Tào Tháo (155-220), tên tự là Mạnh Đức, là một nhân vật lịch sử nổi tiếng thời kỳ Tam Quốc của Trung Quốc. Ông được biết đến phổ biến nhất, thông qua hình tượng một đại gian hùng trong tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung. Trong tác phẩm này, tác giả ủng hộ nhà Hán và Lưu Bị nên nhân vật Tào Tháo được tác giả xây dựng như một nhân vật phản diện, một gian hùng, sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để đạt được mục đích. Tuy nhiên, đây chỉ là một tiểu thuyết dã sử, bảy thực ba hư mà trong đó sự thêm thắc và hư cấu của tác giả là rất lớn và không thể coi như lịch sự. Vì là một trong tứ đại danh tác của văn học cổ điển Trung Hoa, nên độ phổ biến và ảnh hưởng của tác phẩm này, đến văn hóa và xã hội của Trung Hoa nói riêng và các nước Đông Á nói chung là rất lớn, qua đó vô tình làm cho mọi người đọc có những sự hiểu lầm nhất định về nhân vật này. Hôm nay, qua bài viết Tào Tháo và những hiểm lầm lịch sử, mình muốn làm rõ hơn về nhân vật này, cũng như minh oan những hiều lầm mà La Quán Trung và Tam Quốc Diễn Nghĩa đã tạo ra.

1. Xuất thân của Tào Tháo

Đại đa số những người đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa đều không hiểu rõ xuất thân của Tào Tháo, vì dù đã được giới thiệu, nhưng tiểu thuyết không làm rõ điều này dẫn đến có rất nhiều người hiểu nhầm rằng Tào Tháo gây dựng nên giang sơn Bắc Ngụy từ con số không tròn trĩnh, khác với với Lưu Bị là dòng dõi hoàng đế, còn Tôn Quyền được thừa kế giang sơn của cha và anh. Đây là một hiểu lầm khá lớn mà mình xin giải thích rõ. Trước hết, Tào Tháo vốn là họ Hạ Hầu, dòng họ cha ông Hạ Hầu của Tào Tháo cũng không có gì đặc biệt, nhưng truyền đến đời Hạ Hầu Tung thì vô tình được viên hoạn quan Tào Đằng nhận làm con nuôi nên đổi thành Tào Tung. Thời Hán mạt, thế lực của hoạn quan rất lớn, các hoạn quan có thể làm các chức vụ quan trọng trong triều đình, ngoài ra còn có thể lấy vợ, thê thiếp và nhận con nuôi để nối dõi tông đường. Những điều này, tuy trong tiểu thuyết có nhắc sơ qua, nhưng không làm bạn đọc hình dung rõ về gia thế của Tào Tháo được. Thực thế, trong các sứ quân thời Tam Quốc, xuất thân của Tào Tháo của là rất vững chãi, tuy không thể so về độ danh giá như dòng dõi tam công của anh em Viên Thiệu, Viên Thuật nhưng cũng là đại công tử thế lực. Ông nội Tào Đằng của Tào Tháo, nằm trong nhóm thập thường thị, tức là 10 tên hoạn quan có thế lực nhất, lại được phong tước hầu. Tào Đằng tuy là hoạn quan, nhưng phục vụ qua 5 đời vua Hán, có đóng góp vào nhiều sự kiện quan trọng của triều đình, trong đó có việc đưa Hán Hoàn Đế lên ngôi, có thể nói là một đại thần. Tới đời của Tào Tung, tuy không có khả năng làm quan đại thần như Tào Đằng, nhưng nhờ vào thế của cha và việc mua quan bán tước, Tào Tung cũng có thời gian được làm giả thái úy. Từ nhỏ, Tháo vốn đã lớn lên trong sự no ấm và sung túc của một công tử, và có thể kết giao với rất nhiều người thuộc giới tinh hoa quý tộc lúc bấy giờ. Tất cả những điều này, đã tiền đề cho Tào Tháo dễ dàng bước vào con đường chính trị. Như đã nói ở trên, tuy không thể so với dòng dõi chính tông 3 đời tam công như họ Viên, nhưng vượt trội hơn rất nhiều so với tuổi thơ dệt chiếu đóng giày của Lưu Bị hay việc anh em Tôn Sách, Tôn Quyền phải sống dưới trướng của một tên bỉ ổi như Viên Thuật. Nhiều người lầm tưởng lúc Tào Tháo tham dự bàn kế diệt trừ hoạn quan với nhóm người của Hà Tiến thì bị coi thường, không phải vì không có thế lực, mà vì Tào Tháo là cháu nội của hoạn quan. Điều này càng thể hiện rõ hơn về con người Tào Tháo lúc trẻ, sẵn sàng vì đại nghĩa diệt thân.

