Tào Tháo và Những hiểu lầm lịch sử (phần 2)
Kiến thức và nhận định của mình về nhân vật Tào Tháo
(tiếp theo phần 1)
Tào Tháo không mang theo những tướng giỏi nhất của mình Nam tiến, đơn giản vì Tháo tin chắc vào một chiến thắng dễ dàng như một cuộc tuần du Giang Nam. Một số mưu sĩ như Giả Hủ khuyên ngăn, Tào Tháo bỏ trong coi kinh đô luôn cho chắc chắn.
Tôn Quyền vốn là thiếu chủ ở Giang Đông. Từ lúc lên nắm quyền ở Giang Đông chưa bao giờ trải qua cuộc chiến lớn, chứ đừng nói là kiểu đại quân như quân Ngụy do đích thân Tào Thừa tướng thân chinh. Lúc nhắm mắt xuôi tay, anh trai Tôn Sách dặn Tôn Quyền rằng giang sơn này giữ được thì cố giữ, nhưng nếu không được thì cứ "thong thả ngã về Tây". Sách nhìn trước được cục diện thể nào Tào Tháo cũng tới, và mặc dù một đời anh hùng trên lưng ngựa, nhưng Tôn Sách vẫn dặn em mình là nên đầu hàng Tào Tháo. Sách rõ ràng có thể nói, Giang sơn này do ta và cha đổ máu mới có được, nếu có quân xâm phạm người phải đánh đến người cuối cùng. Không biết vì đánh giá thấp Tôn Quyền, hay đánh giá cao Tào, mà Tôn Sách lại cho rằng Giang Đông sẽ không chống nổi Tào. Ngoài ra lúc bàn việc với triều thần, phe quan văn do Trương Chiêu đứng đầu chủ hàng. Giải thích 1 chút ở điểm này, Trương Chiêu là người đứng đầu quan văn ở Giang Đông, được Tôn Sách thờ như thầy. Lúc Sách hấp hối phó thác em cho 2 vị là Trương Chiêu và Chu Du, có thể nói rằng tại thời điểm đó thì vị lão học sĩ Trương Chiêu được coi trong hơn vị tướng trẻ tuổi Chu Du nhiều. Tôn Quyền mồ côi từ nhỏ, Sách ở ngoài chiến trận, chính sự nước Ngô đều do Trương Chiêu lo liệu, đạo làm vua của Quyền đều được Trương Chiêu dạy, kính cẩn đến mức Quyền là lãnh chúa đứng đầu Giang Đông nhưng gọi Trương Chiêu thì gọi bằng Công, không gọi họ tên. Rõ ràng Tôn Quyền có nhiều lý do để đầu hàng hơn là chiến đấu.
Thế nhưng phe võ tướng đều muốn khô máu với giặc Tào, Chu Du nói rõ rằng quân Tào không thể có 70 vạn như lời đồn, cao nhất chỉ có 20 vạn. Trong đó thì có từ 5-7 vạn là hàng binh của Lưu Biểu nên sẽ không chiến đấu hết mình. Giang Đông có thể huy động khoảng 3 vạn quân. Nếu tính thêm liên minh với Lưu Bị thì được khoảng 2 vạn nữa là 5 vạn. (Lưu Bị lúc này còn khoảng 1 vạn quân, con trai trưởng của Lưu Biểu là Lưu Kỳ đang giữ Giang Hạ có 1 vạn). Theo lý luận của Chu Du, quân Tào tuy đông hơn nhưng đánh thủy binh thì chỉ cần 5 vạn người thì Chu Du thắng chắc. Hôm sau, Quyền hỏi riêng ý kiến của Lỗ Túc, Túc bảo rằng chúng thần nếu đầu hàng thì Tào Tháo sẽ ban thưởng rồi vẫn cho làm quan, còn nếu Chúa công đầu hàng thì sẽ làm chức quan gì? Quyền thấy có lý nên từ đó quyết tâm đánh đến cùng.
