Ảnh: Chưa rõ nguồn
Ảnh: Chưa rõ nguồn
Năm 1994, khi Bắc Triều Tiên rơi vào nạn đói trầm trọng đến mức cộng đồng quốc tế phải lo ngại, chính quyền nước này chợt nhận ra rằng họ cần chi hàng triệu USD vào việc trùng tu tỉnh tháp của lăng Tangun, người sáng lập ra vương triều Kojoson trong huyền sử Triều Tiên.
Vì sao lăng của Tangun, một vị vua được tương truyền trị vì vào năm 2.333 trước Công Nguyên lại quan trọng đến như vậy?
Khác với hầu hết các vương triều trên bán đảo Triều Tiên đều nằm gần Seoul, thủ đô của Đế vương Tangun nằm gần Bình Nhưỡng (Pyongyang). Và trong cuộc đua tranh giành chính danh với Hàn Quốc vào những thập niên 1990 – đầu những năm 2000 để đại diện cho toàn bộ bán đảo Triều Tiên mà trong đó Hàn Quốc có vẻ đang thắng thế, Bình Nhưỡng lục lại lịch sử dân tộc để tìm ra cách giải thích cho tính chính danh của mình.
Truyền thuyết của người Triều Tiên về Tangun có nhiều dị bản, nhưng nhìn chung đều nói về nguồn gốc “người trời” của Tangun nói riêng và người Triều Tiên nói chung (bao gồm cả Hàn Quốc).
Theo một phiên bản được từ điển Britannica ghi nhận, Hwanung (Đàn Quân) rời thiên đàng xuống Thánh đỉnh Paektu (hay Baektu) để cai trị địa giới. Trong lúc này, một con hổ và một con gấu đến gặp Hwanung và thể hiện mong ước được có hình thù của người trời. Hwanung căn dặn để có được hình thù này, cả hai con thú phải vào sâu trong hang động không có ánh mặt trời và không được ăn thịt trong suốt 100 ngày. Con hổ không đủ kiên nhẫn và bỏ đi. Con gấu ở lại và hóa thành một người phụ nữ xinh đẹp. Người này sau này trở thành mẫu thân của Tangun, thụ thai sau khi nhận được một hơi thở từ Đàn Quân. Tộc người Triều Tiên và các vương triều Triều Tiên bắt đầu từ đây.
Truyền thuyết này có tính quan trọng tương tự như câu chuyện Âu Cơ – Lạc Long Quân tại Việt Nam. Nếu người Kinh có nguồn gốc “Con Rồng, Cháu Tiên”, người Triều Tiên là truyền nhân trực tiếp của “người trời”.
Và gia đình họ Kim tìm cách gắn mình với nguồn gốc “người trời” này.

Thánh sử bắt đầu

Năm 1997, Bắc Triều Tiên đưa vào sử dụng một bộ lịch mới, gọi là lịch Juche. Năm đầu tiên tính theo lịch này là năm Chủ tịch Kim Nhật Thành ra đời, tức là  năm 1912 (đồng nghĩa với việc năm nay là năm 112 tại Bắc Triều Tiên, không phải 2023). Ông được ca tụng là người giáng trần từ thiên đàng với tư cách Tangun tái thế, được thiên định sẽ bắt đầu và xây dựng lại lịch sử và nhà nước trên toàn bán đảo Triều Tiên sau khi nó bị chủ nghĩa đế quốc quân phiệt Nhật Bản làm cho ô uế.
Thánh sử (hagiography) của gia đình họ Kim bắt đầu.
Gia đình đầy “khí chất” thánh thần gồm Kim Il-Sung (Kim Nhật Thành – Quốc phụ), Kim Jong-Il (Kim Chính Nhật) trên ngựa trắng và Quốc mẫu Kim Jong-suk (Kim Chính Thục) trên ngựa nâu. Ảnh: KCNA.
Gia đình đầy “khí chất” thánh thần gồm Kim Il-Sung (Kim Nhật Thành – Quốc phụ), Kim Jong-Il (Kim Chính Nhật) trên ngựa trắng và Quốc mẫu Kim Jong-suk (Kim Chính Thục) trên ngựa nâu. Ảnh: KCNA.
Ba đời lãnh đạo Triều Tiên nhà họ Kim không đơn thuần chỉ là những thiên tài, họ được mô tả là có tài năng và khí chất của thần thánh.
Đối với Kim Nhật Thành, ông kể rằng mình đã nắm tay thề quyết tâm đánh bại chủ nghĩa đế quốc vào năm lên năm, khi đang chơi… xích đu với mẹ.