2. Tào Tháo là một anh hùng

2.1. Tuổi trẻ với khí phách hơn người

Công bằng mà nói, nhìn nhận từ những năm tháng tuổi trẻ của Tào Tháo, ta dễ dàng nhìn thấy được, đây là một con người khẳng khái, anh hùng và có tư duy vượt trội. Ngay từ khi mới 20 tuổi, Tháo thi đỗ Hiếu liêm và được tiến cử ra giữ chức Bắc bộ Úy, tức là một chức quan võ nhỏ đứng đầu việc canh gác cổng thành phía Bắc ở kinh thành Lạc Dương. Tại thời điểm này ông nội Tào Đằng của Tháo cũng đã mất khá lâu, vì tuy lịch sử không ghi lại năm mất của Tào Đằng, nhưng theo tìm hiểu của mình, Tào Đằng mất thời Hán Hoàn Đế, tức là trước năm 167. Tào Tháo ra làm quan khoảng năm 175, nên có thể nói con đường quan lộ của Tào Tháo thăng tiến là nhờ khả năng của bản thân hơn vì lúc này ông nội đã mất, còn bố của Tào Tháo hoàn toàn bất tài. Tại cương vị đầu tiên khi làm quan Tào Tháo không chỉ thể hiện bản thân là người nghiêm khắc khi giữ chức vụ này, mà còn không sợ cường quyền. Sự kiện khiến tên tuổi của ông được biết đến khắp kinh thành là khi chú của viên hoạn quan Kiển Thạc vác dao đi đêm, Tào Tháo đã cho lính bắt vào phủ dùng roi đánh đúng theo luật. Kiển Thạc tuy là đại thần nhưng khi biết Tào Tháo là cháu nội Tào Đằng cũng không làm gì được. Mặc dù có ý kiến cho rằng Tào Tháo dám làm vậy là do gia thế của mình, tuy nhiên rõ ràng trong cái thời buổi mà hoạn quan chuyên quyền, đến mức các viên đại thần trong triều cũng không dám làm gì, thì việc làm của Tào Tháo rõ ràng đánh được đánh giá cao. Năm 29 tuổi, khi cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng nổ ra, Tào Tháo cũng tham gia vào quân triều đình đàn áp cuộc khởi nghĩa như phần lớn các sứ quân khác cùng thời. Tuy không có chiến công hiển hách nào, nhưng với việc thành công đánh bại quân phản loạn, phần lớn các tướng tham gia đều được thăng chức, Tào Tháo cũng được Hán Linh Đế phong Điển quân hiệu úy. Năm Tháo 34 tuổi, triều đình xảy ra cuộc chiến một mất một còn giữa hai phe ngoại thích và hoạn quan. Đại tướng quân Hà Tiến đứng đầu phe ngoại thích, tập hợp một cuộc họp với các quan và chủ định đưa ra một kế sách đi thẳng vào lõi trái đất là mời thứ sử Tây Lương Đổng Trác đem quân vào kinh, chính hành động này đã gây ra hậu quả nghiệm trọng khi trực tiếp tạo ra thời kỳ hỗn loạn khi Đổng Trác cầm quyền. Tào Tháo, lúc này tuy được tham dự cuộc họp, nhưng vẫn bị coi thường vì xuất thân là cháu hoạn quan. Tuy nhiên, lại một lần nữa, Tào Tháo thể hiện tầm nhìn vượt trội của mình, và bản tính cương trực không sợ cường quyền khi là người duy nhất dám chỉ trích kế hoạch này của Hà Tiến. Cần lưu ý rằng lúc này Hà Tiến là Đại tướng quân, chức có thể coi là võ quan cao nhất trong triều đình, lại là cậu của vua Hán Thiếu Đế nữa. Tháo cho rằng, việc mời Đổng Trác vào kinh chỉ làm tình hình thêm hỗn loạn, phe của Hà Tiến hoàn toàn có thể tự tạo ra một cuộc chính biến và chính sự nhu nhược thiếu quyết đoán của đám đại thần này đã tạo điều kiện cho đám hoạn quan chuyên quyền. Tuy nhiên, những lời của Tào Tháo không được đám đại thần đếm xỉa tới. Kết quả, kế hoạch bại lộ, Hà Tiến bị giết chết trước, phe ngoại thích tuy giết được hết bọn hoạn quan nhưng triều đình lại rơi vào tay Đổng Trác. Sự kiện quan trọng tiếp theo của Tào Tháo là cuộc hành thích bất thành đối với Đổng Trác. Tuy chính sử không có đề cập đến sự việc này, nhưng theo mình thì hoàn toàn có thể có thật. Bởi vì sau khi lên làm Thái sư, Đổng Trác phong Tào Tháo lên chức Kiêu kị hiệu úy. Nhưng ngay sau đó không lâu, Tháo lại đột ngột bỏ chức quan mà chạy khỏi Lạc Dương. Không còn lý giải nào hợp lý hơn là việc Tào Tháo đã tính hạ sát Đổng Trác nhưng