*5.3
Công việc làm thêm của tôi không yêu cầu phải dành thời gian cố định một ngày bao nhiêu tiếng, chúng tôi đến văn phòng để được đào tạo về các kĩ năng bán hàng, học về cách tư vấn sản phẩm của công ty, cách tiếp cận khách hàng. Ngày ấy tôi cũng chưa biết về khái niệm “Sale”, nên tôi không biết cách chúng tôi làm việc chính là cách gọi của “Sale” mà mọi người vẫn hay nói bây giờ. Công ty không trả lương cứng cho chúng tôi, chỉ khi nào đạt đến một doanh số nhất định thì mới có lương, còn lại thu nhập của chúng tôi có từ chiết khấu hoa hồng của việc bán hàng mà ra. Cho nên ngoài việc buổi sáng đến trường ra, cứ hễ lúc nào rảnh là tôi lại đến văn phòng nơi làm thêm của mình. Ban đầu, tôi vẫn bán hàng cho người thân quen, những tháng đầu tôi vẫn có lãi khoảng vài triệu đồng, đối với một đứa sinh viên năm nhất không phải thuê trọ như tôi là quá đủ để tiêu vặt một tháng rồi, vì thế tôi cũng không xin tiền bố mẹ nữa. Nhưng khi bắt đầu đi làm vài tháng, người quen của tôi đều đã mua hàng cả rồi, họ không có nhu cầu mua hàng nữa, vậy là tôi bắt đầu hiểu, kĩ năng bán hàng mà tôi nghĩ là thiên bẩm của mình thực chất không phải kĩ năng gì cả, chỉ là họ hàng cô dì chú bác thấy thích thú với việc tôi biết đi làm thêm, cho rằng tôi chín chắn, nỗ lực nên mới mua hàng ủng hộ. Cô bạn Khuê trên lớp học cao đẳng cũng là một khách hàng thường xuyên, bạn ấy cũng mua hàng của tôi rất nhiều, ban đầu có khi là cả bộ dưỡng da tiền triệu, rồi nước hoa, rồi các sản phẩm chăm sóc cá nhân như dầu gội, sữa tắm... Nhưng tất nhiên bạn ấy không thể cứ ủng hộ mãi cho tôi. Cứ như vậy, các đơn hàng của tôi thưa dần, dần dần đến mức không bán được gì nữa. Tôi bắt đầu hiểu, việc đi làm kiếm tiền không phải dễ dàng, tôi sẽ phải tìm cách khác. 
Tôi cần tìm kiếm những khách hàng khác, là người lạ chứ không phải người quen nữa. Công ty tôi có sản xuất hàng tháng những cuốn Catalogue, giống như một cuốn tạp chí giới thiệu sản phẩm vậy. Mỗi tháng một cuốn khác nhau, vì sẽ có những chương trình khuyến mại, giảm giá khác nhau. Tôi mua những cuốn Catalogue đó về, bắt đầu đi tìm những khách hàng lạ, giống như là đi tiếp thị vậy đó. Ban đầu tôi cũng rất ngại, tôi biết người dân không thích những người đi tiếp thị, và hơn hết, tôi không có kĩ năng giao tiếp tốt để nói chuyện với người lạ, chứ đừng nói là bán hàng cho họ. Cho nên tôi và những bạn làm thêm trong cùng văn phòng quyết định sẽ đi cùng với nhau để thêm tự tin và vượt qua nỗi ngại ngùng. 
Những người cùng làm thêm trong văn phòng đa phần là ở lứa tuổi của tôi, chúng tôi rất nhanh thân với nhau. Ở đây cũng có rất nhiều các bạn ở các tỉnh khác lên Hà Nội học, nhưng ở đây hoàn toàn khác so với ở trường, tôi và các bạn ấy rất nhanh chóng kết bạn, hoà đồng vui vẻ. Có thể vì chúng tôi có chung mục tiêu, có chung lý tưởng, nên chúng tôi dễ dàng chia sẻ với nhau hơn. Trong số ấy, có một bạn tên Nam, cậu ấy đến từ Điện Biên phía Tây Bắc, ban đầu tôi vô cùng ấn tượng, vì trông cậu ấy giống như là con lai vậy, mắt sâu, tóc còn xoăn tự nhiên, không phải kiểu xoăn của Goo Jun Pyo trong phim “Vườn sao băng”, kiểu ấy giả quá, là kiểu xoăn rất giống với người nước ngoài, nên nói chung vẻ ngoài của cậu ấy cũng có thể nói là đẹp trai. Cậu ấy là người cực kì hoà đồng, vui vẻ, khác với kiểu mặt lạnh, trầm tính của tôi. Cậu ấy rất hài hước, lúc ngồi tán gẫu, cậu ấy luôn nói ông của cậu ấy là người Pháp sang Việt Nam hồi chiến tranh rồi yêu bà cậu ấy là người Việt nên cậu ấy trông mới lai như vậy. Lúc ấy tất nhiên tôi tin sái cổ, còn cảm thấy hay ho vì mình quen biết được người có hai dòng máu Pháp - Việt. Mãi sau này mới biết hoá ra cậu ấy chém gió, mà không chỉ chém một chuyện ấy, còn chém rất nhiều chuyện nữa. Haiz, tôi đúng là dễ tin người mà.
