Phở là một cái gì đó đó đặc biệt không chỉ riêng của Hà Nội. Dù rằng tôi cũng từng say mê các tô phở Hà Nội qua lời văn của Thạch Lam. Nhưng nó là một thứ đồ ăn mà không hề rẻ đối với tôi đến tận bây giờ. Nếu như ngày nhỏ, tôi chỉ dám ăn khi có cha mua cho, thì giờ nơi xứ người tôi cũng chỉ có thể ăn phở Sài Gòn một tháng vài lần là cùng.
Sáng sớm hai mươi chín, trong lúc vẫn còn say ngủ, cha lây tôi dậy:
- Dậy, dậy đi ăn phở
Tôi lười biếng ngồi dậy, từng làn gió rét làm tôi khẽ run người. Tôi bước từng bước ra phía nhà sau rửa mặt đánh răng và hứng thêm tí gió lạnh vào người. Từng cơn, từng cơn tấp vào mặt như làm tôi tỉnh hẳn ra. Tôi thay đồ để đi ăn. Trời lạnh nhưng tôi không mặc thêm áo khoác vì... tôi có đâu mà mặc. Cha chở tôi trên chiếc xe máy cũ phóng đi trong làn sương sớm. Bầu trời lúc này hãy còn là một màu trong xanh lắm. Xung quanh cũng không có nhiều người, do dân xóm tôi đã đi bán kiểng Tết cả rồi. Đường đi ra chợ giờ thật khác ngày xưa. Đường to và rộng, xung quanh là những bãi cây giống tăm tắp, nhìn thật thích mắt. Đâu đó vẫn còn những chiếc xe tải đang cộ kiểng lên xe. Lò vò một tí cha con tôi cũng ra đến Vĩnh Thành.
Xe chạy tót qua cầu Lò Rèn, tôi khẽ nhìn dòng Cái Mơn đang chảy. Vẫn êm đềm, xen kẽ là những tiếng ghe máy lạch bạch, lạch bạch dưới lòng sông. Xe chạy qua trường Trương Vĩnh Ký, làm tôi nhớ những ngày còn đi học ở đây. Tôi cũng hay đi học vào giờ này, chắc khoảng gần sáu giờ ba mươi sáng. Những lúc đó, tôi thường là người đi sớm nhất trường. Những lúc đó, tôi hay có cái thói quen là ném cặp vào học bàn rồi ra hành lan đứng (nếu hôm đó có tiền ăn sáng tôi sẽ mua năm ngàn bánh mì). Tôi thích đứng đó đến tận bảy giờ, nhìn sân trường đông dần, đông dần. Nhưng thích nhất là cái khoảng từ sáu giờ ba mươi đến sáu giờ bốn lăm. Do lúc đó, chỉ có tôi ở hành lan đó thôi. Đương nhiên là đôi lúc cũng có đứa đi học vào giờ đó. Nó cũng giống tôi, ném cặp vào học bàn và ra đó đứng. Chúng tôi đứng đó lặng im và chẳng bao giờ nói gì với nhau. Hoặc có nói cũng là những câu nhạt phèo... từ tôi. Xe chạy chầm chậm qua cầu Cây Da cũ. Cây cầu sắt này chắc cũng đã nát lắm rồi. Tôi không biết người ta sẽ làm gì với nó nửa. Sửa lại nó hay tuyên bố cho nó nghỉ hưu và khai tử luôn cái đường tắt này? Kệ. Cứ để thời gian trả lời.
