Ngày 16 tháng 6 năm 1923, tôi trở về tu viện Exham sau khi người công nhân cuối cùng hoàn thành công việc của anh ta. Việc sửa chữa thực sự là một nhiệm vụ khổng lồ vì nền móng gần như chẳng còn lại gì ngoài một đống đổ nát hình vỏ sò; nhưng vì nó đã từng là chỗ ở của tổ tiên, tôi sẽ không để bất kỳ thứ gì ngăn cản mình. Nơi này đã không có người ở kể từ thời của James Đệ nhất, khi một bi kịch dữ dội, ghê gớm không thể giải thích được, giống như tự nhiên, đã giáng xuống đầu chủ nhân của nó, năm trong số những người con của ông ấy và hàng tá gia nhân; nó còn kéo theo một đám mây mù của sự nghi ngờ và nỗi kinh hoàng che phủ lấy người con thứ ba, tổ phụ của tôi và là người duy nhất sống sót sau thảm họa ghê tởm ấy. Với lời đồn rằng người duy nhất sống sót là một tên sát nhân, vùng đất thuộc về tay của nhà vua mà không cho người đàn ông bị buộc tội có bất cứ cơ hội nào để bào chữa hay giành lại tài sản của mình. Run rẩy bởi một nỗi kinh hoàng còn khủng khiếp hơn lương tâm hay pháp luật và chỉ có một ước muốn điên cuồng là rũ bỏ dinh thự cổ kính khỏi tầm mắt và tâm trí, Walter de la Poer, bá tước đời thứ mười một của nhà Exham, chạy trốn  đến Virginia và ở đó thành lập một gia tộc, một gia tộc được biết đến với cái tên Delapore sau một thế kỷ.
       Tu viện Exham vẫn duy trì tình trạng vô chủ, dù sau đó, nó đã thuộc về nhà Norrys sau một cuộc bốc thăm và được nghiên cứu rất nhiều bởi những họa tiết đặc biệt của nó; những họa tiết giống như những họa tiết thuộc về một ngọn tháp Gothic nằm trên quần thể kiến trúc Saxon hoặc Romanesque, những nơi mà người tạo ra nó có thể là lãnh đạo, hoặc nhóm những lãnh đạo người La Mã, Druidic hoặc Cymric, nếu truyền thuyết là đúng. Nền móng của nơi này là một thứ độc nhất, với một bên được lấp bằng những khối đá vôi được lấy từ một vách đá dựng đứng, nơi mà tu viện đang nằm trên đỉnh, thả tầm mắt xuống một thung lung hoang tàn nằm cách xa ngôi làng Anchester ba dặm về phía Tây. Những kiến trúc sư và cả những nhà khảo cổ yêu thích việc nghiên cứu tu viện, di chỉ kỳ lạ của những thế kỷ bị quên lãng, nhưng những cư dân vùng quê này ghét nó. Họ đã căm ghét nó từ hàng trăm năm trước, kể từ khi tổ tiên tôi còn sống ở đó, và căm ghét nó đến tận bây giờ, sự căm ghét ấy ám lên cả những vết tích của sự bỏ hoang như rêu phong và ẩm mốc trên mình nó. Tôi chưa từng ghé thăm Anchester dù chỉ một ngày trước khi biết phải tới để sở hữu một dinh thự với số phận bị ruồng bỏ. Và vừa mới tuần này thôi, những người công nhân đã phá tung cả tu viện Exham lên, và bận rộn với việc xóa nhòa đi những vết tích cuối cùng trên nền móng cũ.
       Những thông tin về cha ông mà tôi đã biết, cùng với sự thật rằng tổ tiên người Mỹ đầu tiên của tôi đã đến vùng thuộc địa đều rất lờ mờ. Chúng chỉ là những chi tiết nhỏ nhặt, vậy nên, tôi hoàn toàn phớt lờ nó cũng như cái cách mà nhà Delapores duy trì chính sách im lặng của mình. Không như những người hàng xóm làm nông của mình, chúng tôi hiếm khi khoe khoang về những cuộc thập tự chinh của tổ tiên hoặc những người anh hùng thời kì Phục Hưng hay Trung Cổ khác; gần như không có chút gì về truyền thống được chép lại ngoại trừ một ít có lẽ được ghi trong một chiếc phong bì được niêm phong còn lại sau cuộc nội chiến, chiếc phong bì của những điền chủ dành cho người con trai lớn nhất của họ mở ra sau khi họ lìa đời. Những vinh quang mà chúng tôi ăn mừng là những vinh quang mà chúng tôi dành được kể từ cuộc di cư; đó là những vinh quang tự hào và danh giá, chúng được dành riêng cho gia tộc này kể từ thời kỳ di cư đến Virginia.
       Tiếc thay, vận may đã bị chúng tôi xài hết trong cuộc chiến tranh, và toàn bộ cuộc sống của chúng tôi đã thay đổi sau khi Carfax, ngôi nhà bên bờ sông James của chúng tôi bốc cháy. Ông nội tôi, người đã cố gắng suốt nhiều năm, qua đời vì sự đau đớn, và cùng với ông ấy là chiếc phong bì đã gắn kết tất cả chúng tôi với quá khứ. Đến ngày hôm nay tôi vẫn còn nhớ lại đám cháy dù cho ngày ấy tôi chỉ là một đứa trẻ bảy tuổi, đám cháy với tiếng la của những người lính Liên Bang, tiếng gào thét của những người phụ nữ, và tiếng rú cùng với tiếng cầu nguyện của những người da đen. Cha tôi đã từng ở trong quân đội, bảo vệ Richmond, và sau rất nhiều thủ tục tôi và mẹ đã vượt qua được những rào cản để tham gia với cha mình. Khi cuộc chiến qua đi, tất cả chúng tôi di chuyển về phương Bắc do mẹ tôi cũng đã tới đó; và ở đó tôi đã trưởng thành, trở thành một người đàn ông trung niên người Mỹ với khối tài sản kếch xù. Cả tôi và cha mình đều không biết gì về điều mà bức thư thừa kế chứa đựng, và tôi thì quá đắm mình vào cuộc sống kinh doanh ở Massachusetts đến nỗi không còn chút hứng thú nào về những bí ẩn, điều rõ ràng đã lùi về rất sâu trong cây phả hệ của dòng tộc. Giá như tôi nghi ngờ về bản chất của những bí mật ấy, tôi sẽ rất vui lòng mà bỏ lại tu viện Exham cho rêu phong, mạng nhện và loài dơi!
Cha tôi mất năm 1904 mà không để lại bất kỳ lời nhắn nào cho tôi, hay cho đứa con duy nhất của tôi, Alfred, nó mồ côi mẹ và mới chỉ mười tuổi. Thằng bé là người duy nhất có thể đảo ngược trật tự thông tin mà gia đình tôi vẫn luôn có; mặc dù tất cả những gì tôi có thể cho nó là vài mảnh hình tượng đầy tính mỉa mai về quá khứ, thằng bé lại có thể gửi cho tôi những bức thư mà trong đó chứa đựng vài truyền thuyết thú vị của tổ phụ trong khi đang là một nhân viên hàng không ở Anh Quốc vào năm 1917 theo tiếng gọi của chiến tranh. Nhìn bên ngoài nhà Delapore dường như có cả một lịch sử đầy màu sắc và có phần nào đó nham hiểm, nhất là với một người bạn, một người đội trưởng của con trai tôi: Edward Norrys thuộc quân đoàn bay hoàng gia, cư ngụ gần với gia đình tại Anchester, một nơi với đầy những người nông dân mê tín dị đoan, những người mà với họ vài tiểu thuyết gia cũng đã là quá vô phép và không đáng tin. Norrys, bản thân cậu ta, dĩ nhiên, không hề xem trọng việc đó; nhưng con trai tôi lại thấy hứng thú với họ và coi đó như là những nguồn nguyên liệu tuyệt vời cho những bức thư gửi đến tôi. Chính những truyền thuyết trong từng bức thư ấy đã hướng sự chú ý của tôi đến khối gia tài phía bên kia đại dương, và chính chúng đã khiến tôi quyết định mua lại cũng như tu sửa dinh thự của gia đình năm xưa, thứ mà Norrys đã cho Alfred thấy trong những bức tranh đẹp như mơ, và cả một lời hứa hẹn sẽ nhượng lại cho cậu với một mức giá hợp lý, vì chính chú ruột của Norrys là người chủ hiện tại của dinh thự.
Vào năm 1918 tôi đã mua lại tu viện Exam, nhưng lại bị phân tâm khỏi kế hoạch tu sửa bởi sự trở về bất ngờ của người con trai nay đã trở nên tàn tật. Trong suốt hai năm cuối đời của nó, tôi không còn nghĩ tới bất kì điều gì ngoại trừ việc chăm sóc thằng bé, thậm chí, ngay cả công việc kinh doanh cũng nằm dưới sự quản lý của một người đồng nghiệp. Năm 1921, tự thấy bản thân chỉ toàn là tang thương, không mục đích sống, việc nghỉ hưu đối với tôi có lẽ không còn sớm nữa, tôi quyết định chuyển hướng những năm cuối đời của mình vào một mục tiêu mới. Ghé thăm Anchester vào tháng 12, tôi được chào đón bởi đội trưởng của con trai mình. Norrys, một chàng trai trẻ chính trực, và hòa nhã với đầy những trăn trở về người con trai của tôi, cùng với những người phụ tá của anh ấy đang thu thập về những truyền thuyết, chuẩn bị những kế hoạch cho việc tu sửa sắp tới. Tu viện Exam, bản thân nó trong mắt tôi chỉ là một tạo vật không gợi lại chút cảm xúc nào, đó chỉ là một mớ bòng bong của những đống đổ nát từ thời Trung Cổ đang lung lay, được phủ lên trên mình một lớp địa y và những chiếc tổ ong, tổ quạ. Nó nằm bên trên một vách đá dựng đứng, với những tầng lầu trơ trụi và cả những nội thất bên trong giữ cho các bức tường đá của tu viện không rời ra khỏi tòa tháp.
Trong khi bản thân đang dần dần tìm lại hình dáng của dinh thự năm xưa, khi mà tổ phụ của tôi rời bỏ nó vào hơn ba thế kỷ trước, tôi bắt đầu thuê những người công nhân cho công cuộc cải tạo. Với mỗi người công nhân mà tôi thuê, tôi đều phải trực tiếp rời khỏi địa phương để tìm kiếm với lý do mỗi người dân Anchester luôn có một nỗi sợ hãi và sự căm thù không thể lay chuyển được với nơi này. Những cảm xúc tiêu cực ấy mãnh liệt đến mức thậm chí đôi khi, nó còn ảnh hưởng đến cả những người lao động ngoài kia, khiến vô số người phớt lờ lời mời dù cho nó chỉ nhắm vào tu viện và gia đình lâu đời sống trong dinh thự của nó.
Con trai tôi đã từng kể rằng thằng bé bị trốn tránh trong suốt cuộc viếng thăm bởi nó là một người nhà de la Poer, và giờ đây tôi thấy bản thân mình bị tẩy chay hoàn toàn với cùng một lý do cho đến khi tôi thú thật với dân làng rằng bản thân mình biết rất ít về di sản của cha ông. Dù cho thế họ vẫn có vẻ không ưa tôi, vậy nên việc tìm kiếm những truyền thuyết của ngôi làng phải nhờ vào sự hòa giải của Norrys. Điều mà bọn họ không thể tha thứ, có chăng, chính là việc tôi đến đây để khôi phục một biểu tượng đầy ghê tởm với họ; và cho dù có hợp lý hay không, họ vẫn xem tu viện Exham như một nơi bị ám bởi lũ quái vật và ma sói.
Xâu chuỗi những câu chuyện mà Norrys đã thu thập cho tôi, cùng với sự bổ sung từ hàng tá học giả về đống đổ nát, tôi đã đi đến một kết luận rằng tu viện Exham nằm trên một ngôi đền từ thời tiền sử; một tạo vật thuộc về Druid hoặc ante-Druid, một thứ ít nhất phải bằng tuổi với vòng tròn đá Stonehenge. Đã có những nghi lễ khó tả diễn ra tại đây, có lẽ không nhiều; và có những lời đồn mang đầy sự khó chịu về việc những nghi lễ là để thờ cúng Cybele, vị thần mà người La Mã đã đề cập đến. Những dòng chữ vẫn có thể được nhìn thấy trong căn hầm gồm những ký tự không thể nhầm lẫn :”DIV . . . OPS . . . MAGNA. MAT . . .” đó là dấu hiệu của Magna Mater, một vị thần với những nghi lễ hắc ám đã hoàn toàn bị cấm đối với người dân xứ La Mã, dù cho lệnh cấm hầu như không có ý nghĩa gì. Rất nhiều bằng chứng còn sót lại nói rằng Anchester chắc hẳn đã từng là một trại lính thuộc về quân đoàn Augustan thứ ba, và người ta nói rằng ngôi đền của Cybele đã từng rất nguy nga và đông đúc với những tín đồ thực hiện vô vàn nghi thức không tên dưới sự dẫn dắt của những tu sĩ người Phrygia. Những câu chuyện còn kể thêm rằng, sự thất bại của đội quân không hề chấm dứt những buổi lễ ở ngôi đền mà chỉ khiến những tu sĩ tin rằng thời của sự thay đổi đã đến.Tương tự như thế, những nghi lễ được cho rằng không hề kết thúc với sự suy tàn của đế chế La Mã, và chắc chắn rằng những người Saxon đã bổ sung vào những gì còn lại của ngôi đền, và ban cho nó một cương vị thiết yếu, biến nó thành trung tâm tín ngưỡng của thất quốc triều đại. Khoảng 1000 năm sau Công nguyên, nơi này được nhắc đến trong những ghi chép như là một tu viện được xây dựng từ những viên đá đắt tiền chứa đựng trong mình những thầy tu quyền lực nhưng cũng rất kì lạ, nó được bao phủ bởi những khu vườn rộng lớn, với không một bức tường để che chắn khỏi ánh mắt của đám dân cư sợ sệt ngoài kia. Những người Đan Mạch đã chẳng bao giờ phá hủy nó; dù cho sau cuộc xâm lược của người Norman nó đã suy yếu đi rất nhiều; từ đó trở đi, không có bất từ khó khăn nào ngăn chặn việc Henry Đệ tam trao nó cho tổ tiên của tôi, ngài Gilbert de la Poer, nam tước đầu tiên của nhà Exam, vào năm 1261.
Trước thời điểm đó, không hề có bất cứ một ghi chép xấu xa nào về dòng tộc, nhưng chắc hẳn đã có điều gì đó kì lạ xảy đến sau này. Vào năm 1307 đã có một ghi chép mà trong đó có nhắc đến dòng dõi de la Poer như là “lời nguyền của thần linh”, trong khi đó tất cả những truyền thuyết của ngôi làng đều là những câu chuyện về quỷ dữ và những nỗi ám ảnh kinh hoàng về tòa lâu đài được xây dựng trên nền móng của một ngôi đền và tu viện cũ. Các câu chuyện bên đống lửa là những mô tả ghê rợn nhất, tất cả nỗi kinh sợ ấy bắt nguồn từ những sự lảng tránh một thứ gì đó mơ hồ và những nỗi sợ không nói thành lời. Họ mô tả tổ tiên của tôi như dòng dõi của loài quỷ, khủng khiếp đến mức nếu đặt Gilles de Retz và Marquis de Sade cạnh họ thì trông chúng chỉ như mấy tên nghiệp dư, và những lời bàn tán về sự liên quan của họ đến những vụ biến mất thường xuyên của người dân trong làng đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ. 
Những nhân vật khiếp đảm nhất, rất rõ ràng, là các đời nam tước và mọi người người thừa kế của ông ấy; ít nhất thì, những lời đồn đoán chỉ có vậy. Trong một số phiên bản tốt hơn, những câu chuyện kể rằng, một người thừa kế có thể qua đời một cách bí ẩn khi còn rất trẻ để nhường chỗ cho những người xứng đáng hơn. Dường như có một nghi lễ ngay bên trong gia tộc của tôi, được chủ trì bởi những người lãnh đạo của gia đình, và đôi khi là một vài thành viên trong dòng dõi nữa. Có vẻ thứ quyết định người cầm đầu là nhân cách chứ không phải là huyết thống, vì nghi lễ đã từng được cầm đầu bởi rất nhiều cá nhân, mà mối liên kết của họ với tổ tiên của tôi chỉ là qua những lễ cưới. Như quý bà Margaret Trevor đến từ Cornwall - phu nhân của ngài Godfrey, người con trai thứ hai của vị bá tước thứ năm - đối với lũ trẻ trong vùng, bà là một con ngáo ộp trong những câu chuyện kinh dị dành cho trẻ em, và những bản ballad khủng khiếp về bà còn được lan truyền đến tận những vùng biên giới của xứ Wales. Được lưu truyền qua những bản dân ca, theo một cách khác, là phu nhân Mary de la Poer, bà đã bị giết ngay sau lễ cưới của mình với nam tước Shrewsfield bởi ông ta và mẹ, cả hai người, sau đó đã được rửa tội và ban phước bởi những linh mục, và khi đó, họ thú thật về những điều mà họ sẽ chẳng bao giờ dám công khai với thế giới.
Những thần thoại và cả những bản ballad, chúng chất đầy mọi điều mê tín dị đoan, và phải, chúng khiến tôi chùn bước. Sự dai dẳng đeo bám của chúng qua nhiều đời trên cây phả hệ quả là một điều phiền phức; đồng thời những lời đồn đại ác ý cũng làm tôi nhớ về một người biết rõ đến các tai tiếng của tổ tiên tôi - một người họ hàng, Randolph Delapore trẻ tuổi, ông đã đến chỗ của những người da đen và trở thành một tà thuật sư trước khi trở về từ cuộc chiến của người Mexico.
Những câu chuyện chứa toàn lời than vãn của những kẻ lang thang và những tiếng gào rít qua mọi cánh đồng cằn cỗi khiến tôi ít chú ý hơn, đó là những câu chuyện về những thung lũng lộng gió ngay bên dưới vách đá vôi; là những câu chuyện về mùi hôi thối bốc lên ở nghĩa trang sau mỗi cơn mưa mùa xuân; là câu chuyện về những thứ ngả nghiêng, rú lên mỗi khi bị vó ngựa của ngài John Clave giày xéo một đêm nọ tại những cánh đồng cô độc; và là câu chuyện về một người gia nhân đã phát điên khi nhìn thấy điều diễn ra trong điện thờ ngay dưới ánh sáng mặt trời. Những câu chuyện đó chỉ là những câu chuyện ma tầm thường mà bạn có thể thấy ở bất cứ đâu, và ở thời điểm đó tôi vân là một kẻ mang trong mình nhiều sự hoài nghi. Những câu chuyện về sự mất tích của người dân ít được nhắc đến hơn, mặc dù đó không phải điều thường thấy vào thời Trung Cổ. Và việc tọc mạch quá sâu vào biệt phủ đồng nghĩa với cái chết, không chỉ một lần, đã có những chiếc đầu bị bêu lên bên ngoài pháo đài - nay chỉ còn là một đống đổ nát  - bao quanh dinh thự Exam. 
Một số ít những câu chuyện lại là một tác phẩm tuyệt vời, chúng khiến tôi ước rằng mình đã tìm hiểu nhiều hơn về những thần thoại tương tự hồi niên thiếu. Ví dụ, người ta tin rằng có một quân đoàn quỷ dữ sở hữu những đôi cánh dơi, chúng tiến hành những cuộc gặp gỡ bí mật với phù thủy tại tu viện vào mỗi đêm - quân đoàn đó, nguồn lương thực của chúng có lẽ là lời giải thích hợp lí nhất cho bạt ngàn rau củ được thu hoạch trên những cánh đồng bao la. Và sống động hơn cả, là một câu chuyện đã trở thành sử thi về lũ chuột - một đội quân điên cuồng kiếm tìm sâu bọ đã túa ra từ tòa lâu đài ba tháng sau sự kiện kinh hoàng khiến nó bị bỏ rơi - đó là một đội quân gầy gò, bẩn thỉu đang đói cồn cào, chúng quét sạch mọi thứ trong tầm mắt, ngấu nghiến mọi thứ từ chó, mèo, gà ,heo, cừu cho đến hai người đàn ông xấu số trong cơn cuồng nộ của mình. Xung quanh đội quân gặm nhấm ấy đã có cả một vũ trụ những truyền thuyết được sinh ra, kể rằng chúng tản ra khắp các căn nhà trong thị trấn và mang theo nỗi kinh hoàng cũng như sự nguyền rủa lên từng chuyến tàu.
 Những câu chuyện ấy làm tôi lơ đãng trong công cuộc hoàn thiện của mình - dù cho tôi có là một kẻ bảo thủ già nua - hay chính là việc phục hồi căn nhà của tổ tiên. Chắc chắn trong một khoảnh khắc nào đó, không phải do trí tưởng tượng, mà những câu chuyện ấy đã định hình nên một phần nhân cách của tôi. Mặt khác, người bạn của con trai tôi liên tục dành tặng tôi những lời khen cùng với những lời động viên, Capt. Norrys cùng với đội khảo cổ đã luôn vây quanh và hỗ trợ tôi về mọi mặt. Hai năm sau khi khởi công, nhiệm vụ cuối cùng đã được hoàn tất, tôi đã nhìn thấy những căn phòng nguy nga, những bức tường bịt gỗ, những mái vòm, những cửa sổ chấn song và những bậc thang to lớn, tất cả đều xứng đáng với khoản chi phí phi thường của việc phục hồi. Từng đặc điểm của thời kỳ Trung Đại đều được tái hiện đầy tinh xảo, tất cả những phần được hồi phục đều hòa hợp với nền móng và những bức tường cũ một cách hoàn hảo. Cơ ngơi của cha ông đã được hoàn thiện, giờ điều tôi mong đợi chỉ là khôi phục lại dù chỉ một chút danh dự năm xưa của dòng tộc, với tôi là hậu duệ cuối cùng. Tôi dự định sẽ chuyển hẳn về đây sinh sống để chứng minh cho mọi người thấy người nhà de la Poer (phải, tôi đã tìm lại được cách phát âm chuẩn xác cho cái tên) không nhất thiết đều là quỷ dữ. Tôi đã tìm thấy sự an ủi, có lẽ bằng một sự thật rằng, mặc dù tu viện Exam mang vẻ bên ngoài của thời Trung Cổ, nó thực sự đã được giải thoát khỏi những ám ảnh và cả những bóng ma trong quá khứ.
Như đã nói, tôi chuyển đến sống vào ngày 16 tháng 6 năm 1923. Tất cả những gì tôi đem theo bao gồm bảy gia nhân và chín con mèo mà tôi đặc biệt ưa thích. Con mèo già nhất của tôi, “Nigger-man”  đã bảy tuổi rồi và chú ta đã đi cùng với tôi từ căn nhà ở Bolton, Massachusetts; những con khác được tôi nhận nuôi khi sống cùng gia đình nhà Norrys trong suốt công cuộc phục hồi lại tu viện. Trong suốt năm ngày sau đó, cuộc sống của chúng tôi trôi qua hết sức nhẹ nhàng, phần lớn thời gian của tôi là dành cho việc sắp xếp những dữ liệu của tổ tiên. Giờ đây tôi đã thu thập mọi điều về thảm kịch cuối cùng cũng như chuyến bay của Walter de la Poer, thứ mà tôi tin rằng đã được ghi trong bức thư thừa kế bị đốt cháy ở Carfax. Hóa ra tổ phụ đã bị buộc tội với lý do giết toàn bộ thành viên trong gia đình trong khi mọi người đang ngủ say, ngoại trừ bốn người hầu đồng thời cũng là tòng phạm, hai tuần sau tai ương đã thay đổi toàn bộ cuộc sống của mình, trừ khi, đó không phải một tai ương, ông ấy lặng lẽ chạy trốn mà không hé răng nửa lời, có lẽ là cả với những gia người hầu của mình. 
Cuộc thảm sát, nạn nhân gồm có một người cha, ba người anh em và hai người chị em, sau đó phần lớn được điều tra bởi dân làng, về phần chính quyền, họ chỉ xử lý vụ việc cho có lệ trong khi thủ phạm đã chạy trốn tới Virginia với danh dự và cơ thể không có lấy một vết xước; người ta thì thầm với nhau rằng ông ấy đã thanh tẩy vùng đất này khỏi một lời nguyền cổ xưa. Những cuộc điều tra đã nói lên điều gì đó rất kinh khủng mà tôi sẽ chẳng bao giờ đoán được. Ngài Walter de la Poer chắc hẳn đã biết về những câu chuyện quỷ quyệt xung quanh gia đình của ông ấy hàng năm trời, biết đâu chính chúng đã thay đổi ông ấy thành một kẻ ác, để rồi sau đó ngài ấy trở thành nhân chứng cho một lễ nghi cổ đại, hay tình cờ nhìn thấy bản chất kinh hoàng trong tu viện hoặc dinh thự xung quanh ? Ngài ấy từng được biết đến như là một thanh niên nam tước lịch lãm hồi còn ở Anh Quốc. Ở Virginia ngài ấy cũng không có vẻ gì là e sợ hay cắn rứt. Ngài ấy còn được nhắc đến trong một cuốn nhật ký du hành của một mạo hiểm gia, Francis Harley xứ Bellview, như là một con người của chính nghĩa, danh dự và tinh tế.
Ngày 22 tháng 6 đã có một sự cố, mặc dù chỉ tốn chút ít thời gian để xử lý, nó lại trở thành điềm báo cho những sự kiện sau này. Đó chỉ là một sự cố đơn giản đến mức không đáng kể, và có thể được bỏ qua trong hầu hết các trường hợp; nhưng tôi vẫn nhớ đến nó, khi tôi đang đứng giữa căn dinh thự mới tinh, trừ vài bức tường cổ còn sót lại, vây xung quanh là những người gia nhân,hoàn toàn thư giãn dù cho ngoài kia có là những người dân làng mang thái độ thù địch. Những kí ức mà tôi có sau đó là con mèo đen của tôi, con mèo mà tôi hiểu nó rõ hơn ai hết, bắt đầu trở nên cảnh giác và lo lắng ở một mức độ khác xa so với bản tính tự nhiên của nó. Nó bắt đầu phi từ phòng này sang phòng khác không ngừng, giống như bị quấy nhiễu bởi cái gì đó, và liên tục ngửi ngửi những bức tường, thứ duy nhất còn sót lại từ công trình Gothic năm xưa. Âm thanh nó tạo ra thật quen thuộc - giống như những con chó trong các câu truyện ma, luôn luôn gầm gừ khi chủ nhân của nó nhìn thấy một bóng hình - nhưng tôi không thể ngăn nó lại.
