Ánh sáng không hề tắt, chỉ có mắt ta nhắm lại” theo Plotinus thuộc trường phái tân Platon. Ngài cho rằng vạn vật càng xa ánh sáng càng tăm tối, vô minh.
Truyện kể rằng, vào một thời điểm không xác định trong quá khứ khoảng từ thế kỷ thứ VIII–IX sau Công nguyên. Xuất hiện những con quái thú mình không da, hàm răng sắt nhọn chuyên ăn thịt người. Chúng thường ẩn mình trong những góc khuất thành phố, những nơi có bóng tối che phủ, tóm lấy con mồi và xé xác nạn nhân tại chỗ. Đôi lúc, chúng lẻn vào những giấc mơ, nhai từng mảnh tâm hồn ta từ bên trong, và rồi ta chẳng bao giờ thức dậy nữa. Biết chuyện, Charles hoàng đế đã cầu xin Đức Chúa Trời ban phước lành và bảo vệ nhân loại khỏi những con quỷ khát máu. Ba chàng hiệp sĩ thiên thần nghe lệnh ngài và giáng xuống trần gian. Hôm ấy, thành bang Akis đã bừng sáng suốt ba ngày ba đêm. Thậm chí có một số tín đồ vì cố chấp lại gần các vị thiên sứ mà hai mắt mù lòa. Lũ quỷ chạy tán loạn, chết dần và tan biến trong ánh sáng thanh tẩy ấy…
“Em muốn làm hiệp sĩ cô Mén, em nữa,…” – Tụi nhỏ cãi nhau chí chóe để tranh nhau tiêu diệt cái ác. Nhìn vào những đôi mắt ánh lên bao hy vọng, lòng tôi lại nhũn đi một ít. Bởi cái làng quê này kiệt quệ lắm rồi, tôi không biết mình sẽ chịu đựng được bao lâu. Có thể một năm, hay ba năm nhưng chắc chắn sẽ không phải mãi mãi. Ngày ngày, bom rơi bom dội chẳng biết khi nào ta sẽ tan xác như những người dân tội nghiệp trong câu chuyện kia.
Tốt nghiệp loại giỏi ngành sư phạm, tưởng chừng là một lối thoát dẫn tôi đến cuộc sống sung túc nơi thành thị. Thế nhưng đời luôn lấy của ta cái gì đó – một cái gì đó chân quý. Với tôi, đó là tình thương đặc biệt với trẻ em, ôi những sinh linh bé bỏng. Tôi chẳng nỡ để những linh hồn ấy lớn lên mà không biết tới bao thứ đẹp đẽ trên đời. Chúng sẽ chỉ biết đi lên trâu, gặt lúa, trồng trọt và chết một đời nhàm chán ở cái đất khỉ ho cò gáy này. “Rồi được rồi, Mi và Ánh là con gái, hai em đâu thể trở thành hiệp sĩ được, nhưng cô tin là hai đứa sẽ trở thành những thiên thần xinh xắn, dễ thương nhất.” “Vậy còn lại, Cuội, Tý và Nam sẽ là ba chàng hiệp sĩ bảo vệ làng quê này nhé.” Ba đứa nó có vẻ rất vui vì được chính tôi công nhận là những người anh hùng dũng cảm, ở một góc độ nào đó thì đúng thế thật. Nếu không có những tinh ranh, những mơ mộng đáng yêu ấy, có lẽ tôi chẳng thể sống tiếp tại đây. Mang cái tên đúng với bản chất của nó – làng Cháy Sém, từ cỏ cây đến con người, mỗi nay lại có thêm vài người ra đi bởi sự cằn cỗi về lương thực. Hơn thế nó còn đốt cả sinh mệnh ta – hoặc ít nhất là tôi nghĩ thế. Căn nhà lá tồi tàn được dựng lên tạm bợ bởi những mảnh gỗ vá ép, mái che thì mùa nào cũng dột. Nhưng dù sao, đây cũng là công sức gom góp của cải của những người dân thưa thớt còn bám trụ lại, sau nhiều chuyến xe lên thành phố. Trường học tổng sỉ số chỉ có năm mống, và một giáo viên – nghe thực nực cười. Từ sau tiết