nào. Ông chỉ đọc tiểu thuyết phương Tây từ văn học Nga ( Leo Tolstoy và Dostoevsky) và Pháp (Stendhal) nhưng sau này nền văn chương của Mỹ đã in đậm trong tư tưởng của Haruki Murakami trong những ngày quản lý quán Bar mang tên Peter Cat. Sau này, Haruki Murakami có nói rằng
"Nếu không có những năm tháng ở quán bar này, tôi sẽ không bao giờ trở thành tiểu thuyết gia vì tôi có thời gian để quan sát, chiêm ngẫm và tin rằng công việc chân tay nặng nhọc đã trao cho tôi một xương sống tinh thần".
Đó là lý do vì sao các tác phẩm của ông mang phong cách văn chương phương Tây và không có không khí hay văn hoá truyền thống Nhật Bản, ngoài cái tên gọi nhân vật là tiếng Nhật.
Nói chung, Haruki Murakami là nhà văn yêu thích nhất trong các nhà văn tôi từng đọc. Cách sống và tư duy của tôi tương tự như ông. Kể từ khi đọc cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông là Rừng Nauy qua bản dịch của Trịnh Lữ năm 2010 thì tôi đã thành fan cứng của ông. Tôi tìm thấy bản thân qua từng nhân vật trong từng tiểu thuyết của ông : Tôi cũng từ trải qua cảm giác của Tazaki Tsukuru trong tác phẩm "Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương", hay cảm giác cô đơn mà chẳng ai hiểu như Toru Watane trong "rừng Nauy", đã nhiều lần trải qua cái cảm xúc của Toru Okada trong tác phẩm "Biên niên ký chim vặn dây cót"....
Năm 30 tuổi, Haruki Murakami mới bắt đầu viết một cuốn tiểu thuyết dù ông chưa bao giờ viết bất cứ cái gì. Khi tôi 30 tuổi mới tập trung đọc và viết nghiêm túc.
Nhưng có một điều tôi và Haruki Murakami giống nhau là tuổi 12 hay 13 tuổi thì tôi đã đọc rất nhiều. Haruki Murakami được mua chịu sách tại một vài cửa hàng, còn tôi đọc sách của chú tôi để lại. Tôi còn nhớ hai năm học lớp 4 và lớp 5 thì mỗi cuối năm khi làm tổng kết thì tên tôi luôn được tuyên dương trước toàn trường vì thành tích mượn sách và truyện nhiều nhất trường. Suốt cả năm tiểu học và cấp 2, tôi còn không có một bạn nào thân thiết, ngoài những cuốn sách là bạn tâm giao.
Rồi đến những năm cấp 3 từ những cuốn sách giáo khoa phổ thông thì chân trời văn học và kỹ năng làm thơ đã mở ra trong tôi những điều mới lạ.
Đọc những tiểu luận về nghiệp viết lách, cách viết tiểu thuyết của Haruki Murakami thì ai cũng nói ông lập dị. Ông không tham gia hội nhà văn nào, không thích đám đông và không xuất hiện trước truyền thông, ông không bao giờ ký tặng sách trực tiếp khi phát hành sách. Ông không đọc văn bằng trong nước vì "chưa bao giờ, trong suốt những năm đầu đời, tôi trải qua cảm giác rung động sâu sắc trước một tiểu thuyết viết bằng tiếng nhật".
Ở Nhật Bản, ông từ chối phỏng vấn và xuất hiện trên truyền hình, tránh các sự kiện truyền thông nhưng ông hoàn toàn có thể khiến cả một khán phòng cười lên khi được mời đi dự tiệc với vẻ hào sảng. Nhưng khi ra nước ngoài, đặc biệt tại Mỹ thì ông tích cực tham gia phỏng vấn vì ông muốn giới thiệu ông là nhà văn Nhật tại Mỹ, những nhà văn Mỹ làm gì thì ông làm như vậy. Ông tự tìm dịch giả để dịch các tác phẩm của ông ra tiếng Anh để người Mỹ biết đến các tác phẩm của ông. Một trong những dịch giả xuất sắc nhất, đã giúp Haruki Murakami thành công tại Mỹ là
Alfred Birnbaum dịch cuốn tiểu thuyết “Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới Nhảy nhảy nhảy, giúp những truyện ngắn của ông được đăng trên tạp chí New Yorker.
+ Jay Rubin dịch cuốn “Biên niên ký chim vặn dây cót” và chạm đỉnh điểm thành công của Haruki Murakami tại thị trường Mỹ.
Ông là người sống ẩn nhẫn, kín tiếng, không phản kháng hay thanh minh khi bất cứ ai chê tác phẩm của ông. Khi tham gia gửi bài cho Gunzo, thì bạn bè chẳng ai tin là ông sẽ trở thành nhà văn và đoạt giải thưởng này vì một vài người bạn của ông sau khi đọc bản thảo Lắng nghe gió hát thì đã nói với ông rằng đừng bao giờ viết nữa vì quá dỡ. Sau khi nghe những lời đó, ông không đáp trả và giải thích cứ lẵng lặng làm việc ở quán Bar và mỗi đêm sau khi dọn dẹp xong, ông ngồi bàn bếp và viết tiểu thuyết bộ 3 tác phẩm : Lắng nghe gió hát, Pinball 1973, Cuộc săng cừu hoang. Nhưng ít tác giả nào, khi tiểu thuyết do mình viết ra là Rừng Nauy bán được 2 triệu bản trên toàn thế giới vào năm 1987.
Khi tại nước Nhật, độc giả Nhật không công nhận tác phẩm củaông, các nhà phê bình trù dập sáng tác của ông thì ông sang Mỹ để xuất bản như cuốn Kafka bên bờ biển được nhà phát hành bên Mỹ xuất bản (năm 2005). Cuộc săn cừu hoang (năm 1982) hay Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới (năm 1985) được xuất bản chi nhánh ở Mỹ của nhà xuất bản Kōdansha (Nhật Bản).
Trong một bài phỏng vấn ở nước ngoài, Haruki Murakami có nói "Tất cả những gì tôi suy nghĩ khi bắt đầu viết tiểu thuyết ngày trước chính là làm sao có thể chạy thật nhanh ra khỏi tình trạng Nhật Bản. Tôi muốn giữ khoảng cách càng xa càng tốt khỏi lời nguyền tiếng Nhật. Đó cũng là lý do vì sao tôi bỏ sang Châu Âu 3 năm, và sau một năm ở Nhật, tiếp tục sang Mỹ sống thêm chừng 4 năm".
Chính cuốn tiểu thuyết đầu tay lắng nghe gió hát, đã khái quát hết tư tưởng viết văn và trở thành một tiểu thuyết gia của Haruki Murakami. Ngay đầu chương 1, ông đã nói
"Thứ gọi là văn chương hoàn hảo không tồn tại. Giống như không tồn tại nỗi tuyệt vọng hoàn hảo vậy.
Viết văn là một công việc rất gian nan. Có khi cả tháng trời không viết nổi một dòng. Cũng có khi viết liên tục 3 ngày 3 đêm rồi mới nhận ra tất cả đều sai toét. Dù thế nào viết lách cũng vui lắm." --------------