Năm lên sáu, Kim Nhật Thành tự nguyện tham gia cuộc biểu tình phản đối sự chiếm đóng của đế quốc Nhật, nằm trong các sự kiện của phong trào Nhất Tam 1919 (March 1st Movement of 1919). Phong trào bị đàn áp dữ dội, và đó cũng là lúc mà Lãnh tụ vĩ đại – Chủ tịch vĩnh hằng (Great leader and Eternal President) Kim Nhật Thành quyết tâm đánh đuổi đế quốc Nhật bằng mọi giá.
Năm lên tám, ông đã bắt đầu vận chuyển vũ khí đạn dược xuyên lòng địch.
Năm 11 tuổi, ông được cha mình gửi đến một trường học cách mạng bí mật ở Mãn Châu (Trung Quốc).
Năm 13 tuổi, Kim Nhật Thành với chỉ một bản đồ vẽ tay đã quyết tâm thực hiện hành trình 4.000 km từ Mãn Châu trở về Triều Tiên, vượt bão tuyết, núi cao, đối phó với thú dữ, để cảm nhận số phận của người dân Triều Tiên trên con đường và thấu hiểu nỗi thống khổ của họ.
Đây là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong Thánh sử được xây dựng về Kim Nhật Thành, thường được gọi là “Hành trình 1000 ri trở về đất mẹ” (“1000 ri Journey”. Ri – 里 là một đơn vị đo chiều dài của Nhật. Một ri tương ứng với khoảng 3,9 km).
Nếu câu chuyện về Kim Nhật Thành mang màu sắc văn hóa bản địa, câu chuyện về việc sinh hạ Kim Chính Nhật lại khiêm tốn và mang màu sắc Thiên Chúa giáo nhiều hơn, theo bình luận của một số tài liệu.
Theo đó, truyền thông nhà nước nhại lại khung cảnh Thánh Đản (Biblical Nativity) để tả thời khắc sinh ra dù khiêm tốn của Kim Chính Nhật, nhưng lại mang tầm vóc vũ trụ bao la, được dự báo với đàn én, hai sắc cầu vồng và một tinh cầu mới trên bầu trời đêm.
Đối chiếu với các tình tiết trong Kinh Tân Ước (New Testament), câu chuyện có diễn biến khá tương tự.
Các nhân chứng của buổi hạ sinh ngay lập tức nhận ra những điều tiên tri và định mệnh cao cả của đứa trẻ. Họ cho rằng đứa trẻ là ngôi sao sẽ đem ánh sáng đến cho tương lai của Triều Tiên và gọi nó là Vầng sao sáng của Thánh đỉnh Baekdu (The Bright Star of Mt. Baekdu). Tin lành về đứa trẻ được lan truyền đi khắp đi đất nước, với người dân hạnh phúc đón mừng.
Đế quốc Nhật xấu xa, tương tự như Vua Herod xứ Judaea, thì cho rằng đứa trẻ là điềm báo dữ, đã tìm mọi cách để truy lùng và tiêu diệt. Tiểu sử Kim Chính Nhật Quyển I, thậm chí còn trích dẫn nguyên văn một tài liệu… tưởng tượng của người Nhật rằng việc Kim Chính Nhật được sinh ra đã làm hoang mang toàn bộ Tokyo, và dự báo rằng cậu bé “người trời” này sẽ trở thành một Đại tướng quân đánh bại quân đội Nhật, mang lại độc lập cho Triều Tiên.
Duy chỉ đáng tiếc cho nhà lãnh đạo tiếp theo, Kim Jong-un (Kim Chính Ân), là thời điểm ông trở thành lãnh đạo Bắc Triều Tiên vào năm 2011 thì một bộ phận dân chúng đã bắt đầu có cơ hội tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài, ít ra là với Trung Quốc. Điều này khiến cho Kim Chính Ân khó có cơ hội sử dụng giai thoại huyền sử để mô tả tuổi thơ ấu của mình. Tuy nhiên, nó vẫn không triệt tiêu hoàn toàn nhu cầu tuyên truyền của bộ máy nhà nước Bắc Triều Tiên.
Năm 2014, Đài truyền hình KBS của Hàn Quốc thu thập được một giáo trình trung học Bắc Triều Tiên, cho thấy học sinh ở đây đã phải bắt đầu một khóa đào tạo dài ba năm về cuộc đời niên thiếu của Kim Chính Ân.
Nội dung của chương trình vẫn chưa được tìm ra, tuy nhiên nhiều phim tài liệu phát toàn Bắc Triều Tiên tuyên truyền rằng Kim Chính Ân đã trở thành một thiện xạ súng lục cũng như thông thạo bảy ngoại ngữ ở tuổi lên ba; có các phát hiện khoa học địa chất và là một sử gia ở tuổi vị thành niên. Không khó để dự đoán trong chương trình giáo dục trung học nói trên chứa đựng những gì.
