Có lẽ ký ức xa nhất về từ thống nhất trong tôi là chuyến tàu “Tê e-nờ 4” từ Nha Trang ra Hà Nội, mùa hè năm sáu tuổi. Tôi háo hức lần theo bảng giờ tàu và ngắm những nhà ga dọc đường để thấy đoàn tàu hết qua Quảng Ngãi – Tam Kỳ lúc sớm, lại tới Đồng Hới – Đồng Lê lúc chiều. Còn tầm gần trưa, vừa dán mắt vào cảnh núi-rừng-biển của đèo Hải Vân với những khúc cua thấy cả đoàn tàu, tôi vừa nghe ba giải nghĩa danh hiệu “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” – nghe oách ơi là oách!
Ra tới Hà Nội, khi vẫn chưa ngớt háo hức khoe khắp cô dì chú bác anh chị em họ hàng về chuyến tàu, tôi gặp ngay từ thống nhất thứ hai, là công viên Thống Nhất gần nhà ông bà ngoại tôi. Ô, cũng có đường tàu trong công viên kìa! Cũng có cả mấy nhà ga Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn nữa! Mà bên ngoài công viên, bên kia đường Lê Duẩn, sao lại cũng có đoạn đường tàu ngồ ngộ nào trên vỉa hè thế nhỉ? Chẳng lẽ đường tàu “trẻ con” mà mình đang đi lại vòng sang bên kia đường cơ à? À không không, ba bảo bên đó chính là đường tàu Thống Nhất “thật” mà mình mới đi từ nam ra đấy!
Đoàn "tàu Thống Nhất" đỗ tại "ga Huế" trong công viên Thống Nhất, Hà Nội, 22-12-2024.
Đoàn "tàu Thống Nhất" đỗ tại "ga Huế" trong công viên Thống Nhất, Hà Nội, 22-12-2024.
Suốt hai mươi năm sau, tôi vẫn như chưa lớn hơn lần gặp hai từ thống nhất đấy. Vẫn thích đi tàu Thống Nhất để ngắm từng khung cảnh bên đường, vẫn vào công viên Thống Nhất để đi “tàu” với những em nhỏ háo hức bên bố mẹ. Lần gần nhất, sau chuyến “tàu”, tôi đi bộ quanh công viên và để ý tới mấy bức tượng màu trắng ở gần “ga Hà Nội”. Có một bức trông quen lắm, mô tả một nữ sinh đang đọc cuốn sách mở trên lòng. À, thì ra là nơi bốn anh Hoàng-Thành-Thăng-Long trong phim Mùi cỏ cháy chụp tấm ảnh lưu niệm trước khi lên đường vào nam, khi cái tên Thống Nhất vẫn là một ước vọng. Ngày ấy, bức tượng rỏ máu mỗi khi một anh đi mãi không về; ngày nay, bức tượng yên ả ngắm bàn cờ tướng rất khí thế của các cụ chắc cũng gần tuổi bốn anh ấy.
Duy có một người của thế hệ ấy tôi không gọi là cụ theo phép kính lão thông thường, mà gọi là ba. Lần về nhà gần đây, giúp ba dọn dẹp phòng làm việc, chỉ trong một sải tay, tôi đã chạm tới giấy tờ của ba từ thời học cấp 3 rồi làm công nhân ở nhà máy thủy tinh Hải Phòng, lý lịch sinh viên lúc sơ tán lên rừng Lạng Sơn, những nhận xét về anh giảng viên trẻ của Bách khoa Hà Nội, thư hiến kế cho Xi măng Hoàng Thạch sau khi từ Liên Xô về, mấy câu thơ về Hội An lộng gió đăng trên tạp chí của người Việt ở Czech và Slovakia, rồi khen cô Kỳ Duyên khéo dẫn chương trình, “dỗi” cô Mỹ Linh không sang chung vui với hội xuân của kiều bào ta (vì cô bảo là bị quạt trần rơi vào đầu), rồi đủ thứ hồ sơ nghiên cứu khoa học: dầu khí Vũng Tàu, gốm sứ Vĩnh Long, biodiesel từ mỡ cá basa An Giang và dầu hạt cao su Bình Phước, rồi Vinh, Bắc Ninh, Đà Nẵng, và tất nhiên, nhiều nhất vẫn là Sài Gòn, nơi ba mẹ gặp nhau, nơi tôi gọi là nhà.
