Thiện tai! Chè ngon quá!
Một Thú ăn chơi thời nay của thanh niên trai tráng là rất phong phú, từ lành mạnh cho tới không lành mạnh. Bar bủng, bú đá, cỏ cần...
Một
Thú ăn chơi thời nay của thanh niên trai tráng là rất phong phú, từ lành mạnh cho tới không lành mạnh. Bar bủng, bú đá, cỏ cần các thể loại. Chỉ có bạn trẻ ngồi nhà chơi điện tử là lành mạnh. Nhưng thời tôi còn trẻ thì thú ăn chơi nó khác xa bây giờ lắm. Thời đó ra quán, mạnh dạn kêu một lon cô ca cũng đã là ăn chơi lắm rồi. Cách đó lâu lâu nữa thì đèo nhau trên chiếc xe đạp, khao nhau ly chè là đủ để chứng tỏ đại gia biết ăn chơi cho người ta nể rồi.
Hai
Cách đó vài trăm năm, chè là món ăn chơi của bậc trưởng giả mà bình dân chẳng thể nào ăn được. Cụ tổ tôi từng phục vụ trong phủ chúa, có ghi lại rằng mỗi lần có khách quý đến thăm, chúa cất giọng sai gia nhân:
- Bây đâu, mang chè ra.
Chỉ có vậy. Món ăn vặt rẻ tiền thời nay mà bọn trẻ ngày càng chê, đã từng là món ăn sang chơi sang chảnh của bậc vua chúa.
Ba
Một lần sang Nhật, tôi được anh bạn người Nhật đãi món tráng miệng từa tựa như món chè đậu ở Việt Nam. Không ngờ "chè" cũng là một món ăn truyền thống lâu đời của người Nhật.
Họ gọi tên món này là "Zenzai", viết chữ Hán là 善哉. Tôi tra từ điển Hán Việt thì thấy hai chữ này đọc là "thiện tai".
Mô Phật, từ nhỏ tôi xem Tây Du Ký trên đài suốt, lạ gì câu cửa miệng của Đường tăng là "thiện tai thiện tai". Nhưng mà tôi cũng chả bao giờ buồn thắc mắc câu này có nghĩa là gì. Xem thì cứ xem thôi, thắc mắc làm gì. Suy nghĩ của phần đông dân ta là vậy.
Tôi hỏi thì anh bạn mới nói thêm, chữ zenzai (善哉 - thiện tài) là đọc theo âm Hán Nhật. Còn đọc theo âm thuần Nhật là yoki kana (よきかな). Chữ "thiện" (善) mang nghĩa là tốt, tốt lành, có cùng cách đọc với các chữ mang nghĩa tương đương như "lương" (良) hay "hảo" (好). Các tĩnh từ này đều có cùng cách đọc thuần Nhật là yoi/yoki. Chữ "tài" (哉), đọc là "kana" mang nghĩa của một thán từ đứng ở cuối câu, tương đương với ~ vậy, ~ thay, ~ ru trong tiếng Việt. Chữ tai (kana) này cũng thường thấy trong các bài thơ Haiku của Nhật.
さまざまの
事おもひ出す
桜哉
sama zama no
koto omoi dasu
sakura kana
(Một bài thơ Haiku của thi thánh Matsuo Bashō)
Ơ hay, vậy câu cửa miệng của nhà Phật thì có liên quan gì tới món chè Nhật Bản? Anh bạn tôi giải thích, thật ra là có.
Hai chữ "thiện tai" đọc âm Hán Nhật là "zenzai", còn đọc kiểu thuần Nhật là "yoki kana", nghĩa là "tốt lắm thay", "tốt lắm".
Trong kinh Phật, ta vẫn thường thấy đức Phật khen các đệ tử: lành thay, lành thay.
Từ này xuất phát từ tiếng Phạn "sadhu". Đức Phật thường nói "sadhu" để khen thưởng, sách tấn các đệ tử khi họ hiểu được ý ngài giảng, hay làm những việc thiện lành. Các kinh sách Phật giáo dịch chữ "sadhu" này từ tiếng Phạn sang tiếng Tàu là "thiện tai". Chữ "thiện" đương thời không mang nghĩa hạn hẹp chỉ điều tốt trong khuôn khổ đạo đức, mà mang nghĩa rộng hơn, chỉ điều tốt đẹp. Còn chữ "tai" là từ cảm thán. Vậy thôi. Sadhu, thiện tai, hay dịch thuần Việt là "lành thay", tốt lắm thay.
Ơ, tôi vẫn chưa hiểu mối liên quan giữa món chè Nhật Bản với câu tán thán "lành thay" này.
Anh bạn tôi nói tiếp, thời đó nước Nhật còn nghèo khổ không thua gì nước Việt. Chè đậu nấu với đường, thêm miếng bánh giày (mochi) là thứ đồ ăn tuyệt phẩm mà chỉ có bậc quý nhân mới được thưởng thức. Một lần, có nhà sư nọ lần đầu được ăn món chè, vì quá ngon nên ông quên mất lẽ sắc không của nhà Phật mà thốt lên:
- Ối giồi ôi ngon quá!
Bậy! Chỉ đúng ý thôi chứ chưa đúng từ. Nếu dịch sang ngôn ngữ của vị sư đó vào thời đó sẽ là:
- Thiện tai thiện tai!
Mà ông sư là người Nhật nên chắc chắn đã nói:
- Zenzai zenzai!
Những người bình dân Nhật Bản khác có bao giờ được biết chè là cái món gì đâu. Nên khi nghe sư thốt lên "zenzai" thì đồ là chắc sư đang nói tên món đậu nấu nước đường ấy là "zenzai".
À ra vậy. Tôi tự nhũ lòng, hôm nào ra phố ăn cốc chè Huế cũng phải thốt lên như vị sư kia cho sành điệu: thiện tai thiện tai!
Otakulture
/otakulture
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất