"Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt."
Những lời khiến mình run lẩy bẩy. 
Ba năm sau, không biết bao nhiêu lần đoạn Thánh Kinh ấy đã vang dội trong trí óc, và lần nào cũng vậy, cả thân xác mình muốn ngã quỵ vì sức nặng của tầng tầng lớp lớp ý nghĩa mà những lời ấy đang ngày càng tỏ ra, ngày càng sáng rõ trong lý trí và trái tim mình. 
Bài viết này không dài. 
Mình muốn kể cho các bạn nghe về câu trả lời sau một cuộc tìm kiếm không ngơi nghỉ. Một cuộc tìm kiếm kéo dài qua những trải nghiệm không thể lý giải tuổi thơ ấu - mình đã kinh ngạc khi soi hình ảnh bản thân trong gương và bằng cách nào đó đã nhận ra cả linh hồn lẫn thân xác đứa trẻ 5 tuổi ấy đang kề bên nhau trong cùng một bản thể - đến nỗi tò mò vô tận ở tuổi niên thiếu đối với sự chết và câu hỏi về cái gì ở bên kia khoảng trống hư vô. Một cuộc hành trình qua những tri thức mình có thể lĩnh hội trong khả năng bé nhỏ này và những ngóc ngách của cuộc sống mình có thể chạm tới. 
Trên hành trình này, mục tiêu tìm kiếm chỉ là một Đấng duy nhất. 
Và mình đã được gặp Người. 
---
Có lẽ mình đã bắt đầu lên đường đi tìm Người khi, bằng một sự quả quyết lạ thường vào năm thứ tư đại học, mình khẳng định với hai người bạn rằng đời sống này có một đích đến, một kết cục, một outcome nào đó rõ rệt và dù chưa biết đích đến là gì "tớ vẫn buộc phải đến đó bằng mọi giá". 
Thời điểm đó, kể cả khi đã thấm một môi trường sinh hoạt và giáo dục Ki-tô giáo từ nhỏ, mình lại ham sự hiểu biết quá nhiều với một niềm tin gần như trống rỗng. Trong một thời gian dài mình đã tha hồ đắm chìm vào những ý tưởng lạ kỳ nhất của triết học, mà không một lần tự thốt lên lời xác quyết nào, để mặc tâm trí bị giày xéo bởi hết hoài nghi này đến hoài nghi khác. Vì thế sự bí ẩn của Thiên Chúa liên tục vượt khỏi tầm với. Trong những đêm thức chỉ để viết, mình vẫn nhớ đã thấy rõ trước mắt là bóng đêm - không phải vật lý, mà thuộc về cảm giác - như một màn giăng kín đầy tuyệt vọng. Tuy vậy mình vẫn cố chấp, đinh ninh rằng:
1. Chỉ cần đọc những quan điểm về Chúa và suy tư triết học là đủ để gặp Người. 
2. Phải làm việc này càng độc lập càng tốt. (Mình đã nhầm độc lập với cô độc)
3.  Những việc thuộc về thực hành đức tin, như thờ phượng và cầu nguyện, chỉ là xao nhãng. 
Và có lẽ ba điều trên còn kéo dài mãi nếu Chúa không kéo mình khỏi cái tôi tự mãn và đẩy vào thế giới của sinh hoạt tôn giáo thực sự. 
Thực ra đó cũng là một chuỗi những lựa chọn liên tiếp kéo dài hơn một năm nay, kể từ khi những tháng ngày lang thang kết thúc và trong đầu mình chỉ nung nấu một ý nghĩ "phải quay lại nhà thờ". Có lẽ chính Người đã gieo vào lòng mình một sự tò mò mới và một chút can đảm để quay về với việc học hát, với Thánh lễ, với những giờ đọc kinh mà trước mình vẫn coi là khó hiểu và vô cùng tẻ nhạt. Người nhắc nhở thế nào là quyết định đúng đắn: hãy bớt kiêu căng đi, cố mà học hỏi và cảm nhận. Mình học hát Thánh ca, cố gắng dấn thân hết mức có thể, tạo cam kết với bản thân sẽ nhớ đến chiều sâu ý nghĩa tuyệt vời mà việc thờ phượng đem lại, còn tất cả  những mệt mỏi, cảm giác tẻ nhạt chỉ là do yếu đuối mà thôi. 