Xích Bích đỏ lửa, quân Tào bị thui không còn mảnh giáp, bỏ thuyền chạy lên bộ thì bị quân họ Lưu lùa chạy như vịt. 20 vạn quân rút cục nhìn lại theo mình còn có vài chục người hầu. Tất nhiên là lực lượng của Tào Tháo không chết sạch, chỉ là phân tán khắp nơi. Trận Xích Bích này có thể xem như trận đánh lớn nhất trong thời kỳ này, vì sau đó nó hình thành thế chân vạc chia 3 thiên hạ. Bản thân Tào Tháo cũng ý thức được thời cơ lần này đã qua thì khó mà thống nhất đất nước được nữa.
Năm 53 tuổi, Tào Tháo gần như nghỉ hưu non, sau cuộc chiến Xích Bích. Tháo cho xây đài Đồng Tước để ăn chơi hưởng tuổi già, uống rượu ngâm thơ, cũng như viết bài Thủ sắc để tỏ lòng, đại ý nói rằng mình lúc xưa có lòng giúp Hán Đế, gặp phải thời thế nên bất đắc dĩ mới phải lên ngồi cái ghế Thừa tướng này, chứ thật lòng không ham danh lợi, nay lỡ leo lên lưng cọp rồi, cũng không thể bước xuống làm người bình thường được nữa. Ý của Tào Tháo cũng không thể nói là giả dối được, nếu dùng cái nhìn khách quan mà nói, triều Hán mấy đời liên tục không có 1 ông vua nào ra hồn, triều chính lũng đoạn, hết hoạn quan rồi ngoại thích đấu đá, mua quan bán tước, tham nhũng tràng, nếu không nhờ có Tào Thừa tướng ngoài thì thống nhất được miền Bắc, trong thì dùng pháp gia nghiêm trị, đất nước mới dần ổn định và phát triển đi lên.
Nhìn chung thì Tào Tháo không có nhiều hoạt động lớn sau thời kỳ này. Đến năm 208, Tào Tháo tiếp tục có một nước đi về mặt chính trị khi triệu Mã Đằng cùng gia quyến vào kinh làm quan (mà thực ra là làm con tin), nhằm bẻ gãy sợi dây liên kết của mặt Tây Lương do Mã Đằng và Hàn Toại đứng đầu. Tuy nhiên đây vô tình là một nước đi sai lầm vì Mã Đằng trao quyền lại cho con là Mã Siêu, một người có nhiều tham vọng và thực lực hơn cha mình rất nhiều. Năm 211, Siêu làm phản thật, Tào Tháo bất đắc dĩ đem quân đi đánh. Sau khi suýt chết một lần nữa, Tào Tháo đại bại được liên minh Mã Siêu và Hàn Toại, chiếm được Tây Lương lương, trở về kinh, Tháo cho tru di tam tộc Mã Đằng.
Việc bất ngờ chiếm được Tây Lương chứ không phải là thần phục như suốt nhiều năm trước khiến cho Tào Tháo nghĩ rằng có thể thống nhất được phần lãnh thổ phía Tây. Năm 215, sau một cuộc hành quân dạo chơi khá nhẹ nhàng, Tào Tháo tiêu diệt hoàn toàn thế lực của Hàn Toại và chiếm được Đông Xuyên khi Trương Lỗ xin hàng. Việc này khiến cho trên bảng đồ Trung Quốc chỉ còn 4 quân phiệt là Tào Tháo, Tôn Quyền, Lưu Bị và Lưu Chương. Nhiều người khuyên Tháo tấn công vào Ích Châu lấy Tây Xuyên luôn, nhưng Tào Tháo tiếp tục sai lầm khi rút quân, mà có lẽ nguyên nhân lớn nhất là do Tào Tháo đã thật sự mệt mỏi và muốn về để lên ngôi Ngụy Vương. Hơn ai hết, Tào Tháo hiểu cảm giác đến những nơi rừng thiên nước độc như đất Ba Thục và nếu đối phương cố thủ, hoàn toàn có thể cầm cự được trong một thời gian dài mà có lẽ Tào Tháo sẽ chết già trước.