Ngày tiếp theo, một người hầu phàn nàn về sự bồn chồn của loài mèo trong căn dinh thự. Anh ta đến gặp tôi trong thư phòng, một căn phòng cao lớn nằm ở hướng Tây thuộc tòa tháp thứ hai, với một mái vòm có rãnh, những tấm ván bằng gỗ sồi đen, và ba cửa sổ theo phong cách Gothic nằm sát nhau mà từ đó có thể nhìn ra vách đá vôi dựng đứng cũng như cả thung lũng hoang tàn; khi người gia nhân còn đang nói thì tôi đã nhìn thấy hình dáng đen nhánh của Nigger-Man đang phi qua những bức tường phía Tây và cào vào những tấm ván mới tinh đang che lấy phiến đá cổ. Tôi bảo với người giúp việc rằng chắc hẳn có mùi gì đó còn sót lại và đang tỏa ra từ bệ đá, một mùi không thể nhận ra bởi khứu giác con người, nhưng lại ảnh hưởng đến giác quan nhạy bén của loài mèo dù cho nó được ngăn cách bởi một tấm gỗ. Khi người gia nhân đề cập đến việc đó có thể là do sự hiện diện của lũ chuột, tôi tin chắc rằng chẳng có con chuột nào còn ở đó sau 300 năm, và cả những con chuột đồng ở khắp vùng thôn quê này, cũng khó có thể được tìm thấy sau những thành cao, nơi mà chẳng ai nghĩ chúng có thể đi lạc vào. Buổi chiều hôm ấy tôi cầu cứu Capt. Norrys, và cậu ấy trấn an rằng sẽ thật là khó tin nếu loài chuột đồng có thể phá hoại tu viện theo một cách bất ngờ và chưa từng có như thế được.
Tối đó, khi đang yêu cầu đồ uống với người bồi phòng như thường lệ, tôi quay về căn buồng ở tòa tháp phía Tây, nơi này nằm cách thư phòng một chiếc cầu thang bằng đá và cả một phòng tranh - với một phần được xây dựng từ xưa, và toàn bộ phần còn lại đều đã được phục hồi. Đó là một căn phòng hình tròn, rất cao với không một tấm ván gỗ, bao phủ bởi những tấm tranh treo tường do đích thân tôi lựa chọn từ London. Nhận thấy rằng Nigger-Man đang ở cạnh mình, tôi đóng sập cánh cửa Gothic nặng trịch và nghỉ ngơi trong ánh sáng từ bóng điện, chúng quả thật là một phiên bản thông minh hơn của những ngọn nến, cuối cùng khi đã tắt đèn và chìm mình vào trong chiếc giường với mái che, với con mèo cưng đang nằm ở chỗ thường lệ, ngay dưới chân tôi. Tôi đã không kéo rèm cửa, mà nhìn qua khung cửa hẹp phía Bắc, suy nghĩ về những ánh cực quang trên bầu trời và những dấu vết xinh đẹp chiếu qua cửa sổ.
Có lẽ tôi đã chìm vào giấc ngủ trong một khoảnh khắc nào đó, vì có cảm giác rằng đâu đó quanh đây một giấc mơ kỳ lạ, khi đó con mèo từ chỗ dịu dàng lại dần trở nên hung bạo. Tôi thấy tỏa ra từ nó thứ ánh sáng rạng đông, đầu của nó hướng thẳng, trong khi hai chân trước thì dẫm lên mắt cá chân tôi, còn hai chân sau đang duỗi. Nó nhìn chằm chằm vào một điểm nằm trên bức tường đâu đó phía Tây so với ô cửa sổ. Khi tôi nhìn nó, tôi biết Nigger-Man thực sự thấy thứ gì đó ở đấy. Tôi không chắc rằng tấm tranh treo tường có đang thực sự di chuyển hay không, nhưng tôi nghĩ là có, nhẹ thôi, và tôi thề rằng dù cho thứ gì đang nằm phía sau, tôi đã nghe thấy một tiếng động nhỏ, không thể nhầm lẫn được, đó là tiếng chạy toán loạn của lũ chuột. Ngay lúc đó con mèo của tôi nhảy thẳng lên tấm thảm, kéo nó xuống đất bằng sức nặng của mình, để lộ ra bức tường đá ẩm ướt, có từ bao đời; được chắp vá ở chỗ này, chỗ kia bởi những người thợ và không có chút dấu vết gì của lũ gặm nhấm đang loanh quanh. Nigger-Man quần thảo sàn nhà ngay dưới chỗ bức tường, cào lên tấm thảm dưới đất và dường như đang cố gắng hết lần này đến lần khác để nhét móng vuốt của mình vào giữa khe hở giữa sàn nhà ốp gỗ và bức tường. Nó không tìm thấy gì cả, và một lúc sau mệt mỏi quay về chỗ nằm dưới chân tôi. Tôi vẫn nằm im, nhưng đêm đó tôi không thể chợp mắt được nữa.
Sáng hôm sau tôi đã hỏi tất cả người hầu, không ai trong số họ thấy điều gì bất thường, ngoại trừ người đầu bếp nhớ tới hành động của một con mèo lúc nó đang nằm trên bệ cửa sổ. Con mèo này luôn phát ra những tiếng grr, grr vào một khung giờ nào đó vào buổi tối, đánh thức người đầu bếp để thấy nó phi mình qua cửa chính xuống dưới cầu thang. Tôi rời đi lúc ban trưa, và cầu viện Capt. Norrys lần nữa vào buổi chiều, cậu ta trở nên đặc biệt hứng thú với những gì tôi kể. Những sự cố hiếm hoi - không đáng kể nhưng đáng để tò mò - gợi nhắc về những điển tích, và gợi ra hồi tưởng về những câu truyện ma địa phương trong cậu ta. Chúng tôi hoàn toàn bị bối rối bởi sự xuất hiện của lũ chuột và Norrys cho tôi mượn một ít bẫy và chất độc Paris màu xanh mà tôi đã cho gia nhân đặt chúng ở các vị trí quan trọng khi tôi trở về.
Tôi đi nghỉ rất sớm, cực kỳ buồn ngủ, nhưng rồi lại bị quấy rầy bởi một giấc mơ về một viễn cảnh tồi tệ nhất. Tôi dường như đang nhìn xuống từ một nơi cao vô hạn, bên trên một hang động lờ mờ sáng, rác rưởi ngập đến đầu gối, nơi đó một tên chăn lợn có bộ râu trắng đang lãnh đạo một đàn gia súc mềm nhũn, trên người đầy nấm, tạo hình của chúng ngay lập tức lấp đầy tôi với sự kinh tởm không thể diễn tả thành lời. Rồi sau đó, khi tên chăn lợn dừng lại để tận hưởng thành quả của mình, một bầy chuột khổng lồ rơi từ bờ vực nhớp nháp xuống và nuốt chửng lũ quái thú cũng như tên kia.
Bừng tỉnh từ viễn cảnh kinh hoàng bởi sự di chuyển của Nigger-Man, chú ta đang nằm ngủ dưới chân tôi như thường lệ. Lần này tôi không còn phải đặt nghi vấn về nguồn cơn của những tiếng grr grr, và nỗi kinh hoàng đã khiến con mèo bám chặt móng vuốt vào mắt cá chân tôi mà không ý thức gì về hậu quả của chúng; từng cm trên mỗi bức tường trong căn phòng như đang sống và phát ra những âm thanh khó chịu - những âm thanh từ lũ chuột khổng lồ, đói khát, liên tục bò qua lại. - Ánh trăng đêm nay không thể soi rọi được tấm thảm treo tường nữa - tấm hôm trước đã được thay thế bằng một tấm khác - nhưng tôi đủ can đảm để với tay lấy công tắc điện. 
Khi bóng đèn vụt sáng tôi nhìn thấy những rung động trên khắp các tấm thảm, chúng khiến những thiết kế như đang nhảy một điệu nhảy tử thần. Gần như cùng một lúc, những rung động ấy biến mất cùng với mọi âm thanh. Bật dậy khỏi giường, tôi khẽ chọc vào tấm thảm với chiếc cán chảo đang nằm gần đó, rồi vén nó lên để thấy gì đang nằm phía sau. Chẳng có gì ở đó ngoài bức tường bằng đá đã được chắp vá, ngay cả con mèo cũng không còn nhận thấy sự hiện diện bất thường nào nữa. Khi đi kiểm tra những chiếc bẫy đã được đặt trong phòng, tôi nhận ra chúng đều đã sập, dù vậy chẳng có chút dấu vết nào của thứ đã trốn thoát khỏi đó.