Nhà thờ Chính tòa Hà Nội là một nơi tuyệt vời để tập trung cầu nguyện. Hàng ghế được thiết kế để quỳ thoải mái hàng giờ mà không mỏi. Bất cứ khi nào mở mắt ra là một chiếc thập giá hiện ra trước mắt. Ánh sáng dịu, chan hoà, đủ góc tối khiến cho không gian rộng mở nhưng rất riêng tư, hơn nữa mọi người không quá để ý đến nhau và tôn trọng không gian của người ngồi gần.
Mình vẫn phải học theo những người xung quanh trong các giờ kinh Mân Côi (Rosary) kéo dài chừng 25 phút, ban đầu chỉ quen ngồi không, mở mắt nhìn vu vơ, nhưng sau này khi quỳ thật lâu, nhắm mắt lại hoặc ngước lên trần, mình mới dần có cảm giác khác. Có lẽ là sự tập trung trọn vẹn vào khoảnh khắc hiện tại bên những người anh em, trong một nơi an toàn và gần gũi, với những hiện vật liên tục nhắc nhở mình về đức tin.

Và như thế, mình đã gặp Thiên Chúa. 
Mình đã gặp Người sau lần đầu tiên thốt lên một lời cầu nguyện từ đáy lòng. Lời cầu đó chẳng có gì lớn, quan trọng là mình đã đánh liều, dám hướng lên một thực tại vượt quá bản thân và đối thoại như thể đang đứng trước mặt Người. 
Mình đã gặp Thiên Chúa vào một ngày, một giờ cụ thể, tại một nơi cụ thể. Hôm đó là một ngày đầu xuân, trời mưa lớn, còn mình chỉ đang chuẩn bị dịch tiếp cuốn sách trong căn phòng trọ nhỏ xíu, sau khi từ nhà thờ về. 
Đúng hơn, trong căn phòng ấy, dưới ánh sáng ấy và trong cơn mưa tầm tã, giọng nói của Thiên Chúa đã dội thẳng vào linh hồn mình.
Giọng nói ấy ra sao? Mình không thể và không cố gắng tìm một cách miêu tả xứng hợp, mà chỉ biết rằng Chúa có cách riêng để đáp lại những ai đang tìm Người. Và ban đầu mình vẫn tưởng đây chỉ là ý tưởng bất chợt, chỉ là suy nghĩ riêng mà thôi. Nhưng ý nghĩ đó đã truyền lại một điều vô cùng kinh ngạc mà mình không kiểm soát nổi, như mảnh ghép cuối cùng đang tìm kiếm mà chưa hề biết hình dạng nó ra sao. 
Người nói với mình thông điệp về sự tha thứ, rằng bình an đã ở đây rồi, và lời hứa rằng khi hết mùa Phục sinh ấy, tất cả sẽ qua đi. Mình chưa bao giờ khóc đến vậy. 

"Bây giờ ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương." Cũng giống như mọi lần gặp mặt đều có thể thay đổi cuộc sống của ta, thì cuộc gặp với Thiên Chúa cũng như vậy, với mức độ tăng lên gấp nhiều lần. Cuộc gặp ấy, người Thiên Chúa giáo gọi là mặc khải. "Revelation" - vén tấm màn lên để thấy điều còn ẩn khuất. 
"Mai sau sẽ được mặt giáp mặt." Tất cả những gì mình muốn chỉ là khao khát được gặp mặt Người, và mọi việc xảy ra đúng như vậy, không hề báo trước, với một mãnh lực khủng khiếp có khả năng đảo lộn cả cuộc sống. 
"Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn." Ba năm trước mình đã chép đúng những lời này mà chưa hiểu gì. Mình đã giở Thánh Kinh biết bao lần mà không biết sẽ gặp Một Ai. Rồi mình đã bị cuốn theo thế giới với những ý tưởng lạ kỳ, nào con người chỉ là một cỗ máy thuần túy sinh học, vật lý, nào chúng ta hiện hữu do sự ngẫu nhiên của vũ trụ, nào ý chí tự do chỉ là một ảo tưởng, tất cả chỉ là kiến thiết xã hội và chúng ta hoàn toàn cô độc mà thôi. Chẳng phải nói những tư tưởng điên rồ đó đã dằn vặt và ngăn cản mình bằng sự hoài nghi giả tạo ra sao. 
"Mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi." Sau cuộc gặp mặt lịch sử, mình đứng trước một lựa chọn còn liều lĩnh hơn tất cả những gì đã, đang và sẽ dám làm: một thái độ vâng phục, như lẽ tất yếu khi nhận ra Ai là Đấng đã tạo nên con người mình.