Năm 213, Tào Tháo nhận lễ cửu tích, tước Ngụy Công, tự thành lập 1 quốc gia Ngụy riêng như một nước chư hầu của nhà Hán, có triều đình riêng đóng đô ở Nghiệp Thành. Sau khi đánh bại Trương Lỗ trở về, năm 216, Tào Tháo xưng vương, trở thành Ngụy Vương. Từ giai đoạn này cho đến khi Tháo qua đời, nước Ngụy trải qua 2 cuộc chiến lớn nữa ở Kinh Châu và Hán Trung, tuy nhiên Tào Tháo đã không thân chinh ra trận cùng quân sĩ nữa, cũng như không có ý khô máu tử chiến một mất một còn như trước. Mất Hán Trung, ông cũng không nổi giận hay có ý trách cứ Trương Cáp mà ra lệnh cho các tướng chủ động rút quân để bảo toàn lực lượng.
Có thể đó là những điểm đáng chú ý cuối cùng trong sự nghiệp quân sự của Tào Tháo. Có rất nhiều ý kiến cho rằng Tào Tháo coi thường thiên tử, lộng quyền, đàn áp các phe phản đối. Nhưng thiết nghĩ, Tào Tháo thật ra coi thường rất nhiều người, từ lúc còn rất trẻ đã mắng bá quan và Đại tướng quân Hà Tiến rồi, huống chi là một Hán Hiến đế yếu đuối nhu nhược trong 1 triều điều mà do một tay Tháo dựng lên. Bản thân Tào Tháo là người theo pháp gia, coi trọng pháp trị. Chính thời trẻ Tào Tháo định ám sát Đổng Trác nên khi về nhà cũng sợ bị ám sát nên có cái nhìn cực đoan với những người phản đối mình. Có thể nói rằng, Tào Tháo tự cho mình đặc biệt trên mọi người, và sẵn sàng hành động bất chấp tất cả vì một lợi ích lớn lao hơn. Cũng giống như Tần Thủy Hoàng, Tào Tháo cai trị mọi người bằng nỗi sợ và sự nghiêm khắc, tuy nhiên sau khi trải qua một thời kỳ dài hỗn loạn do gian thần coi thường kỷ cương phép nước, còn tầng lớp sĩ phu thì chăm vào lý thuyết đạo nghĩa mà không hề có hành động thiết thực nào nhằm kéo đất nước phát triển lên, thì đường lối cai trị khắc nghiệt này phát huy hiệu quả rất rõ rệt.
Có người đặt ra câu hỏi rằng, tại sao Tào Tháo không chủ động cướp ngôi của nhà Hán luôn trong khi đã leo lên tới chức Ngụy vương rồi, điều mà cả tên nghịch thần như Đổng Trác cũng không làm? Câu hỏi này rất khó có câu trả lời chính xác. Nhiều nhà sử học cho rằng Tào Tháo không muốn mang tiếng muôn đời là phản thần của nhà Hán, tuy nhiên mình không đồng ý với ý kiến này. Mình cho rằng loại người như Tào Tháo không có chuyện gì là không dám làm, mặc cho sự suy xét của dòng lịch sử. Bên cạnh đó, việc lật đổ một triều đại, lập ra triều đại mới mạnh mẽ và hợp thời đại hơn hoàn toàn không có gì lai sai trái cả. Có ý kiến lại cho rằng, Tào Tháo không dám xưng đế để giữ yên tình hình chính trị, ý kiến này mình cũng cho là chưa hợp lý lắm. Bởi vì việc Tào Tháo xưng làm Ngụy Vương cũng không khác là mấy, và các thế lực còn lại vào thời điểm như Lưu Bị và Tôn Quyền vốn đã công khai đối địch với Tào Tháo đã lâu. Và với lực lượng của Tào Tháo vào lúc đó, không có lý do gì phải sợ 2 người Tôn Lưu cả.