bất thành. Lúc này quân của Đổng Trác đã áp chế được toàn bộ triều đình, Viên Thiệu phải chạy ra Bắc, nên việc hành thích Đổng Trác rất giống một nhiệm vụ cảm tử. Tuy thất bại nhưng Tào Tháo rõ ràng đây là hành động của một vị anh hùng, có cái tâm trừ bạo yên dân chứ không phải hạng người ích kỷ chỉ biết đến lợi ích bản thân. Đối với các sự kiện tiếp theo về việc gặp gỡ Trần Cung hay giết cả nhà Lã Bá Sa, mình cho là khá thiếu căn cứ và có vẻ giống như La Quán Trung sáng tác ra để hình tượng hóa Tào Tháo hơn là chuyện có thật. Vì nếu như Tào Tháo thực sự giết cả nhà Lã Bá Sa, vậy làm gì có ai chứng kiến để làm chứng. Nó khác hoàn toàn với việc Tào Tháo chủ động bỏ chức quan to ở Lạc Dương để bỏ trốn rồi bị truy nã. Trong sự kiện thập lộ chư hầu hội binh đánh Đổng Trác, mặc dù binh lực và vị thế của mình nhỏ hơn phần lớn các sứ quân khác, nhưng khác vớ sự thờ ơ và nhát gan của nhưng người còn lại, Tào Tháo chủ trương tấn công trực diện vào Đổng Trác, lớn tiếng mắng chửi bọn người kia chỉ biết tụ tập uống rượu, đến hội quân chỉ để phô trương thanh thế. Những sứ quân còn lại như Viên Thiệu, Viên Thuật, Hàn Phức... đều là người nhu nhược, không dám đưa quân của mình vào thí mạng trước, mà chờ đợi sẽ có người khác dại dột làm việc đó thay. Ngoài lề một chút, phải nói rõ về hội nghị thập lộ chư hầu này, để mọi người thấy rõ được sự đối lập của Tào Tháo với các sứ quân còn lại. Theo La Quán Trung thì có 18 lộ chư hầu, nhưng thật ra chỉ có 10 lộ, những người như Đào Khiêm, Mã Đằng, Khổng Dung... không tham gia vào liên minh này. Trong số này, đáng kể nhất phải nói lực lượng của Viên Thiệu và Viên Thuật. Thời nhà Hán vốn trừ thời Cao Tổ Lưu Bang có Tiêu Hà và Tào Tham làm thừa tướng ra thì sau này bỏ chức vụ này, để đảm bảo quyền lực cho Hoàng Đế, cho nên chức vụ cao nhất trong triều đình là Tư Mã, Tư Đồ, Tư Không, gọi là Tam Công. Trước anh em Thiệu, Thuật, nhà họ Viên có 4 đời trước đều làm tới chức tam công cho nên thế lực vô cùng lớn, phải nói là xuất thân của anh em họ Viên vô cùng danh giá. Tại thời điểm đó, Viên Thiệu là Thái thú Bột Hải, còn Thuật là Hậu tướng quân. Đừng nói là Đổng Trác, nếu 2 người anh em này đồng lòng, cùng hội 2 cánh quân với nhau đã có thể áp chế quần hùng, làm bá chủ Trung Nguyên rồi. Tiếc là với xuất phát điểm thuận lợi như vậy, nhưng cả 2 người họ Viên đều bất tài vô năng, lại còn anh em bất hòa. Viên Thiệu là anh ruột của Viên Thuật, nhưng là con của tỳ thiếp, còn Thuật là con của chính thất, nên từ nhỏ Thuật luôn có ý coi thường anh mình. Viên Thiệu xuất thân có phần thấp kém hơn, nhưng vô tình may mắn có người bác là Viên Thành không có con trai, nên Viên Thiệu được Thành nhận làm con nuôi. Cho nên Thiệu trên pháp luật được coi là anh họ của Thuật, được thừa kế chi trên của nhà họ Viên. Đối với người lòng dạ hẹp hòi như Thuật, chuyện này hoàn toàn không chấp nhận được. Sau khi hội binh với nhau, Thiệu được bầu làm Minh chủ, trong lòng Thuật có ý chống đối. 2 người mâu thuẫn với nhau ra mặt vì chuyện lập Lưu Ngu làm hoàng đế. Số là quần hùng tụ tập, nhưng không ai dám tiến quân. Trong bụng ai cũng nghĩ giờ mà đánh nhau thì hao binh tổn tướng, nên họ nghĩ cách trì hoãn. Có người bàn rằng Đổng Trác đang giữ thiên tử, giờ mà tiến đánh thì trái đạo, khác chi phản loạn. Thiệu thấy đúng lắm, họp bàn mãi họ mới nghĩ ra kế sách lập một triều đình khác, vì đằng nào Hán Hiến Đế cũng do Đổng Trác lập nên. Trong số hoàng thân quốc thích, có Châu mục U Châu là Lưu Ngu hội tụ đủ các yếu tố phù hợp. Lưu Ngu vừa là họ hàng gần (ít ra gần hợp rất nhiều so với chú họ cách 7 đời như Lưu Bị), vừa có kinh nghiệm chính trị