Đâu đó tui nghe ai đó bóng gió:  Đàn ông tranh đấu - “thiện chiến”. Phụ nữ tranh đấu - “tâm cơ”
Đây rõ ràng là một lối suy nghĩ rập khuôn, đậm chất định kiến giới. Vậy trong tâm lý học, định kiến giới được giải thích như thế nào?
Hãy cùng Kiến tâm lý tìm hiểu “Định kiến giới là gì?” và Nguồn gốc của Định kiến giới nha.

Định kiến giới là gì?

Theo APA - Hội Tâm lý Hoa Kỳ: “Gender stereotypes - Định kiến giới là một khái niệm tương đối cố định, quá đơn giản về thái độ và hành vi được coi là bình thường và phù hợp với các giới tính cụ thể, chẳng hạn như nam, nữ, chuyển giới, phi nhị phân hoặc các bản dạng giới tính khác, trong một nền văn hóa cụ thể.”
Một số định kiến điển hình khác như: “phụ nữ yếu đuối, dịu dàng”, “đàn ông mạnh mẽ, quyết đoán”, “nam giới giỏi kỹ thuật”, hay “nữ giới lái xe kém”
Các đặc điểm của định kiến giới có thể là tích cực hoặc tiêu cực, chính xác hoặc không chính xác, và có thể được đồng ý hoặc bị từ chối bởi các thành viên của nhóm bị định kiến (Robert A. Baron, & Nyla R. Branscombe., 2012).
Định kiến giới thường dẫn đến việc đối xử bất công, phân biệt đối xử, hoặc xem thường đối với những người không tuân theo các định kiến giới truyền thống hoặc không phù hợp với các đối chuẩn giới tính xã hội (Nguyễn Minh Tuấn, 2023).

Tại sao định kiến giới lại xuất hiện và tồn tại trong xã hội?

Sau khi tìm hiểu từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, Kiến đã được khai sáng bởi lời giải thích của các nhà tâm lý học xã hội về nguồn gốc Định kiến giới.
Tui đọc cuốn sách Social Psychology của tác giả Robert A. Baron & Nyla R. Branscombe này.
Trong Chương 6: The Causes, Effects, and Cures of Stereotyping, Prejudice, and Discrimination đã đề cập đến nguồn gốc Định kiến như sau:
Đối với các nhà tâm lý học xã hội thì sẽ có 3 định nghĩa cụ thể được chia ra như sau: - Khuôn mẫu - Stereotyping - Định kiến - Prejudice - Kỳ thị - Discrimination
Ở cách tiếp cận này thì “Định kiến giới” được hình thành từ “khuôn mẫu” sẵn có thông qua học tập xã hội của con người.
Khuôn mẫu là thành phần nhận thức, phản ánh những niềm tin cố hữu về đặc điểm của các nhóm xã hội. Định kiến là thành phần cảm xúc thể hiện cảm xúc tích cực hoặc tiêu cực với một nhóm xã hội.
Những khác biệt sinh học giữa nam và nữ chính là nền tảng hình thành nên các “khuôn mẫu giới”. Từ đó xuất hiện những nhận thức và niềm tin như “nam phải làm việc này, nữ phải làm việc kia”, dẫn đến các thái độ cụ thể đối với sự khác biệt này, tạo nên “định kiến giới”.
Lý thuyết học tập xã hội của Albert Bandura nói rằng con người học thông qua quan sát hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp. Vậy nên thông qua quan sát thì chúng ta học những “định kiến giới” này và truyền từ đời này đến đời khác.
Ngày xưa, phụ nữ thường bị chèn ép bởi những định kiến kiểu: “phụ nữ là những người dễ làm đồi bại và cũng dễ bị đồi bại” - Khổng Tử, “đàn bà đái không qua ngọn cỏ”, “nữ công gia chánh”...
Ngày nay, thì không chỉ phụ nữ mà nam giới cũng trở thành nạn nhân của định kiến giới khi bị gán cho cái mác “gia trưởng mới lo được cho em”, "là đàn ông thì không được khóc", “không là nạn nhân q*td”.
Với xã hội hiện đại hại điện hiện nay thì rất nhiều thông điệp nâng cao bình đẳng giới được hô hào. Nhưng những “định kiến giới” không biến mất mà chỉ khoác lên mình những "lớp vỏ" tinh vi hơn, ẩn giấu dưới nhiều hình thức và sắc thái mới.
Follow Kiến để cùng nhau thức học tâm lý nhoa ❤ #kientamly #kienthuc #tamly #psychology #tamlyhoc
TLTK: 1. Trần Thị Minh Đức (2011), Định kiến và phân biệt đối xử theo giới. Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Robert A. Baron, & Nyla R. Branscombe. (2012). Social Psychology. Pearson Education, Inc. 3. Nguyễn Minh Tuấn. (2023, 05). Ảnh hưởng của định kiến giới đến bất bình đẳng trong giáo dục tại Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bình đẳng giới trong giáo dục, 18-25.