Những thông tin mà cơ quan ngôn luận trung ương của Bắc Triều Tiên tuyên truyền được trình bày ở trên, bạn đọc có toàn quyền tin hoặc không tin. Nhưng với những người không tin, câu hỏi đặt ra là vì sao những chiến dịch tuyên truyền thế này lại tiếp tục được sử dụng ở thế kỷ 21.

Sùng bái cá nhân

Người đầu tiên sử dụng thuật ngữ sùng bái cá nhân (cult of personality) trong văn cảnh chính trị là Karl Marx, trong bức thư gửi cho Wilhelm Blos vào năm 1877.
Marx chỉ trích Ferdinand Lasalle, một đối thủ chính trị của ông ngay trong Liên minh Cộng sản Quốc tế (Communist League). Đáng tiếc thay, hầu hết học trò xuất sắc hay nổi tiếng nhất của ông như Lenin, Stalin, Mao hay Kim Nhật Thành đều sử dụng sùng bái cá nhân như một phần không thể thiếu trong chiến thuật trị quốc của mình.
Theo luận khảo nổi tiếng “Tính cách là gì và nó có thật sự quan trọng không?” (What is character and why it really does matter), Giáo sư Thomas A. Wright (Đại học Fordham, Anh) định nghĩa sùng bái cá nhân là một hiện tượng “mẫu mực hóa, đến mức như thần thánh hóa hình ảnh công cộng của một cá nhân, được định hình và phát triển dựa trên các chiến dịch tuyên truyền không ngừng nghỉ cùng với các tương tác truyền thông”.
Karl Marx hóa ra lại là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “sùng bái cá nhân” trong văn cảnh chính trị. Ảnh: ullstein bild Dtl.
Karl Marx hóa ra lại là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “sùng bái cá nhân” trong văn cảnh chính trị. Ảnh: ullstein bild Dtl.
Tuy điều này nghe có vẻ dễ nhận biết và dễ phản đối, các chiến thuật tuyên truyền bền bỉ và có chuẩn bị đều có những tác động như ý muốn lên hầu hết các đối tượng tiếp nhận thông tin.
Ví dụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến nay được xem là hình mẫu hoàn hảo của một chính trị gia tại Việt Nam. Tài năng, đức độ, danh tiếng, khiêm tốn, giản dị, thông minh… là số ít những đức tính mà một người Việt Nam thông thường có thể kể ra để mô tả vị “Cha già dân tộc”. Không chỉ vậy, ngay cả bố và mẹ của Hồ Chí Minh cũng đã và đang được mô tả như những vị thánh, có đền thờ riêng, có sử sách riêng, với quyết tâm cách mạng và nhân phẩm hoàn mỹ.
Đây có phải là dấu hiệu của sùng bái cá nhân?
Tôi cá là sẽ có một số lượng lớn bạn đọc phản đối quan điểm này. Với họ, những kẻ xét lại Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ là những tên cặn bã.
Điều này thật ra không quá khác với tình trạng ở Triều Tiên.
Năm 2011, người dân và các sĩ quan quân đội Hàn Quốc bắt đầu chiến dịch thả hàng chục ngàn bong bóng vào lãnh thổ Triều Tiên kèm theo hình ảnh về đời tư của Kim Chính Nhật, sự xa hoa mà các con ông đang được hưởng tại nước ngoài, thông tin về Mùa Xuân Ả Rập và hàng loạt các thông tin về sự phát triển của Đại Hàn Dân Quốc.
Họ tin là thời điểm chín muồi để một cuộc Cách mạng tự thân ở Bắc Triều Tiên có thể sẽ diễn ra.
Nạn đói thập niên 1990 giết chết gần một triệu nhân mạng, việc thay đổi tiền tệ không tuân thủ quy tắc thị trường năm 2009, các tướng lãnh quân sự bắt đầu lo lắng về vị trí và vai trò của mình khi tình trạng sức khỏe của Kim Chính Nhật suy yếu, các phong trào dân chủ quốc tế lên cao đến đỉnh điểm… tất cả dường như đều quá hoàn hảo cho một cuộc Cách mạng dân chủ ở Triều Tiên.
Nhưng tại sao nó vẫn không diễn ra nổi?
Đơn giản là vì sùng bái cá nhân vẫn còn hiệu quả, và thậm chí người ta còn không nhận ra nó đang vận hành hiệu quả. Người dân Bắc Triều sau hàng chục năm được nhồi nhét thứ tôn giáo chính trị (political religion) của nhà họ Kim có vẻ không biết mình đang thật sự muốn gì, và họ cũng sợ sự bất định mà việc thiếu vắng một “lãnh tụ kính yêu” hay một “lãnh tụ vĩ đại” có thể mang lại.
Thiếu vắng một người để người dân tôn sùng và sợ hãi, đôi khi cũng là nguyên cớ để những gia đình thần thánh như thế này tồn tại trên thế giới ngày nay.