khi cai quản 1 vùng U Châu rộng lớn, lại là người có tiếng nhân đức, có công gây dựng đất U Châu tuy cận kề với ngoại tộc Hung Nô nhưng khá là yên bình. Một nhân vật khá quan trọng của thời kì này là Công Tôn Toản là thuộc cấp của Lưu Ngu. Viên Thiệu rất hài lòng với chủ trương này, vì nếu Lưu Ngu lên ngôi, Viên Thiệu sẽ là phụ quốc đại thần, nên lập tức cho sứ giả đến U Châu mời. Trong thời gian thư lại, các sứ quân lại tiệc tùng trong sự bất lực của Tào Tháo. Lưu Ngu, chữ Ngu ở đây có nghĩa là thái bình, nhân được thư xong liền cảm thấy món quà từ trên trời rơi xuống chỉ có thể là cứt chim. Lập tức từ chối, cho rằng đây là phản nghịch, đuổi sứ giả về. Viên Thiệu bị từ chối, trong lòng không vui, đi hỏi ý kiến riêng của Thuật. Thuật là người nhát cáy, lúc có mặt quần hùng thì không dám to tiếng, nhưng khi được hỏi riêng thì phản đối ý kiến của Thiệu. Mặc dù vậy, Thiệu vẫn cho rằng mình đúng, nhất quyết cho người đi mời Lưu Ngu 1 lần nữa, lần này với lời lẽ sắt đá hơn, lấy trọng trách giang sơn gấm vóc đặt lên vai y. Lưu Ngu đọc xong thư, liền nói rằng "Nếu còn bức bách ta nữa, ta sẽ bỏ trốn sang Hung Nô". Lúc này Thiệu mới bỏ hẳn ý định. Hội quân đã lâu không có kết quả, suốt ngày chỉ tụ họp uống rượu, Tào Tháo đợi lâu không được thì lớn tiếng mắng hết quần hùng, trong số những người có mặt chỉ có Trương Mạo là cũng có ý đánh. Trương Mạo cấp thêm quân cho Tháo, Tháo đơn độc dùng số quân ít ỏi này tấn công vào Lạc Dương. Tuy thất bại, nhưng có thể thấy rằng trong số các chư hầu hội binh, chỉ có Tào Tháo là thực lòng muốn tiêu diệt Đổng Trác. Có thể nói trong quần anh lần này, tên tuổi Tào Tháo thực sự nổi lên như một thủ lĩnh thực sự, đáng để trông đợi chứ không phải kiểu hổ giấy bất tài như anh em Viên Thuật, Viên Thiệu. Tào Tháo tấn công Lạc Dương 2 lần, một lần dùng quân của mình chiêu mô được từ trước thì thua trận, lần thứ 2 thì quân lính mới chiêu mộ tạo phản, bỏ đi gần hết. Từ lúc này, Tào Tháo mới nhận ra tầm quan trọng của việc có một cứ điểm ổn định và một đoàn quân trung thành. Tháo trở về quê ở đất Bái, chiêu binh mãi mã, tự tạo một đội quân trung thành cho chính mình. Nhờ vào thế lực của gia đình và sự ủng hộ của dân địa phương, Tào Tháo nhanh chóng tập hợp được một lực lượng khoảng 5000 người. Cùng lúc này, ở Duyện Châu có 1 lượng lớn tàn dư quân Khăn Vàng. Cần nói rõ thêm điểm này một chút, thời nhà Hàn, rút kinh nghiệm từ nhà Chu và nhà Tần, triều đình vốn không cho địa phương tổ chức quân đội để tránh việc triều đình trung ương suy yếu không kiểm soát được thế lực ở địa phương. Tuy nhiên, đến khi Khăn Vàng nổi lên, vì cuộc khởi nghĩa này lan rộng vô cùng nhanh và triều đình phản ứng không kịp nên Hán Đế mới đưa ra chiếu chỉ cho phép địa phương được tự tổ chức quân đội. Về mặt tích cực, nó giúp nhà Hán nhanh chóng đàn áp được quân nổi dậy nhưng chính quyết định này đã đẩy nhà Hán đến sụp đổ vì nó tạo nên các sứ quân có thế lực lấn áp được triều đình. Cho nên, mặc dù cuộc chiến Khăn Vàng có rất ít liên quan trực tiếp đến các nhân vật chính của thời kì Tam Quốc như Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền... tuy nhiên không thể không nhắc đến Khăn Vàng khi nói đến Tam Quốc. Trở lại với Tào Tháo, lúc này, tuy thủ lĩnh của Khăn Vàng là 3 anh em Trương Giác đã bị giết, cuộc khởi nghĩa đã xem như bị dấp tắt vì không còn khả năng đe dọa đến triều đình trung ương. Tuy nhiên ở một số địa phương vẫn còn có tàn dư Khăn Vàng chiến cứ, đặc biệt là Duyện Châu. Tào Tháo lúc này dùng số lượng quân ít hơn rất nhiều nhưng đã đánh bại được quân Khăn Vàng để chiếm được Đông Quận. Không lâu sau đó, Thứ sử Duyện