3. Tào Tháo và những người con
Tào Phi vốn không phải con trưởng của Tào Tháo, con trưởng Tào Tháo là Tào Ngang, chết trong trận đánh với Trương Tú. Chuyện kể rằng Tào Tháo không khóc con trai, mà khóc Điển Vi, làm các tướng ai cũng xúc động, không khác gì điển tích Lưu Bị vất A Đẩu ở Trường Bản. Người vợ tào khang của Tào Tháo vốn họ Đinh, theo Tào Tháo từ lúc còn ở kinh thành, tính tình có cổ quái kiêu ngạo, cũng vì chuyện Tháo làm chết con mà không khóc lóc gì nên giận dữ bỏ về quê ngoại, sau đấy Tháo có mời bao nhiêu cũng không ra nữa. Biện phu nhân mới là thiếp, xuất thân là kỹ nữ thấp hèn, nhưng sau này một lòng theo Tào Tháo, quản chuyện gia sự cho Tháo an tâm đánh đông dẹp bắc một lòng nên lúc về già được tôn làm vương hậu. Có chuyện kể rằng lúc Tháo bỏ chạy khỏi Lạc Dương, người hầu trong phủ đồn xì xào rủ nhau bỏ đi, Biện phu nhân ra nói rằng bình thường Tào quân đối với các ngươi không tệ, nay Tào quân chưa biết ra sao, các ngươi đã bỏ đi hết, ngày mai Tào quân trở về, các người có dám trở lại nhìn mặt ông? Người trong phủ thấy thế không nghĩ đến chuyện bỏ đi nữa mà trở lại làm việc.
Tào Tháo có 25 người con trai, trong đó đáng chú ý chỉ có Tào Phi, Tào Thực, Tào Chương và Tào Xung. Tào Xung là người nhỏ tuổi nhất, được Tào Tháo yêu quí vô cùng, không chỉ thừa hưởng tài trí của cha mà có đức độ của bậc quân vương. Có người trông kho không cẩn thận làm cái yên ngựa quý của Tháo bị chuột cắn mất, sợ bị trị tội nên đến xin Tào Xung nói giúp. Tào Xung nhận lời giúp đỡ, đến lúc đi gặp Tháo thì ra vẻ buồn rầu, Tháo hỏi có chuyện gì, thì Xung bảo rằng có cái áo ưu thích bị chuột cắn nên cho là điểm gỡ, Tào Tháo cười bảo rằng đó là chuyện thường tình, con không cần phải lo lắng. Lát sau người coi kho vào tâu chuyện, Tháo liền bảo áo con ta mặc trên người còn bị cắn được huống chi là yên ngựa trong kho, rồi tha tội cho người đó. Sau này tả hữu báo lại sự tình, Tháo 10 phần tán dương đứa con không chỉ thông minh mà còn nhân đức. Tiếc là vị công tử này bạc phận đoản mệnh, mới 13 tuổi đã bệnh mất, Tào Tháo mười phần thương khóc.
Tào Phi, Tào Thực và Tào Chương đều là con của Biện phu nhân. Sau khi từ hôn với Đinh phu nhân, Biện phu nhân được xem như chính thất. Tào Phi do đó cũng trở thành Thế tử. Tào Chương là thừa hưởng máu liều và khả năng quân sự của cha, tuy nhiên uy dũng có thừa nhưng thiếu đầu óc chính trị. Vì thế Tào Tháo tuy đi đâu đánh trận cũng mang theo nhưng không xem Tào Chương như người có thể kế vị mình.