Quay trở lại giấc ngủ chắc chắn là điều bất khả thi, vậy nên, tôi thắp lên một ngọn nến, mở cửa và bước qua phòng tranh, tiến tới cây cầu thang đang dẫn đến thư phòng, cùng Nigger-Man theo sau gót chân. Ngày trước khi chúng tôi bước đến những bậc đá đầu tiên, con mèo liền vụt lên trước tôi, sau đó biến mất sau cây cầu thang cổ kính. Tôi quyết định xuống những bậc thang, một mình, đột nhiên tôi để ý đến tiếng động phát ra từ căn phòng lớn bên dưới, một tiếng động không thể nhầm lẫn với bất cứ thứ gì khác.Đó là tiếng của những tấm ván sồi khi lũ chuột, lục lọi và đục khoét, trong khi Nigger-Man đang truy đuổi với cơn cuồng nộ của một thợ săn đích thực. Sau khi xuống lầu, tôi bật công tắc điện lên, lần này nó không còn phát ra những tiếng động rè rè nữa. Lũ chuột tiếp tục cuộc náo loạn của chúng, dậm chân như một đội quân đang tiến về cùng một chỗ. Những sinh vật đó nhiều không kể xiết, chúng đang tập hợp thành một cuộc di cư khổng lồ, chúng rơi xuống từ một chỗ cao không thể tượng tượng nổi và đang chui tới một chỗ nào đó tít dưới lòng đất.
Tôi nghe thấy tiếng bước chân ngoài hành lang, và trong một khoảnh khắc sau đó hai người giúp việc mở toang chiếc cửa nặng trịch ra. Họ đang tìm kiếm nguồn cơn của những thứ đang phá rối khắp căn nhà, thứ khiến cho lũ mèo phát ra những tiếng grr hoảng loạn, đẩy chúng xuống hàng dài bậc thang và bắt chúng tụ tập trước cánh cửa đóng kín của căn hầm mà kêu gào.Tôi hỏi họ rằng liệu họ có nghe thấy tiếng chuột, nhưng có vẻ câu trả lời là không. Và khi tôi hướng sự chú ý của họ đến những âm thanh bên dưới tấm ván, tôi nhận ra rằng âm thanh ấy đã chấm dứt. Với hai người đàn ông, tôi bước xuống cánh cửa hầm chỉ để nhận ra lũ mèo đã tản mác đi mất. Lát nữa tôi sẽ khám phá khu hầm bộ bên dưới, còn giờ tôi phải xem những cái bẫy đã. Tất cả đều đã sập, dĩ nhiên chúng đều trống không. An ủi bản thân rằng không có ai nghe thấy lũ chuột ngoại trừ tôi và đám mèo, tôi ngồi trong thư phòng cho đến rạng sáng, suy nghĩ kĩ càng và chắp lại từng mảnh kí ức về những truyền thuyết tôi đã khai quật được từ căn dinh thự nơi tôi cư trú.
Tôi đã thiếp đi một chút vào ban sáng, tựa lưng vào một trong những chiếc ghế thoải mái, đó là một chiếc kế nằm trong những món đồ nội thất thời Trung Cổ mà tôi đã chọn. Sau đó tôi gọi cho Capt. Norrys, để anh ấy có thể đến và cùng tôi thám hiểm tầng hầm. Chúng tôi không tìm thấy bất cứ điều gì bất thường, thay vào đó chúng tôi lại thấy những bằng chứng rằng tầng hầm được xây dựng bởi bàn tay của người La Mã. Từ những họa tiết nhỏ nhất, cho tới những cây cột vĩ đại đều thuộc về La Mã - không phải thứ Romanesque ăn theo của Saxons, đó là thứ dữ dội nhưng lại cổ điển một cách hài hòa của thời kỳ Caesars; thật vậy, bức tường được khắc một dòng chữ tương tự như thứ mà các nhà khảo cổ đã nhiều lần tìm thấy ở nơi này “P.GETAE. PROP . . . TEMP . . . DONA . . . “ và “L. PRACE . . . VS . . . PONTIFI . . . ATYS . . .” 
Sự liên hệ tới Atys khiến tôi rùng mình bởi bản thân đã đọc về Catullus và biết được vài điều về những nghi lễ bí mật thờ phụng các vị thần phía Đông, những vị thần được thờ cúng cùng với Cybele. Norrys và tôi, dưới ánh sáng của chiếc đèn xách tay, cố gắng dịch những dòng chữ kỳ lạ, được khắc tràn cả ra ngoài trên khối đá chữ nhật, có lẽ đã được giữ lại làm bệ thờ nhưng rồi vẫn bị bỏ đi. Chúng tôi nhớ rằng đã có một tấm khác, nằm trên mặt đất và dưới ánh mặt trời, đã được một học giả giữ lại để giải nghĩa những biểu tượng La Mã, có thể điện thờ đã hoàn toàn được chủ trì bởi những thầy tư tế người La Mã từ những thời kì xa xưa hơn, hoặc thậm chí là từ khởi nguyên của ngôi đền. Trên một trong những phiến đá có một vết bẩn màu nâu khiến tôi tự hỏi nguồn gốc của nó. Khu vực to nhất, ngay chính tại trung tâm căn phòng, có một thứ gì đó nhô lên, trông như nó có một sự liên kết đặc biệt với lửa - có lẽ là một nghi thức hiến tế bằng lửa.
Đây chính là quang cảnh của căn hầm mà trước đó, những con mèo liên tục grr ngoài cửa, và cũng là nơi mà Norrys và tôi quyết dành cả đêm nay. Những người gia nhân mang xuống cho chúng tôi một chiếc ghế dài, họ bảo chúng tôi không cần lo lắng về những hành động của lũ mèo vào ban đêm, còn Nigger-Man đã giúp đỡ chúng tôi như một người đồng đội. Chúng tôi định sẽ giữ cánh cửa sồi cỡ lớn - đó là một bản sao hiện đại hơn, với một khe hở để thông gió - đóng thật chặt; và sau tất cả sự chuẩn bị ấy, chúng tôi khẽ nghỉ ngơi với ngọn đèn vẫn còn cháy sáng, sẵn sàng cho tất cả mọi thứ có thể xảy đến. 
Căn hầm nằm rất sâu phía bên trong nền móng của tu viện, và chắc chắn là nằm sâu dưới bề mặt vách đá vôi cheo leo bên trên thung lũng cằn cỗi. Không nghi ngờ gì nữa, đó chắc hẳn là một phần thành tựu của lũ chuột, dù vậy, tôi không chắc rằng tại sao chúng lại làm thế. Khi chúng tôi vẫn đang nằm đó, đợi chờ, có cảm giác rằng sự cảnh giác của tôi đang hòa lẫn với những giấc mơ nửa tỉnh, một giấc ngủ nông mà ngay cả mọi chuyển động dù là khẽ nhất của con mèo cũng có thể đánh thức tôi dậy. Những giấc mơ đó không đẹp, trái lại chúng cũng khủng khiếp như giấc mơ hôm trước. Một lần nữa tôi lại thấy hang động sâu hun hút, và tên chăn lợn với những con thú bị nấm mốc đến không thể tả được ngập ngụa trong rác rưởi, và lần này khi tôi nhìn chúng, trông chúng có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn - rõ ràng đến mức tôi thậm chí có thể quan sát từng chi tiết về chúng. Rồi tôi nhìn thấy một thứ gì đó mềm nhũn trên người một trong số chúng và giật mình tỉnh dậy cùng với tiếng hét, đồng thời làm giật mình Nigger-Man, trong khi Capt. Norrys, người vẫn còn đang thức, cậu ta cười không ngừng. Cậu ta hẳn đã cười nhiều hơn - hoặc ít hơn - so với cậu ta lúc thường ngày. Tôi đã không nhớ bất cứ điều gì về bản thân cho tới một lúc sau, những nỗi kinh hoàng khủng khiếp nhất lại thường làm tê liệt kí ức của người ta theo những cách vô cùng nhân từ.
            Norrys lay tôi dậy khi những hiện tượng lạ bắt đầu. Tôi đã thoát khỏi giấc mơ khủng khiếp ấy bởi cái lắc người nhẹ nhàng và sự thôi thúc phải lắng nghe tiếng lũ mèo của cậu ấy. Quả thật, có vô số tiếng động đang phát ra, phía bên kia của cánh cửa đóng kín, bên trên những bậc thang đá là một cơn ác mộng được tạo thành từ những tiếng mèo kêu pha lẫn với tiếng móng vuốt của chúng, về phần Nigger-Man, không để tâm tới đồng loại của nó bên ngoài, đang chạy xung quanh những bức tường đá đầy kích động, trong những bức tường ấy, tôi nghe thấy thứ tiếng ồn của lũ chuột nhốn nháo, cùng một loại tiếng ồn với những thứ đã làm phiền tôi đêm qua. 