Châu là Lưu Đại bị Khăn Vàng giết chết, thuộc hạ của Lưu Đại đồng loạt tôn Tào Tháo lên làm thứ sử. Tào Tháo sau đó cũng quyết chiến với Khăn Vàng tại Thọ Dương. Lúc này, bất chấp việc lực lượng của mình ít hơn đối thủ rất nhiều, Tào Tháo áp dụng chiến thuật phòng ngự và chờ đối phương hết lương sau đó tiến đánh và thành công vang dộn. Tào Tháo làm chủ hoàn toàn vùng Duyện Châu rộng lớn và thu hàng được thêm 10 vạn quân Khăn Vàng khiến thế lực Tào Tháo tăng lên đáng kể. Cá nhân mình đánh giá rất cao chiến công này của Tào Tháo. Vì trong cuộc chiến này, lúc nào quân đội của Tào Tháo cũng ít hơn từ 2 đến 3 lần so với quân đối phương, nhưng Tháo đã giành được thắng lợi cho thấy tài chỉ huy và chí khí của Tào Tháo. Nếu có ý kiến cho rằng quân Khăn Vàng chỉ là quân ô hợp thì nên nhớ rằng, Thứ sử tiền nhiệm trước đó đã thất bại trong việc đánh bại Khăn Vàng, và quân đội của Tào Tháo tập hợp thậm chí còn mới hơn quân Khăn Vàng nhiều.

2.2 Từ Lạm sát ở Từ Châu đến nhận hàng Trương Tú

Có thể nói, sự kiện Từ Châu mới chính là vết nhơ lớn nhất của Tào Tháo, chứ không phải là việc thua trận ở Xích Bích. Sự kiện này bắt đầu từ việc Tào Tháo muốn đón Tào Tung về Duyện Châu. Tào Tung, vốn nổi tiếng bất tài, lại đưa ra quyết định mang 100 rương vàng bạc châu báu gia sản ưỡn ẹo đi qua nửa dải đất của Trung Nguyên để đến đoàn tụ với con. Thứ sử Từ Châu là Đào Khiêm thấy Tào Tung đi ngang phần đất của mình, vốn có lòng tốt phái thuộc hạ đến áp tải, ai ngờ thuộc hạ thấy vàng thì nổi lòng tham, giết chết Tào Tung cướp vàng rồi bỏ trốn lên núi. Tội lỗi giết cha này, Tào Tháo đổ hết lên đầu của Đào Khiêm nên mang quân đi đánh Từ Châu báo thù. Tào Tháo đánh được nhiều thành ở Từ Châu nhưng khi Đào Khiêm rút vào Đan Dương cố thủ thì không công thành được. Tào Tháo trút giận bằng cách lạm sát dân thường Từ Châu, có khoảng 10 vạn thường dân đã chết oan trong sự kiện này. Việc này để lại tiếng xấu ngàn đời cho Tào Tháo, cũng như lý giải nguyên nhân vì sao mà sau này, dân Từ Châu lại sẵn lòng từ bỏ quê hương để chạy theo Lưu Bị xuống phía nam chứ không ở lại với Tào Tháo. Cuộc chiến Từ Châu với Đào Khiêm chỉ dừng lại khi Lã Bố tấn công hậu phương Duyện Châu khiến Tào Tháo phải rút về phòng thủ.
Tuy nhiên, bất chấp sự kiện này, Tào Tháo vẫn không phải là người hẹp hòi so đo, mà trái lại, vô cùng rộng lượng và hào phóng. Sự kiện đối đãi với Quan Vũ có thể coi là tiêu biểu nhất. Có người sẽ nói rằng Tào Tháo đối đãi với Quan Vũ đặc biệt, cũng có thể cho là vậy, tuy nhiên nếu nhìn rộng ra, thì phần lớn các tướng xuất sắc nhất của Tào Tháo đều là hàng tướng: Trương Liêu là thuộc hạ của Lã Bố, Từ Hoảng là thuộc hạ Dương Phụng, Trương Cáp là thuộc hạ Viên Thiệu... Tào Tháo đều dùng hậu lễ đối đãi với hàng tướng, đích thân cởi trói, hơn thế nữa đã dùng thì đều trao trọng bình, không có ý nghi ngờ. Có người sẽ bảo đó chỉ là Tào Tháo đối xử tốt với những người giỏi, tuy nhiên sự thật thì Tào Tháo đối với hàng binh rất khoan dung. Ví dụ như đối với Trương Tú, ban đầu Trương Tú hàng Tào, nhưng chỉ được hơn 10 ngày, sau khi uống rượu xong, hắn nghĩ lại, nửa đêm đến cướp trại của Tào Tháo. Do bị tấn công bất ngờ, Tào Tháo suýt mất mạng, may nhờ có Điển Vi liều chết cứu chủ mới thoát thân được. Không những mất đi danh tướng là Điển Vi, mà còn đứa con trưởng là Tào Ngang và đứa cháu là Tào An Dân cũng chết trận. Tuy nhiên, sau khi ổn định được lại quân đội, Tào Tháo mang quân giao chiến với Trương Tú, buộc Tú phải bỏ chạy về phía nam theo Lưu Biểu. Một thời gian sau, Trương Tú nhận ra Lưu Biểu bất tài, đem quân xin hàng Tào, Tào Tháo chấp nhận, không kế lại mối thù cũ.