Trong 2 người Tào Phi và Tào Thực thì Tào Phi thừa hưởng sự gian trá và tàn độc của Tào Tháo, còn Tào Thực có phần phóng túng thích uống rượu kết giao giống Tào Tháo lúc trẻ hơn. Cho nên Tào Tháo có vẻ thích Thực hơn Phi nhiều.
Xin dừng chuyện lại để nói rõ ý này một chút, bên cạnh việc là một tên đại gian thần của nhà Hán, Tào Tháo còn là một nhà thơ lớn của thời đại. Cả Tào Phi và Tào Thực đều thừa hưởng điểm này từ cha mình. Tên tuổi của 3 cha con trong dòng lịch sử chính trị lớn thế nào, thì trong văn đàn địa vị của 3 người cũng không hề kém, có thể nói 3 cha con họ Tào là 3 tác giả tiêu biểu của văn học Trung Quốc cuối thời Đông Hán. Các bài thơ của Tào Tháo được lưu lại khoảng hơn 20 bài, trong đó phần lớn đều rất xuất sắc, không chỉ thể hiện tâm hồn nghệ sĩ mà còn là tư tưởng chính trị của Tháo. Trong thơ của mình, Tháo bày tỏ sự thương cảm đối với người dân trong thời buổi chiến tranh loạn lạc cũng như niềm hy vọng vào một vị minh quân đức độ yêu nước thương dân. Cũng có khi là niềm khắc khoải trong những lúc binh đao thua trận hoặc nỗi niềm của những người lính trên đường hành quân xa.
Tào Thực không chỉ thừa hưởng trọn văn tài của cha, mà còn có thể nói là có phần xuất sắc hơn, cho nên Tào Tháo mười phần thưởng thức. Tào Thực để lại khoảng 80 bài thơ, trong đó có thể chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn đầu thì thể hiện hùng tâm tráng chí, khát vọng được lập công giúp đời. Giai đoạn sau khi Tào Tháo qua đời, Tào Thực bị Tào Phi giam lỏng cho đến chết, nên thơ của Tào Thực trong giai đoạn này sầu thảm u uất, chủ yếu là mượn cảnh tỏ lòng. Có thể nói Tào Thực là nhà thơ lớn và xuất sắc nhất thời Tần Hán. Tào Phi không xuất sắc bằng em trai, nhưng cũng có hơn 40 bài thơ và còn có cả 1 tập phê bình văn học, có thể xem là nhà phê bình văn học đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa. Điều buồn cười và có phần ngang trái là, Tào Thực tuy văn thơ rất giỏi, nhưng trong thơ thì thể hiện chí lớn an bang tế thế, muốn tung hoành thiên hạ, chỉ mượn thơ để gửi nỗi lòng tâm sự. Còn Tào Phi tuy ngồi lên ngai vàng, nhưng chưa bao giờ thể hiện mình là một vị vua tốt, lại dành nhiều thời gian cho văn chương, Phi cho rằng công danh phú quý như nước chảy mây trôi, nhưng văn thơ mới là thứ lưu truyền mãi.
4. Tào Tháo và các bề tôi
Tào Tháo cai trị bằng pháp gia, coi trọng người có tài năng thật sự mà không để ý nhiều đến nhân cách của đối phương. Cho nên phần lớn những thuộc hạ giỏi nhất của Tào Tháo đều là hàng tướng. Chính sách nhân sự như thế này một mặt giúp Tào Tháo nhiều lần đạt được thắng lợi trước những đối thủ lớn, nhưng cũng đồng thời để lại một hậu quả vô cùng lớn về mặt đạo đức. Trừ những thuộc hạ thân cận theo Tào Tháo từ những ngày đầu như Tuân Úc, Quách Gia, Trình Dục... thì rất nhiều những người sau đều theo Tào Tháo vì lợi ích chứ không phải vì sự trung thành. Những trường hợp có thể kể đến như Giả Hủ - khi nào hỏi thì mới trả lời, Tư Mã Ý - dã tâm lớn, Dương Tu - ngông cuồng, tự cao...