kể truyện ấy, trường học có tổng ba chàng hiệp sĩ và hai nàng thiên thần, một giáo viên – may mắn thay khi mình chẳng hóa thiên thần hay gì đó. Để nhập vai hơn, ba thằng hiệp sĩ không cầm kiếm mà cầm nến sáng, chúng nói làm vậy để ác quỷ bóng tối phải khiếp sợ. Hai nàng thiên sứ bé nhỏ nằm gọn trong lòng tôi ngủ, mặc cho đám hiệp sĩ tinh nghịch đi tiêu diệt cái ác quanh trường học. Khung cảnh thật dễ chịu làm sao, một buổi trưa hè với một cây quạt điện nhỏ cùng hai cục bông bé nhỏ. Trời nắng nhưng nó là cái nắng dễ chịu, đôi lúc có vài làn gió mát luồn qua khe hở tấm ván gỗ, nhẹ nhàng ru ngủ chúng tôi. Ba thằng Cuội, Tý, Nam lần lượt bị ru ngủ, làn gió cũng khẽ tắt ngọn nến. Những mái tóc được cắt tỉa lởm chởm dựng lên khi chúng nó ngủ. Khuôn mặt toát lên vẻ mãn nguyện, thật là đến nao lòng – tôi thầm nghĩ. Chẳng ai biết được, chúng nó sắp gây ra chuyện tày trời đến nhường nào.
Những ngày sau, ba chàng hiệp sĩ đi khắp làng với ba cây nến, hễ nhà nào có đèn dầu là chúng đốt lên dù ngày hay đêm. Tụi nó tự xưng là ba chàng hiệp sĩ ánh sáng, lập giao ước bằng cách viết lên thân cây những dòng như này:
Cuội
Nam
Đời đời, kiếp kiếp canh giữ ngôi làng trước bọn ma quỷ xấu xa. Những con chữ nguệch ngoạc, chỗ nét lại đậm nhạt trông thật vô hại, nhưng lại tiềm ẩn một sự ghê lạ đến gai người. Đó là thứ hai, hôm đó như thường lệ tôi viết năm mẩu thư để báo với phụ huynh của tụi nhỏ. Nhưng hôm nay, trường lại chỉ có hai thiên thần và tôi. Chẳng ai hay biết ba đứa kia đã đi đâu, má và tía chúng nó phải làm nương cả buổi nên không biết. Mấy người đồn tụi nó bị bắt cóc rồi, có người lại bảo thấy chúng nó về phía Tây và biến mất,… Chỉ biết chắc, chúng đã thắp sáng toàn bộ đèn đuốc, nến trong cả làng. Cả làng dần sáng bừng lên trong chiều đó, đến tối thì còn sáng hơn nữa, chẳng ai có thể tắt ngọn đèn chính nghĩa ấy. Một số không tin có chuyện lạ ấy tìm cách tắt đều bị mờ mắt, mù lòa. Cả làng phải di tản, lác đác vài cụ già không còn con cháu quyết định chôn thân mình trong ánh sáng ấy. Trong dòng người di tản, có tiếng người than khóc, người lặng thinh,… nhưng ai bây giờ cũng phải bịt mắt mà chạy trong vô định. Bỗng nhiên, tôi thấy cứ sáng mãi lại hay, giờ đây có què quặt, dị biệt hay không đều như là hòa thành một thể. Và ánh sáng đã làm nơi này vui hơn, và các em đã làm rất tốt.
Trong phút giây ấy, tôi không còn biết liệu đây là một thảm kịch hay là phước lành hiếm có. Không còn khái niệm nào về tốt và xấu trong tôi. Gần như, tôi đã được gột rửa, thoát khỏi những ràng buộc trong lương tâm, lo toan về thứ gọi là cái chết cũng không còn. Và rồi, tôi đã làm việc đó, dứt khoát quay lưng chạy ngược hướng đám người di tản, thả rơi đôi tay đang che kín mắt. Tôi đã thấy nó, điều tôi không thể tránh né, cũng là điều tôi hằng ao ước, thật long lanh và mê hoặc.
Đỗ Thị Mén
Năm sinh: 1947
Năm mất: 1968
Làng Cháy Sém
ÍT RA, CÔ TA ĐÃ MỞ MẮT