2.3 Tứ bề thọ địch

Hành trình bá chủ trung nguyên của Tào Tháo vất vả và cam go hơn các xứ quân khác rất nhiều. Lúc trẻ thì lần lượt công khai đối đầu với Kiển Thạc, Hà Tiến, Đổng Trác, Viên Thiệu. Sau khi làm chủ Duyện Châu và xảy ra sự kiện lạm sát ở Từ Châu, thì gần như Tào Tháo là kẻ thù chung của cả Trung Nguyên. Các sứ quân khác như Viên Thiệu, Viên Thuật, Trương Tú, Lưu Biểu, Mã Đằng, Lã Bố...đều coi Tào Tháo như một đối thủ lớn cần phải bị tiêu diệt trước tiên. Trong tình thế 4 mặt đều là kẻ thù, ta có thể thấy khả năng chịu được áp lực lớn của Tào Tháo rất là đáng nể, đó là kiểu năng lực mà Viên Thiệu, Viên Thuật, Lã Bố, Tôn Quyền, Lưu Bị... không có. Càng đáng nể hơn, khi trong quá trình hình thành bá nghiệp này, Tào Tháo để thua rất nhiều trận, và rất nhiều lần lâm vào tình thế thoát chết trong gan tấc, tuy nhiên Tào Tháo chưa bao giờ mất đi tinh thần, mất đi khí thế của bậc thủ lĩnh. Tào Tháo luôn luôn có niềm tin sắt đá vào bản thân, và dù có thua keo này nhưng sau đó vẫn có thể ổn định lại lực lượng, tinh thần để bày keo khác chứ không đổ bệnh, gục ngã, hay lo lắng mà hóa điên như nhiều sứ quân khác trong lịch sử. Viên Thiệu sau khi thua trận Quan Độ thì ốm chết, dù lực lượng mình lúc đó vẫn còn đủ để cầm chân Tào Tháo một thời gian dài, Lưu Bị sau khi thua trận ở Di Lăng cũng đổ bệnh, đến mức không thể về nổi Thành Đô. Xa xưa hơn một chút có Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ, lúc ở bến Ô Giang, có gặp người lái đò, người này nói biết trước tướng quân sẽ đến đây nên đã đợi ở đây. Tuy nhiên Bá Vương không lên đò, mà nói rằng lúc trước Tịch cùng mấy ngàn anh em Giang Đông vượt Trường Giang, giờ trở về tay trắng một mình không còn mặt mũi nào gặp phụ lão, rồi tự vẫn. Giả sử nếu Tào Tháo lâm vào bước đường này, chắc chắn sẽ nói rằng chỉ cần thoát thân được về thì cơ nghiệp chắc chắn sẽ được khôi phục, lúc ta lấy được thiên hạ chắc chắn sẽ phong lão làm vạn hộ hầu để báo đáp ơn cứu mạng. Trở lại chuyện ở Từ Châu, hậu phương của Tào Tháo là Trương Mạo và Trần Cung tạo phản theo Lã Bố, tôn Lã Bố lên làm thứ sử Duyện Châu. Nói về chức tước cuối thời Hán, thì khá là buồn cười là từ sau khi Đổng Trác lên nắm quyền, loạn sứ quân diễn ra khắp nơi, cho nên muốn làm thứ sử 1 châu, hay thái thú 1 quận, không cần được chính quyền trung ương chấp thuận mà chỉ cần mình chiếm được vùng đó. Bắt đầu từ sự việc Viên Thiệu sợ Đổng Trác, bỏ kinh thành chạy lên Ký Châu sau đó được tôn lên làm Thứ sử. Viên Thiện dâng một tờ biểu đại khái nói được mọi người ủng hộ nên xin triều đình phong cho chức thứ sử, sau đó không cần biết Hán Đế có đồng ý hay đọc được tờ biểu hay không mà tự mình xưng là Thứ sử. Trường hợp của Tào Tháo cũng tương tự như vậy, hơi khác 1 chút ở chỗ lúc này có 2 người đều tự xưng là Thứ sử Duyện Châu, cho nên cả 2 người Lã Bố và Tào Tháo phải một mất một còn. Tào Tháo rút về Duyện Châu, phần lớn đất ở Châu này đều bị Lã Bố chiếm, chỉ còn lại 3 thành trung thành, một phần do quân Tào Tháo đa phần là hàng binh mới theo chưa lâu. 2 bên đụng độ 1 trận lớn ở Bộc Dương, Tào Tháo thua to, suýt nữa bị bắt sống. Sau đó 2 bên cầm nhau đến mùa đông, lương thảo đều cùng hết, tình thế đều nguy nan. Cuối cùng sang năm sau 195, Tào Tháo dùng kế dương đông kích tây thắng 1 trận lớn, sau cùng phá được quân Lã Bố, sau vài tháng thì hoàn toàn tái chiếm Duyện Châu. Sau đó, Tào Tháo tình cờ (?) đón được thiên tử đang chạy loạn, chiếm được thiên cơ. Tháo đưa vua dời đô về Hứa Xương, từ lúc này Tào Tháo chính thức nắm quyền thay vua ban chiếu dụ. Dù lúc này, ai cũng biết khí số nhà Hán đã tận, nhưng vào thời đại này, tính chính danh vô cùng quan trọng, thế nên việc đón được Hiến Đế là vô cùng quan trọng.