Cha chở tôi đến một tiệm phở tên là Phở 24. Cái bảng tên làm đúng kiểu đặt trưng hàng quán với chử màu đỏ phông arial trên nền trắng. Nhìn cái tên tôi phì cười, thầm nghĩ sau này có thể kể với mọi người một cách dõng dạt rằng tôi cũng đã từng được ăn Phở 24. Bởi lẻ hơn sáu năm lăn lộn nơi Sài Gòn tôi chưa một lần được thử Phở 24 dù đã bao mùa nó giảm giá có khi đến vài chục phần trăm. Cha gọi cho tôi một tô phở tái, sau đó cha khẽ lấy hai cái chén nhỏ ra và đổ tương đen cùng tương ớt lên. Riêng tôi thì tôi tự bỏ ớt bột lên. Nói thật thứ tôi yêu nhất ở hàng quán Cái Mơn đó là ớt bột khô. Ớt bột ở đây khô và rời như bột, cay the, hơi ngọt và rất thơm. Không hề pha lẫn sa tế ướt át như trên Sài Gòn. Rồi tô phở cũng được bưng ra. Thơm nghi ngút, giữa cái lạnh giáp Tết mà được ngồi ăn một tô thế này thì còn gì bằng. Nước phở trong, thịt tái xắt nhỏ và nhiều, điểm lên đó là lấm tấm hành lá xắt nhỏ. Trước mặt là một khay rau gồm ngò, giá tụng và một số loại khác. Tôi trộn tô phở cùng quậy đều tương lên. Làm dấu thánh giá tạ ơn Chúa vì bửa ăn này. Bánh phở đôi chổ hơi cứng có lẻ vì tụng vội, thịt vừa phải, nước lèo thì ôi thôi, nó ngon đến tuyệt vời. Xung quanh mọi người cũng như tôi, đang ăn một cách hạnh phúc trong cái sớm lạnh lẽo này. Cha hỏi tôi có cần kêu thêm bánh không? Nhưng tôi nói là đủ rồi, ăn vừa vừa vẫn thích hơn no căng. Khi ăn xong cha gọi tính tiền, hai tô vị chi là năm mươi ngàn chẳn, trà đá tự phục vụ.
Ăn phở no say rồi, cha chở tôi quay lại cầu Lò Rèn. Xe ghé vào một quán cà phê, khá đông đúc những người dân đang ngồi thưởng thức từng ly cà phê trong buổi sáng cuối tháng chạp lạnh lẽo. Cha uống cà phê sữa đá còn tôi uống cà phê sữa nóng. Đương nhiên mỗi bàn không thể thiếu bình trà nóng đi kèm. Tôi lặng nhìn từng giọt cà phê rơi từ phin xuống. Trong lúc đó, cha tôi đang khuấy đều cà phê ở lớp trên ly. Xung quanh mọi người đang bàn về đủ thứ: những chuyến đi buôn kiểng Tết, những con gà chọi, chuyện học hành con cái nơi xa... Khi thấy đã đến lúc, tôi lấy cái phin ra và khuấy đều cà phê với sữa vào nhau. Vừa khuấy vừa nghe tiếng máy ghe chạy trên dòng Cái Mơn. Nắng cũng hửng lên dần, vậy là chỉ mai thôi là đến giao thừa rồi. Tôi bước qua cái năm tuổi của mình và chào đón một năm mới.
Cà phê xong một đợt, cha tôi cho thêm trà vào uống tiếp. Ngưng một tí, cha tính tiền rồi chúng tôi đi về. Đường về cũng ấm áp hơn, không còn lạnh như ban sáng. Cha kể tôi nghe việc những hôm cận Tết ông đi làm thuê cho hàng xóm để kiếm thêm tiền. Tôi ngẫm nghĩ gì đó sau tiếng ậm ừ. Tết sắp về rồi...
                                                                               
Đôi nét về tập tuỳ bút Xuân Kỷ Hợi thăm cố hương:
Tết đến, xuân về, kẻ xa xứ nào cũng mong mỏi được trở về quê xưa đoàn tụ gia quyến. Tôi cũng không nằm ngoài cái danh sách đó. Nhân năm nay được nghĩ đến tận mười hôm và tôi vừa chắt móp tậu được con máy tính đời cũ nên rất lấy chi là khoái chí. Mà khoái chí thì phải viết gì đó cho đã cái khoái chí kia. Vậy nên tập tuỳ bút này ra đời.
                                                                               
Bạn bè cấp ba hay gọi mình là Tasy và mình cũng rất thích cái tên này. Mình có sở thích là viết văn nhảm nhí cùng đi dịch mấy bài về lập trình bên Trung Quốc. Các bạn có thể theo dõi mình qua các địa chỉ sau:
Twitter: @tasyit
Trang cá nhân: tasynguyen3894.github.io