Đến khi nắm đại quyền, Tào Tháo chủ động cách xa quần thần, ra vẻ thần bí khó đoán, chủ động cai trị mọi người bằng nỗi sợ chứ không còn hậu đãi như lúc cùng Quách Gia ngồi chung xe. Có người nói Tào Tháo không biết đề phòng Tư Mã Ý, theo mình nghĩ ý kiến này không chính xác lúc nào. Tào Tháo với Tư Mã Ý có mối liên hệ khá thân mật, Tào Tháo được cử làm Hiếu liêm là do cha của Tư Mã Ý giới thiệu. Sau này Tháo cho mời Ý ra làm quan, Ý từ chối, Tháo cho mời mấy lần đến khi được mới thôi. Tuy Ý giỏi ẩn mình che giấu năng lực, nhưng Tháo nhìn ra được bản chất của Ý. Tào Tháo tuy tin tưởng vào năng lực của Ý, nhưng không trao quyền, mà giữ khoản cách (Thời gian Tào Tháo bắt đầu làm Thừa tướng thì Tuân Úc là Thượng Thư lệnh thay Tào Tháo lo việc nội chính, sau này là Dương Tu). Trước khi chết, Tào Tháo có dặn Tào Phi không được trọng dụng Tư Mã Ý, tuy nhiên Tào Phi không nghe, không chỉ tin tưởng hoàn toàn mà còn trao quyền binh vào tay của Ý, dẫn tới việc sau này nước Ngụy mất vào tay nhà Tấn. Có 2 lý do khác khiến cho Tào Ngụy mất nước nhanh vậy, một là các tướng Ngụy trung thành với lợi ích và quyền lực, chứ không trung thành với họ Tào. Thứ 2 là, Tào Phi sau khi trấn áp được Tào Thực và Tào Chương thì không phong quan cho những người anh em của mình, chỉ phong tước ăn lộc rồi giam lỏng họ. Nên ví thử nếu như Phi chia binh quyền cho người trong họ Tào, mỗi người chia ra trấn thủ một nơi thì chắc chắn dù có bị cướp ngôi thì cũng chỉ có họ Tào chứ không có chuyện người khác cướp được.
5. Kết
Trên đây là những dòng chia sẻ có phần dài dòng và loằng ngoằng của mình về Tào Tháo, một người mà cá nhân mình cho rằng đáng được ngưỡng mộ hơn là bị ghét. Nếu mọi người có thảo luận hoặc câu hỏi gì thêm thì cứ cmt ở dưới, mình sẽ cố gắng giải đáp trong kiến thức của mình.

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
officeworker
Bài viết rất thú vị và nhiều thông tin hữu ích
- Báo cáo

Nghĩa Nguyễn
huhu mình bị sao mà ko ai thích đọc bài của mình hết vậy nhỉ?
- Báo cáo

y_nnh_
Bài hay vch. Trong Tam Quốc tính ra tôi thích toàn "phản diện": Tào Tháo, Tư Mã Ý, Chu Du :)))
- Báo cáo

Nghĩa Nguyễn
Cảm ơn bạn 

- Báo cáo
Huy thoi
Bài hay mà bạn, bình thêm các nhân vật khác đi.
- Báo cáo

Nghĩa Nguyễn
Cảm ơn bạn.
Bạn suggest cho mình 1 nhân vật hoặc sự kiện đi.
- Báo cáo

Nghĩa Nguyễn
Cảm ơn bạn.
Bạn suggest cho mình 1 nhân vật hoặc sự kiện đi.
- Báo cáo

Nghĩa Nguyễn
Ủa huhu bài viết mình đầu tư nhiều thời gian và công sức quá mà ko thấy ai đọc buồn z :(
- Báo cáo