Địa bàn của Tào Tháo khi đó là nằm giữa trung nguyên, bốn bề thọ địch: phía bắc có Viên Thiệu ở Ký châu, phía tây có Hàn Toại và Mã Đằng ở Lương châu, phía nam có Trương Tú ở Nam Dương, phía đông nam có Viên Thuật ở Hoài Nam, phía đông có Lã Bố và Lưu Bị ở Từ Châu. Tào Tháo lúc này chọn chiến thuật rất hợp lý khi tập trung vào kinh tế, phát triển và xã hội để có được một đất nước giàu mạnh hơn so với đối thủ. Trải qua một thời gian dài binh biến, Tào Tháo là sứ quân đầu tiên nhìn ra được sự dài hơi của chiến tranh và chăm lo cho cuộc sống của người dân bằng cách phát triển nông nghiệp, cũng như xử lý các vấn đề về hành chính khác. Các cải cách của Tào Tháo đạt được thành công khi ở tại vùng đất của ông nhân dân không chỉ no ấm mà sản xuất còn có thể dư ra đủ để đáp ứng như cầu chiến tranh lâu dài của quân đội. Sau này Tào Tháo liên tiếp thắng trận, cũng một phần nhờ lương thực và hậu cầu tốt hơn so với các đối thủ. Về mặt chính trị, Tào Tháo đánh giá Viên Thiệu vẫn là đối thủ lớn nhất nên tránh đối đầu trực tiếp. Tháo chỉ nhận chức Tư Không, còn chức Đại Tướng Quân thì nhường cho Viên Thiệu. Điều này đã làm Viên Thiệu hài lòng, tạm thời không gây hấn với Tào Tháo. Biên giới phía Tây, Tào Tháo sai Chung Do làm sứ giả đến dùng lời lẽ thuyết phục. Như vậy Tào Tháo có thể rảnh tay đối phó với các sứ quân còn lại. Như đã nói ở trên, Tào Tháo tiếp tục thua một trận lớn khi đối đầu với Trương Tú, nhưng sau đó nhanh chóng lấy lại được thế trận, cuối cùng Trương Tú cũng xin hàng. Trong vòng vài năm, Tào Tháo đã hạ được các đối thủ như Viên Thuật, Trương Tú, Lã Bố, Lưu Bị, và chuẩn bị được một lực lượng đủ mạnh để đối đầu với Viên Thiệu.
Trong cuộc chiến dài hơi với họ Viên, đặc biệt là 2 trận đánh lớn liên tiếp là Bạch Mã và Quan Độ. Tuy không thể nói chính xác rằng tương quan lực lượng giữa 2 là bao nhiêu. Tuy nhiên chắc chắn không con số 7 vạn vs 70 vạn như La Quán Trung miêu tả. Tuy nhiên, có thể ước đoán, số lượng thực tế của 2 bên rơi vào khoảng 4 vạn quân của Tào Tháo và khoảng 10 vạn quân của Viên Thiệu, tức là lực lượng của 2 bênh chênh lệch 2,5 lần. Tuy nhiên, một lần nữa, Tào Tháo lại thể hiện được khả năng quân sự vượt trội của mình khi đánh bại một lực lượng mạnh hơn mình rất nhiều.