Nếu như phòng làm việc của ba tôi chứa đủ dặm dài đất nước và cả những tâm thức Việt ở nước ngoài, thì một cuốn kỷ yếu của ngôi trường mẹ tôi dạy đủ nói lên lòng son với đất Sài Gòn – từ lúc là một cô giáo trẻ mới ngoài Hà Nội vào, làm cộng tác viên về mảng giáo dục với báo Tuổi Trẻ, được chụp ảnh với cụ Lê Duẩn lúc cụ tới thăm trường, và nhoáng một cái đã tới ảnh họp mặt hội hưu trí với những tình bạn trên bốn mươi năm.
Bởi vậy, thống nhất với tôi không chỉ là một khái niệm lịch sử - chính trị của đất nước, mà là một điều gì đó rất gần gũi trong từng câu chuyện của bản thân và gia đình. Nó vừa hiển hiện, vừa khéo léo nằm sau những chi tiết đời thường mà đôi khi phải nhìn kỹ một tí mới thấy.
Thống nhất là khi buổi sáng trên xe buýt số 7 đến trường mơ màng nghe bác tài bật “Từ là từ phu tướng, bảo kiếm sắc phong lên đàng”, còn buổi tối lại nghe mẹ mở “Nhớ phố Quang Trung đường Nguyễn Du, những đêm hoa sữa thơm nồng.” Thống nhất là như bác Trần Tiến, du ca chạy ra chạy vào, để rồi giữa cảnh làng quê bắc bộ trong Lá diêu bông lại có trái mù u, hay Mưa bay tháp cổ nhưng chẳng cần minh định là tháp Chăm hay tháp Phật.
Thống nhất là gần hai mươi năm cơm gạo Sài Gòn nhưng cũng pha với bánh đa cua Hải Phòng gần sân bay, bún bò Huế cạnh nhà, và dăm ba hàng phở đều trưng biển “phở Bắc Hải”. Thống nhất là nghe hết Đà Lạt lại tới da vàng của cụ Trịnh ở một quán cà phê gần ngã sáu Cộng Hòa, rồi mấy hôm sau tình cờ đọc cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm ở một quán khác cạnh Nhà thờ Cửa Bắc, để rồi giữa những câu chuyện như có lửa trong đó lại thấy hơi buồn cười trước cảnh một anh nọ cứ đợi chị trên đường chị đi về, hồi chị còn ở Hà Nội. Thống nhất là khi ra Tân Sơn Nhất chào hỏi anh bạn từ bên kia đại dương về, đang transit 1 giờ trước khi vèo ra Hà Nội, học đúng bài của ba năm xưa và đổi vai – lúc tàu dừng ở Đà Nẵng 15 phút, ba đã gọi ngay ông bạn “Hội An lộng gió” nhưng sống ở Đà Nẵng ra ga chơi.
Quý bạn đọc đọc tới đây chắc đã hơi sốt ruột với sự lê thê kể lể của tôi, nhưng mong các bạn rộng rãi một chút, vì chủ đề thống nhất chạm tới quá nhiều câu chuyện. Thêm một câu chuyện nữa thay lời kết vậy – rằng hôm nọ, tôi rủ vài người bạn cấp 3 vào thăm lại Dinh Độc Lập – Hội trường Thống Nhất, tại từ hồi tiểu học tôi chưa vào. Ngày 30 tháng 4 của 50 năm trước, ba tôi lấy chiếc bút đỏ tô kín tấm bản đồ miền Nam treo ở văn phòng khoa, đến nỗi mấy thầy cô trẻ khác còn dỗi vì bị tranh phần tô màu. Cũng hôm ấy, ông của bạn tôi nghiêm túc thực hiện lệnh hạ vũ khí của cấp trên, bảo vệ được bao xương máu và tài sản, trong đó có cả Dinh này. Chúng tôi cùng nhau ngắm bức Quốc tổ Hùng Vương oai nghiêm trong phòng Khánh tiết, bức Cẩm tú sơn hà, thái bình thảo mộc kỳ vĩ trong phòng Đại yến, cùng ngấm hơn ý nghĩa của nền Thống NhấtHòa Bình ngày nay, và càng hiểu được những may mắn và trách nhiệm của thế hệ “Trời còn để có hôm nay” lớn lao như thế nào.