Một nỗi kinh hoàng đang dần lớn lên trong tôi, vì lúc này mọi điều dù cho là bất thường nhất cũng sắp được giải đáp. Lũ chuột đó, nếu như chúng thực sự là chuột mà không phải những tạo vật báng bổ của sự điên loạn mà tôi và đàn mèo đã cùng phải trải qua, chúng hẳn đang đào xới, lục lọi qua từng bức tường La Mã mà tôi đã từng nghĩ rằng đó là những khối đá vôi đặc ruột… trừ khi dòng nước chảy trong suốt mười bảy thế kỷ đã phong hóa toàn bộ căn hầm, biến nó thành nơi ẩn náu cho lũ gặm nhấm… Nhưng cho dù điều đó có là sự thật, thì nỗi kinh hoàng trong tôi vẫn không hề giảm sút; bởi nếu ở đây tồn tại những loài sâu bọ, tại sao Norrys không hề hay biết gì về sự sinh trưởng kinh tởm của chúng? Tại sao cậu ta lại thúc giục tôi phải trông chừng Nigger-Man và lắng nghe những con mèo ngoài đó; và tại sao anh ta lại bóng gió về những thứ có thể sẽ khiêu khích lũ mèo? 
Khi mà tôi định nói với cậu ta về những suy nghĩ của mình, cố gắng để khiến chúng có lý hết mức, thì nghĩ rằng mình đã nghe thấy gì đó, đôi tai cho tôi thấy một ấn tượng thoáng qua của sự náo loạn; một thứ gì đó ở sâu phía dưới, sâu hơn cả hầm ngục sâu nhất, dường như bên trong vách đá lấp đầy những chuột. Norrys trông không giống như những gì mà tôi đã nghi ngờ trước đó mà trái ngược hoàn toàn. Cậu ta ra hiệu cho tôi để ý đàn mèo ngoài cửa, chúng đã ngưng việc cào cấu, như thể nhường lại phần thắng cho lũ chuột; trong khi đó Nigger-Man dường như lại rơi vào trạng thái bồn chồn, cào cấu một cách điên cuồng vào phần đế của bệ thờ bằng đá nằm tại trung tâm căn phòng, Norrys đang ngồi gần chỗ đó hơn tôi. 
Giờ đây, nỗi sợ về một thứ không biết đã hóa thành khổng lồ, có điều gì đó vô cùng đáng kinh ngạc đang xảy ra. Tôi quay sang nhìn nhìn Capt. Norrys, một chàng trai trẻ mập mạp, có thể là hơn hẳn những người đàn ông khác, cũng có cùng cảm giác với tôi - tôi đoán là do sự trải đời và sự quen thuộc với những truyền thuyết địa phương. Trong một khoảnh khắc, chúng tôi không làm gì cả ngoài việc nhìn con mèo đen đã già khi nó đang cào cấu vào bệ thờ, thỉnh thoảng ngước lên và kêu với giọng điệu mà nó vẫn hay dùng khi cầu xin một điều gì đó từ tôi.
Norrys với lấy cây đèn, dí sát nó vào bệ thờ và xem xét kỹ nơi mà Nigger-Man đang cấu xé; cậu ta khẽ khàng quỳ xuống, phủi đi những lớp địa y bao phủ khắp nơi, từ sàn nhà cho đến những bậc đá tiền La Mã trong hàng thế kỷ. Cậu ấy không tìm thấy gì cả, và khi đã định từ bỏ thì tôi nhận thấy một chi tiết nhỏ, thứ đó khiến tôi rùng mình, dù cho tất cả những gì nó gợi lên trong tôi chẳng thể kinh hoàng hơn những tưởng tượng trước đó. Tôi chỉ cho cậu ta thứ đó, rồi cả hai chúng tôi cùng chăm chú vào nó với sự mê hoặc của một khám phá vĩ đại. Đây chính là nó - nơi mà ngọn lửa từ chiếc đèn đặt cạnh bệ thờ le lói nhưng không thể bị dập tắt khẽ lướt qua mỗi khi có một luồng khí thổi ra từ đó, và luồng gió ấy chắc chắn đến từ kẽ hở giữa sàn nhà và bệ thờ, chỗ mà Norrys đã phủi đi lớp địa y.
 Chúng tôi đã dành phần còn lại của đêm hôm đó trong thư phòng, lo lắng thảo luận về việc mình nên làm gì tiếp theo. Việc tìm thấy một căn hầm sâu hơn cả những kiến trúc La Mã sâu nhất nằm dưới công trình đáng nguyền rủa này - những nhà khảo cổ tò mò đã không tìm thấy nó trong suốt ba thế kỷ - dù cho nó không có những câu chuyện quỷ quyệt đằng sau, nó cũng đủ làm chúng tôi phấn khích. Và như vậy, sự dụ hoặc của căn hầm dẫn chúng tôi theo hai hướng; và chúng tôi dừng lại, suy nghĩ rằng liệu mình có nên bỏ dở cuộc tìm kiếm và rời khỏi tu viện mãi mãi bởi một sự cảnh giác đầy tính mê tín, hoặc nương theo lòng dũng cảm cùng máu phiêu lưu mặc kệ bất cứ điều kinh hoàng nào có thể chờ đợi bọn tôi dưới đó. Chúng tôi đã thống nhất, vào buổi sáng hôm sau, rằng cả hai sẽ cùng đến London để tập hợp một nhóm những nhà khảo cổ cùng với khoa học gia nhằm khám phá bí ẩn này. Chúng tôi cũng nên đề cập rằng trước khi rời khỏi căn hầm, chúng tôi đã cố gắng để di chuyển điện thờ trung tâm, nơi mà giờ đây chúng tôi nhận ra là cánh cửa dẫn đến hầm mộ của những nỗi sợ không tên, một cách vô ích. Bí mật để mở cánh cửa ấy, dù cho nó là gì, việc tìm ra chúng xin được nhường lại cho những kẻ thông thái hơn.
Trong chuỗi ngày ở London, Capt. Norrys và tôi trình bày về những sự thật, phỏng đoán và cả những giai thoại cho năm nhà cầm quyền, những người mà chắc chắn sẽ tôn trọng bất cứ gia đình nào sẽ trở nên lớn mạnh. Hầu hết bọn họ đều không có vẻ gì là giễu cợt mà trái lại họ thực sự hứng thú và hoàn toàn thông cảm với chúng tôi. Rất khó để có thể nêu tên tất cả bọn họ, nhưng tôi khá chắc ngài William Brinton nằm trong đó, những khám phá của ông ấy tại Troad đã khiến phần lớn thế giới thời phải kinh ngạc. Trên chuyến tàu trở về Anchester, có cảm giác như tôi đang đứng trên bờ vực của một phát hiện kinh hoàng, cảm giác giống như không khí tại một buổi tang lễ trước cái chết đột ngột bởi một vị tổng thống đối được tổ chức bởi những người Mỹ ở tận bên kia thế giới.
Tối ngày mồng 7 tháng 8 chúng tôi trở về với tu viện Exham, những người giúp việc trấn an chúng tôi rằng không có gì bất thường xảy ra trong lúc chúng tôi vắng mặt. Những con mèo, kể cả Nigger-Man, hoàn toàn dịu dàng, và không có một cái bẫy nào trong nhà bị sập cả. Chúng tôi sẽ thám hiểm căn điện thờ vào ngày hôm sau, vậy nên trong lúc chờ đợi, tôi đã sắp xếp những căn phòng tốt nhất cho các vị khách của mình. Về phần mình, tôi lui về nghỉ ngơi nơi căn phòng trên ngọn tháp quen thuộc, cùng Nigger-Man với vị trí cũ, nằm dưới chân tôi. Giấc ngủ ập đến nhanh chóng, nhưng theo sau nó là những cơn ác mộng gớm ghiếc. Trong giấc mơ đó là những viễn cảnh về bữa tiệc La Mã, giống như bữa tiệc Trimalchio với sự kinh hoàng phủ đầy từng chiếc đĩa. Rồi tên chăn lợn đáng nguyền rủa ấy lại đến, dẫn theo đàn súc vật tởm lợm của hắn từ hang đá hun hút. Khi tôi bừng tỉnh thì trời đã sáng hẳn, còn những âm thanh từ căn dinh thự không có gì là bất thường . Lũ chuột ấy, dù có thật hay chỉ là những bóng ma, không hề làm phiền tôi; về phía Nigger-Man, nó vẫn đang thiu thiu ngủ. Trên đường đi xuống, tôi nhận ra rằng sự yên bình ấy đã thắng thế, chiếm hữu mọi ngóc ngách của căn nhà; thứ không khí ấy khiến cho một trong những học giả - một trong những người bằng hữu tên là Thornton, cậu ta là một nhà ngoại cảm tận tụy - thà tin rằng tôi đã đập nát thứ đã đe dọa mình mỗi đêm còn hơn. 
Giờ khi mọi thứ đã sẵn sàng, đúng mười một giờ sáng, nhóm chúng tôi gồm bảy người đàn ông, mang theo những chiếc đèn pha sáng rực cùng với dụng cụ tìm kiếm, tiến xuống dưới căn hầm, cùng cánh cửa phía sau lưng được đóng chặt. Nigger-Man đi cùng chúng tôi, vì rõ ràng chẳng có lý do nào để ngăn cản sự phấn khích của nó cả, nó đang lo lắng rằng mình xuất hiện chỉ là để đề phòng nếu lũ gặm nhấm có xuất hiện. Chúng tôi ghi chép lại những dòng chữ La Mã và thiết kế của điện thờ một cách vắn tắt bởi ba trong số những học giả đã từng nhìn thấy chúng trước đó, và mọi người đều hiểu ý nghĩa của chúng. Mọi sự chú ý được đổ dồn về phía trung tâm điện thờ, không đến một giờ sau ngài William Brinton lật tung nó lên, rồi giữ nó cân bằng với một quả nặng.