2.4 Từ Thừa tướng và Ngụy Vương.

Sau khi đánh bại hoàn toàn Viên Thiệu, Tào Tháo chính thức làm chủ hoàn toàn Trung Nguyên rộng lớn. Các lực lượng chư hầu có địa phận liền kề với ông khi ông mới về Hứa Xương đều đã bị dẹp. Khi đó trong toàn quốc còn lại Lưu Biểu và Lưu Bị ở Kinh châu, Tôn Quyền ở Giang Đông, Trương Lỗ ở Đông Xuyên, Lưu Chương ở Tây Xuyên, Hàn Toại và Mã Đằng ở Tây Lương, Sĩ Nhiếp ở Giao Châu (Giao Châu ở đây là bao gồm lãnh thổ phía Bắc của nước ta). Nhìn chung các sứ quân còn lại, đều có lực lượng yếu hơn rất nhiều so với Tào Tháo, chỉ có thể phòng thủ chứ không có thể tấn công, về cơ bản không áp lực từ bên ngoài nào có thể làm lung lay thế lực của Tào Tháo lúc này. Các vùng đất ở Tây Xuyên, Đông Xuyên, Tây Lương và Giao Châu nhìn chung đều quá xa xôi, không có nhiều ý nghĩa về kinh tế chính trị, và dân số ở các vùng này đa phần là người dân tộc thiểu số, có thể nói là kém phát triển so với người Hán ở Trung Nguyên. Cho nên trong mắt Tào Tháo lúc này chỉ còn phần đất Kinh Châu màu mỡ và rộng lớn của Lưu Biểu và Lưu Bị cần phải chinh phục. Điều này có thể đưa Tào Tháo lên tầm vóc vĩ đại như Hán Cao Tổ hay Hán Quang Vũ đế ngày trước. Nhưng khoan nói đến chuyện nam tiến, thì nhắc một chút về vị thế chính trị của Tào Tháo lúc này. Sau khi đánh bại Viên Thiệu, Tào Tháo được phong (hay đúng hơn là tự phòng mình) làm thừa tướng. Thời nhà Hán, chỉ có Tiêu Hà và Tào Tham được làm thừa tướng. Các đời sau, để hạn chế quyền thần chuyên quyền cũng như củng cố quyền lực của nhà Vua, nhà Hán bãi bỏ chức thừa tướng này và đứng đầu các quan trong triều là 3 chức Tam công. Tào Tháo, cũng giống như Đổng Trác trước đó, tự coi mình đứng trên tất cả, có thể nói là vua trong thực tế lúc này nên đứng ra tự mình nhận chức thừa tướng luôn. Điều này không chỉ khẳng định quyền lực tuyệt đối của Tào Tháo mà còn khẳng định rằng lúc này không có một đối thủ chính trị nào có thể thách thức vị trí của ông ta (khác với thời điểm Đổng Trác xưng làm thừa tướng, có quá nhiều thế lực khác có thể tranh hùng với họ Đổng). Có thể nói, ở tuổi 52, sau khoảng 20 năm trên lưng ngựa, Tào Tháo đã ở 1 đỉnh cao trong cuộc đời binh nghiệp của mình, trước khi rớt xuống vực sâu ở Xích Bích. Có rất nhiều người cho rằng quyết định Nam tiến là sai lầm của Tào Tháo, tuy nhiên theo mình, thì tại thời điểm đó, Tào Tháo không có lựa chọn nào tốt hơn. Với vị thế của mình, ngay khi tiến xuống phía Nam, con trai thứ của Lưu Biểu là Lưu Tông đã nhanh chóng mở cổng thành đầu hàng, dù Kinh Châu hoàn toàn có thể đứng vững trước quân Tào ít nhất là nửa năm. Như vậy đối thủ của Tào Tháo lúc này chỉ còn là Lưu Bị có chưa đến một nửa Kinh Châu và Tôn Quyền, người chưa bao giờ trải qua một cuộc chiến lớn nào. Ý định của Tào Tháo lúc này rất rõ ràng, chiêu hàng Tôn Quyền, tiêu diệt Lưu Bị, coi như là đã thống nhất được lãnh thổ Trung Hoa sau đó về hưu trong ca khúc khải hoàn. Nhiệm vụ tiêu diệt Lưu Bị là nhiệm vụ cấp thiết lúc này, vì đây có thể nói là đại diện cuối cùng của tông thất nhà Hán và phe bảo hoàng. Sau khi tiêu diệt xong, Tào Tháo hoàn toàn có thể kê cao gối ngủ trong tuổi già. Còn đối với Tôn Quyền, nhìn cái cách mà Lưu Tông nhanh chóng đầu hàng, thì có rất ít khả năng vị thiếu chủ này có thể dám chống lại quân Tào, huống chi điều kiện đầu hàng của Tào Tháo rất luôn hậu đãi hàng tướng. Tuy nhiên, 2 điều Tào Tháo không ngờ đến, điều một chính là vị thiếu chủ của Dương Châu không chỉ không đầu hàng mà còn liên minh với Lưu Bị, điều hai là sự hiểm trở của sông Trường Giang.