Tôi và Nam cũng hay gặp nhau, vì chúng tôi đều là những người không thích đi học trên trường, và khi không đến trường, chúng tôi đều đến văn phòng, nên chúng tôi cũng bắt đầu thân nhau hơn, hay đi cùng nhau, có lúc cùng đi lên tổng công ty lấy hàng, có lúc đi ăn cùng, có lúc đi “tiếp thị” cùng nhau, vì cậu ấy khéo giao tiếp, nên đi cùng cậu ấy thì tôi lại thấy tự tin hơn. Nam và tôi không làm việc cùng nhóm với nhau, Nam ở nhóm của anh Minh, chính là anh quản lí kiêu ngạo tôi gặp lần đầu tiên đến văn phòng. Anh ấy và tôi đều ở trong nhóm của chị Tuyết, người phỏng vấn tôi, nhưng tôi không thuộc nhóm dưới của anh ấy. Như vậy có thể nói tôi và Nam thuộc nhóm lớn của chị Tuyết, nhưng lại không cùng nhóm của anh Minh. Anh Minh khi trở thành quản lí đã tách ra hoạt động riêng với chị Tuyết, tôi là một nhóm khác của chị Tuyết, hoạt động riêng so với nhóm của anh Minh, cho nên mới nói tôi và Nam không làm việc cùng nhóm với nhau . Thật ra tôi cũng hạn chế tiếp xúc với anh Minh, phần vì ban đầu tôi cảm nhận thấy anh ấy thật quá kiêu ngạo, phần vì cả cô bạn tôi và một số người trong văn phòng đều nói anh ấy là người có cái tôi lớn, và còn không nể nang ai nữa. Cho nên tôi quyết định cũng không tiếp xúc va chạm với anh ấy. Còn Nam thì khác, tuy cậu ấy ở nhóm của anh Minh quản lí, nhưng cậu ấy lại vui vẻ, hoà đồng, thân thiện, nên tôi vẫn “chơi” vui vẻ với cậu ấy. Hơn nữa, vì cậu ấy còn đẹp trai nữa, nên tôi cũng có cảm tình hơn.
Ngoài việc bán hàng, tôi cũng bắt đầu tạo một đội ngũ nhóm cho riêng mình. Công ty tôi làm là một công ty hoạt động với hình thức kinh doanh theo mạng. Mạng ở đây không phải là mạng di động hay mạng viễn thông mà là mạng lưới, mạng lưới tư vấn viên. Khi đạt đến một mức doanh số nhất định, chúng tôi sẽ bắt đầu được công ty trả lương ngoài phần chiết khấu hoa hồng do bán hàng. Cái hay ở chỗ, công ty không yêu cầu một mình tôi phải bán hàng để đạt được doanh số ấy, mà tôi có thể tự tạo lập một đội nhóm để cùng nhau bán hàng, chỉ cần doanh số của cả nhóm đạt được mức yêu cầu, thì khi đó công ty sẽ trả lương cho tôi. Tôi lấy ví dụ, nếu tôi đạt doanh số là 30 triệu, thì ngoài việc được chiết khấu hoa hồng của 30 triệu ra, thì công ty sẽ bắt đầu trả lương 3 triệu cho tôi. Và một mình tôi bán 30 triệu thì khó, nhưng nếu tôi có một nhóm 4-5 người, mỗi người chỉ cần bán 5-6 triệu, hay nếu tôi có một nhóm 10-15 người, thì mỗi người chỉ cần bán được 2-3 triệu, như vậy câu chuyện sẽ đơn giản đi rất nhiều. Doanh số càng lớn, thì mức lương công ty trả cho tôi cũng càng lớn. Tương ứng, nếu có một đội nhóm càng lớn, thì việc đạt được mục tiêu cũng sẽ càng dễ.
Tôi cảm thấy hình thức kinh doanh này thật thông minh, như vậy, nếu như tôi làm tốt, thì tôi hoàn toàn có thể đạt được thành công sớm, tôi có thể chứng minh năng lực của bản thân cho người khác thấy, tôi sẽ cho mọi người thấy rằng, không phải trượt đại học thì có nghĩa là tôi sẽ thất bại. Không phải chỉ có đại học mới là con đường dẫn đến thành công. Từ khi trượt đại học, tôi gần như mất đi toàn bộ niềm tin vào bản thân mình, tôi cảm thấy mình thật tệ, mình thất bại rồi, mình chẳng làm được việc gì ra hồn. Nhưng từ khi bắt đầu đi làm thêm, bắt đầu tiếp xúc với những người bạn mới, bắt đầu biết đến một con đường khác ngoài đại học, tôi lại bắt đầu tích cực, tôi lại tiếp tục đặt lòng tin vào chính bản thân mình, lại bắt đầu biết nỗ lực, cố gắng, bắt đầu biết hy vọng tiếp. Và quan trọng là, ở nơi này, những người tôi tiếp xúc họ đều tích cực như vậy, họ đều là những người rất trẻ, rất tự lập. Chúng tôi có cùng quan điểm sống, có cùng lý tưởng, có cùng khao khát về một tương lai tốt đẹp. Và, chúng tôi cùng làm việc, cùng tiến lên...
Chỉ là tất cả những điều ấy là trong suy nghĩ. Suy nghĩ thì luôn luôn đơn giản so với thực tế, luôn luôn vậy. Và khi mang suy nghĩ ra áp dụng ngoài thực tế, người ta sẽ nhận ra bản thân mình không giỏi như mình nghĩ...