Nằm dưới đó là một nỗi kinh hoàng mà có lẽ đã nhấn chìm chúng tôi nếu mọi người không được chuẩn bị trước. Thông qua cái lỗ mà chúng tôi đã mở bên dưới sàn nhà, ngổn ngang trên những bậc đá nứt toác còn hơn cả tấm đá bật nghiêng trên kia, là từng đống xương người hoặc xương của một thứ gì đó gần giống con người. Những đống xương ấy, trông như thể chủ nhân của chúng đã từng rất kinh hoàng, và trên tất cả chúng, bao phủ khắp nơi là dấu vết của lũ gặm nhấm. Những chiếc sọ người không có dấu hiệu gì của bệnh thiểu năng, suy tuyến giáp, hay thuộc về loài người vượn nguyên thủy. Bên trên những bậc thang quái quỷ ngập ngụa xương người ấy, uốn cong lên là một lối đi trông như thể được đục đẽo từ một khối đá, từ đó, luồng không khí được phả qua. Luồng khí ấy không giống như một luồng khí độc hại từ một căn hầm kín mít, mà còn mang chút tươi mát trong mình. Chúng tôi không dừng lại lâu, mà bắt đầu run rẩy mở đường xuống dưới những bậc thang ấy. Cho tới khi ngài William, đang xem xét kỹ những bức tường được chạm khắc, đưa ra một kết luận kỳ lạ rằng lối đi ấy, dựa theo phương hướng của nó, hẳn phải được đẽo từ bên trên mặt đất.
Giờ đây tôi phải rất cẩn trọng, kỹ lưỡng lựa chọn từng từ ngữ.
Sau khi bước xuống dưới những đống xương vài bậc, ở đó, chúng tôi nhìn thấy ánh sáng phía trước; chúng không giống những đốm lân tinh bí ẩn, trông chúng giống như những tia sáng từ mặt trời, hẳn là chúng đến từ những khe nứt trên vách núi. Những khe nứt ấy có lẽ gần như không thể bị phát hiện từ phía bên ngoài. Hẳn rằng chính thung lũng hoang vu bên dưới, kết hợp cùng với độ cao mà chỉ có các phi công mới có thể chạm tới của vách đá, nơi khe nứt ẩn mình, đã giúp chúng trốn khỏi mọi sự chú ý. Thêm một vài bước chân nữa, và cảnh tượng chúng tôi thấy dường như đã rút kiệt sinh khí ra khỏi cơ thể của tất cả mọi người; Thornton, nhà ngoại cảm, thực sự ngất đi trong vòng tay của người đàn ông đứng sau lưng anh ta, lúc này cũng đang choáng váng. Norrys, khuôn mặt của cậu ta trắng bệch và mềm nhũn, trông cậu ta như thể đang thét lên với những từ ngữ thì kẹt ở cổ họng; trong khi đó, tôi nghĩ rằng mình đã che mắt lại, hổn hển những hơi thở của một kẻ kiệt sức. Người đàn ông phía sau tôi - người duy nhất trong đội lớn tuổi hơn tôi - vặn vẹo từng câu chữ rồi thét lên “Lạy chúa tôi!” bằng một chất giọng méo mó nhất mà tôi được nghe thấy trong cuộc đời mình. Trong bảy người đàn ông, chỉ có ngài William Brinton là giữ được sự bình tĩnh của mình; dù phải nói thêm rằng đó là người đã lãnh đạo cả nhóm và chắc chắn là người đầu tiên nhìn thấy cảnh tượng này.
Ở đó, một hang động lờ mờ sáng cao đến không thể tả được, kéo dài tới mức không một ánh mắt nào có thể đi hết; một thế giới dưới lòng đất với vô số điều kỳ bí và nỗi kinh hoàng. Có vô số công trình và những kiến trúc khác còn ở đó - và chỉ với một cái liếc nhìn đầy ám ảnh tôi đã nhìn thấy một phần mộ kỳ lạ, một tập hợp những khối đá xếp thành vòng tròn với sự quỷ quyệt toát lên từ chúng. Tôi thấy những mái vòm La Mã đổ nát, những đống cọc của người Saxon, và những dinh thự bằng gỗ đầu tiên do người Anh xây dựng - nhưng tất cả những thứ ấy đều chìm dưới một thứ đầy kinh tởm trên mặt đất. Cách xa chỗ chúng tôi vài thước là những đống xương người khổng lồ, hoặc ít ra là gần giống người như thứ ở trên bậc thang. Chúng trải dài, mênh mông như đại dương, vài chỗ rã xuống, nhưng phần lớn vẫn còn giữ nguyên hình hài của một bộ xương; một số chúng như đang ngập tràn sự điên cuồng; một số khác thì đầy đe dọa và chắc hẳn đang vồ lấy kẻ khác với cơn đói ngấu nghiến.
Khi tiến sĩ Trask, một nhà nhân chủng học, dừng lại để phân loại những chiếc đầu lâu, ông ấy tìm thấy một sự pha trộn của nhiều loại người, điều đó làm ông ấy bối rối. Phần lớn chúng đều thuộc về một tộc người kém tiến hóa hơn chủng Piltdown, nhưng vẫn là con người. Một số khác thì tiến hóa hơn, chỉ có số ít là thuộc về tộc người hiện đại với sự tiến hóa hoàn chỉnh. Tất cả chỗ xương đó đều bị ăn mòn, hầu hết bởi lũ chuột, nhưng phần nào đó lại do những sinh vật nửa người gây ra. Trộn lẫn với những bộ hài cốt ấy là vô vàn mảnh xương bé xíu của bầy chuột - những thành viên đã ngã xuống trong quân đoàn chết người với vai trò khép lại cả một trang sử thi.
Tôi tự hỏi rằng liệu có người đàn ông nào trong chúng tôi có thể tiếp tục sống mà giữ được tỉnh táo từ cái ngày anh ta phát hiện ra những bí mật này cho tới mãi về sau. Kể cả Hoffmann lẫn Huysmans cũng chẳng thể tưởng tượng ra một khung cảnh kinh sợ hơn, điên cuồng hơn, hay một sự kỳ quái đậm chất Gothic hơn khung cảnh trong hang động hun hút mà bảy người chúng tôi phải loạng choạng khi thấy; bọn tôi vén hết bức màn bí mật này cho tới bức màn bí mật khác, cố gắng suy nghĩ về những sự việc đã xảy ra tại đây ba trăm, hoặc một nghìn, hay hai nghìn, thậm chí là mười nghìn năm trước. Đây hẳn là lối vào địa ngục, và Thornton tội nghiệp lại ngất đi lần nữa khi Trask bảo với anh ta rằng đã có tới hai mươi, có khi là hơn thế hệ ở đây bị đối xử như những con súc vật.
Sự kinh hoàng tiếp nối sự kinh hoàng khi chúng tôi bắt đầu giải nghĩa những kiến trúc còn sót lại. Những con gia súc ấy - mà có lẽ khởi nguyên của họ là những con người hai chân - đã bị giam trong những chiếc lồng đá, mà cuối cùng họ đã thoát ra do cơn đói ngấu nghiến hoặc nỗi kinh hoàng về bầy chuột xúi giục. Họ được nuôi theo từng đàn rất lớn, mà những bằng chứng về việc vỗ béo họ bằng mọi loại rau củ thô sơ vẫn còn sót lại và có thể được tìm thấy như những đống thức ăn gia súc nằm dưới từng thùng đá có tuổi đời còn già hơn cả đế chế La Mã. Giờ tôi đã biết tại sao tổ tiên của mình lại có những cánh đồng bạt ngàn đến vậy - cho dù đến lúc chết tôi cũng chẳng thể quên được nữa! Lý do họ nuôi bầy gia súc này là quá hiển nhiên. 
 Ngài William, đứng đó với cây đèn pha trong đống tàn tích La Mã, phiên dịch thật to một nghi lễ kinh khiếp nhất mà tôi từng được biết; kể cho chúng tôi về những thực đơn của người xưa mà những tư tế người Cybele đã tìm thấy rồi trộn lẫn với thực đơn của họ. Norrys, giống như lúc cậu ta ở chiến hào, không thể nào vững chân khi cậu ta bước ra khỏi tòa nhà. Đó chính là cửa hàng và căn bếp của một tên đồ tể - có lẽ cậu ấy đã đoán trước điều này - nhưng nó vẫn là quá sức chịu đựng khi phải nhìn thấy những dụng cụ của người Anh còn ở nơi này, và phải nhìn thấy những bức vẽ của họ ở đây, một số có lẽ là từ năm 1610. Tôi không tiến vào căn nhà ấy - căn nhà nơi mà những hành động ma quỷ chỉ bị dừng lại dưới lưỡi dao của tổ phụ tôi, bá tước Walter de la Poer. 
Chúng tôi mạo hiểm tiến sâu vào những căn nhà của người Saxon, những căn nhà với cánh cửa sồi lớn đã đổ sập, và ở đó tôi tìm thấy một hàng ngang khiếp đảm được tạo thành từ mười nhà ngục bằng đá với những chấn song rỉ sét. Ba cái vẫn còn sót lại người trong đó, những bộ xương thuộc giống loài cao cấp, và trên ngón trỏ của một trong số chúng, tôi nhìn thấy một chiếc nhẫn với huy hiệu của gia tộc mình. Ngài William tìm thấy một căn hầm với buồng giam còn lâu đời hơn nữa bên nhà nguyện La Mã, nhưng những căn buồng đều trống trơn. Bên dưới nữa là một hầm mộ với những bộ xương đã được sắp xếp, một số thì đang miêu tả những dòng chữ được khắc bằng tiếng Latinh, Hy Lạp với ngữ điệu của tiếng Phrygia. Khi ấy, tiến sĩ Trask đã mở một mộ phần tiền sử, mang ra một chiếc đầu lâu nhỏ nhắn mà chắc chắn là giống người hơn những chiếc sọ của loài khỉ đột, trên trán nó được chạm khắc những biểu tượng không thể nhầm với bất cứ thứ gì khác. Bất chấp tất cả những kinh hoàng ấy, con mèo của tôi không hề có vẻ gì là sợ hãi. Tôi thoáng nhìn nó khi nó đang ngồi trên đỉnh ngọn núi bằng xương, và tự hỏi liệu có bí mật nào đang nằm sau đôi mắt ánh vàng kia.
Dừng chân một chút nhằm nguôi ngoai đi nỗi kinh sợ nơi hang động nhập nhoạng này mang tới - hang động mà tôi đã được báo trước trong những giấc mơ của mình - chúng tôi tiếp tục hướng về phía thăm thẳm nơi tối tăm với không một chút ánh sáng nào từ vách núi có thể xuyên qua. Bọn tôi hẳn sẽ chẳng bao giờ biết về những thế giới Stygian mù mịt ngoài kia, thế giới vượt xa những khu vực mà chúng tôi chạm chân tới, bởi chúng tôi cũng biết rằng có những bí mật không nên được loài người vén màn. Nhưng bù lại, cũng có vô số thứ hấp dẫn vẫn đang nằm trong tầm với, thế nên chúng tôi không hề tiến quá xa trước khi ánh đèn pha chiếu tới vô hạn những chiếc lỗ bị nguyền rủa mà tác giả chính là lũ chuột, sự thiếu thốn thức ăn, thứ gây nên cơn đói khủng khiếp, đã dẫn dụ đội quân mục ruỗng với cái bụng cồn cào hướng đến bầy gia súc kia, để rồi sau đó chúng túa ra từ tu viện để mà thác loạn và tàn phá, tạo nên một phần lịch sử không thể nào quên được của đám nông dân.
Lạy chúa! Những nấm mồ của lũ xác sống ấy chứa đầy là những mảnh vụn của xương xẩu, và sọ người bị mở toang ! Những cơn ác mộng đến từ thăm thẳm ấy chứa toàn là hài cốt của loài linh trưởng, người Celtic, người La Mã, và người Anh bị giấu kín trong hàng thế kỷ! Một số những cái lỗ đã bị lấp đầy, và không một ai biết được rằng chúng sâu đến đâu. Đáy của một số cái còn lại, sâu tới mức dù là ánh đèn hay trí tưởng tượng của chúng tôi cũng chẳng thể chạm tới. Tôi nghĩ, điều gì đã khiến lũ chuột đào bới những cái lỗ, để rồi lại bị kẹt trong chính bóng tối vô tận của những cái lỗ ấy nơi địa ngục Tartarus đầy ghê rợn này ?
Chợt, tôi trượt chân ngay gần một bờ vực thăm thẳm, và trong khoảnh khắc ấy một nỗi sợ bùng lên khiến tôi chết lặng. Tôi hẳn đã trầm ngâm quá lâu, tới nỗi mà ngoài Capt. Norrys tôi không còn thấy bất cứ một thành viên nào trong nhóm. Và một âm thanh vọng đến từ nơi đen kịt, vô biên, trải dài hơn cả những không gian mà tôi tưởng rằng mình đã biết; rồi tôi thấy con mèo đen của mình phi vụt qua tôi như một con Nhân sư của người Ai Cập, thẳng tiến tới phía mênh mông của những miền không biết. Nhưng tôi không hề cách xa nó, không nghi ngờ gì nữa, đó chính là bè lũ rùng rợn của đàn chuột quỷ ám, luôn đem đến nỗi kinh hoàng, chúng muốn dẫn tôi tới những hang động tan hoang nằm tận tâm trái đất, nơi mà Nyarlathotep, vị thần vô diện điên loạn, cất lên những âm thanh như được tạo ra từ ống sáo của hai kẻ vô nhân dạng.
Chiếc đèn pin của tôi vụt tắt, nhưng tôi vẫn chạy. Tôi nghe thấy những âm thanh, những gào rú, và những tiếng vọng, nhưng nhẹ nhàng vượt lên tất cả những âm thanh ấy là tiếng của lũ gặm nhấm, trơ tráo và quỷ quyệt; chúng cứ lớn dần, lớn dần như một xác chết trương phồng lềnh phềnh trên con sông đang đổ vào vùng biển đen kịt, cùng một câu cầu kéo dài tới vô tận đang vắt qua ở phía trên. Có thứ gì đó va vào tôi - nó mềm nhũn và mập mạp. Chắc hẳn chúng là lũ chuột; một đội quân nhầy nhụa, sền sệt, đói khát mở tiệc trên thân xác những kẻ sống và người chết . . . Tại sao đàn chuột lại không thể ăn một người de la Poer khi người nhà de la Poer dám ăn những thứ bị cấm? . . . Như cách mà chiến tranh nuốt chửng con trai tôi, mẹ kiếp . . . hay như cách mà lính Mỹ đã nhấn chìm ngôi nhà Carfax vào ngọn lửa cũng như đốt cháy tổ phụ của nhà Delapore cùng với mọi bí mật kèm theo . . . Không, không, nghe này, tôi không phải là tên chăn lợn trong cái hang động hun hút ấy! Trên những sinh vật mềm nhũn, đầy nấm đấy cũng không phải là khuôn mặt tròn trịa của Edward Norrys! Ai nói tôi là người de la Poer? Hắn ta đã sống, nhưng con trai tôi đã chết! . . . Rồi liệu rằng nhà Norrys sẽ lại nắm trong tay mảnh đất của gia tộc de la Poer? . . . Đó là tà thuật, nghe tôi này . . .  con rắn có đốm ấy . . . Nguyền rủa người, Thornton, ta sẽ dạy ngươi phải ngất xỉu trước những gì gia đình ta đã làm! . . . ‘SMáu, ngươi, tên hôi thối ta sẽ dạy ngươi phải quỳ gối . . . wolde ye swynke me thilke wys? . . . Magna Mater! Magna Mater! . . . Atys . . . Dia ad aghaidh ‘s ad aodann . . . agus bas dunach ort! Dhonas ‘s dholas ort, agus leatsa! . . . Ungl . . . ungl . . . rrrlh . . . chchch . . . 
Họ kể rằng tôi đã lẩm bẩm những điều ấy khi họ tìm thấy tôi trong màn đêm đen đặc ba giờ sau đó; họ thấy tôi đang bò qua thân thể mập mạp, nay đã bị ăn mất một nửa của Capt. Norrys trong bóng tối, với con mèo của tôi đang nhảy lên, cào xé cổ họng tôi. Giờ đây, họ đã cho nổ tung tu viện Exham, đưa Nigger-Man rời xa khỏi tôi, và nhốt tôi lại sau những buồng giam tại Hanwell với đầy những lời thì thầm sợ hãi về dòng tộc cũng như trải nghiệm của tôi. Thornton bị nhốt ở căn phòng kế bên, nhưng chúng tôi bị ngăn không cho nói chuyện. Họ đang cố đàn áp mọi sự thật liên quan tới tu viện. Khi tôi hỏi về Norrys tội nghiệp, họ buộc tội tôi với những lý do không rõ ràng, nhưng họ biết rõ rằng tôi không làm điều đó. Họ phải biết rằng đó là do lũ chuột; lũ chuột trườn quanh, tán loạn, lũ chuột mà tiếng chạy của chúng sẽ chẳng bao giờ để cho tôi ngủ; những con chuột quái quỷ bò sau những tấm đệm lót của căn phòng lôi kéo tôi tới những nỗi kinh hoàng hơn cả mọi nỗi kinh hoàng tôi từng biết; lũ chuột mà họ sẽ chẳng bao giờ nghe thấy được; lũ chuột, lũ chuột trong bức tường.