Bạn đang xem bài viết này bằng thiết bị nào?  Smartphone? Máy tính để bàn? Laptop hay máy tính bảng? 
Công nghệ ngày nay đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Chúng ta làm việc, giải trí, sáng tạo - tất cả chỉ bằng vài thao tác chạm.
Nhưng chỉ 50 năm trước, điều này gần như bất khả thi. Các thiết bị công nghệ cá nhân không hề tồn tại. Những cỗ máy tính khổng lồ chỉ xuất hiện trong phòng nghiên cứu và được vận hành bởi các kỹ sư hàng đầu. Chúng không dành cho số đông.
Cho đến khi Steve Jobs và Bill Gates xuất hiện. Một người theo đuổi sự hoàn mỹ, biến công nghệ thành một tác phẩm nghệ thuật. Một người là thiên tài phần mềm, viết lại cách cả thế giới sử dụng máy tính.
Từng là đồng minh, nhưng rồi chính công nghệ đã biến cả 2 trở thành đối thủ không đội trời chung. Steve Jobs giận dữ đến mức gọi Bill Gates là "kẻ không biết xấu hổ". Còn chính Bill Gates thì mô tả cả 2 như những tên trộm.
Vậy chuyện gì đã xảy ra? Tại sao Steve Jobs và Bill Gates lại từ bạn hóa thù? Hãy cùng tìm hiểu ngay sau đây.
img_0

TIÊN PHONG

Trước những năm 1970, máy tính cá nhân là giấc mơ xa vời. Những cỗ máy tính khi ấy to đồ sộ, có thể chiếm diện tích bằng cả một căn phòng. Chỉ có các kỹ sư trình độ cao mới đủ kiến thức để vận hành chúng. Chính phủ và các tập đoàn lớn sử dụng dạng máy tính này cho những công việc phức tạp như quản lý tài chính, kế toán và xử lý dữ liệu quy mô lớn.
Nhưng rồi, tất cả thay đổi khi một phát minh xuất hiện. Nó có tên tiếng Anh là microchip, hay dịch ra là vi mạch.
Đầu những năm 1970, Intel giới thiệu bộ vi xử lý đầu tiên, thu nhỏ toàn bộ bộ não của máy tính vào một con chip bé nhỏ. Điều này mở đường cho sự ra đời của máy tính cá nhân. Một công ty ở Albuquerque, New Mexico tên MITS đã tận dụng công nghệ này để tạo ra một trong những bộ máy tính cá nhân đầu tiên mang tên Altair 8800.
Dù vậy, Altair 8800 còn cách xa mới giống với những chiếc máy tính chúng ta biết ngày nay. Nếu muốn sử dụng nó, bạn phải tự lắp ráp từng bộ phận và hiểu biết về lập trình. Nói cách khác, nó không dành cho người dùng phổ thông và chỉ hấp dẫn những người đam mê công nghệ thực thụ.
Giữa làn sóng thay đổi đó, có một người nhìn thấy cơ hội. Ông ấy mang tên Steve, nhưng là Steve Wozniak. Wozniak lớn lên trong một gia đình truyền thống kỹ thuật, với cha làm việc tại công ty quốc phòng danh tiếng Lockheed Martin. Ngay từ nhỏ, ông đã say mê những bảng mạch, thiết bị điện tử, và dành hàng giờ ngồi bên cha mình để tìm hiểu thêm về công nghệ.
Năm 1975, trong khi đang làm việc tại Hewlett-Packard hay có tên thân quen hơn là HP, Wozniak không ngừng suy nghĩ về một thứ lớn lao hơn – một chiếc máy tính thực sự dành cho mọi người.
Vậy là ông bắt tay vào nghiên cứu. Trong quá trình này, Wozniak khoe với một người bạn thân về phát minh mới nhất của mình. Người bạn ấy cũng có tên Steve. Lần này, Steve Jobs xuất hiện.
Họ đã từng làm việc cùng nhau tại HP. Jobs sau đó còn thiết kế trò chơi điện tử cho Atari. Nhưng khác với một kỹ sư thuần túy chỉ đam mê công nghệ như Wozniak, Jobs sở hữu tầm nhìn, tham vọng và luôn muốn biến ý tưởng thành hiện thực.
Chiếc máy tính của Wozniak tuy còn đơn sơ, nhưng có một điều khiến Jobs ấn tượng. Chỉ cần gõ một từ trên bàn phím, nó sẽ xuất hiện ngay trên màn hình. Ngày nay, điều này nghe có vẻ quá hiển nhiên. Nhưng khi ấy, được tận mắt thấy một thiết bị có thể hiển thị chữ ngay khi bạn gõ là điều vô cùng kinh ngạc.
Ban đầu, Wozniak chỉ xem phát minh của mình như một trò vui. Ông không có ý định bán nó và chỉ đơn giản là sáng tạo vì đam mê. Nhưng Jobs thì khác. Ông thấy một cơ hội. Một cơ hội để biến giấc mơ về máy tính cá nhân thành hiện thực. Và thế là họ bắt đầu hành trình thay đổi thế giới.
Không văn phòng. Không xưởng chế tạo. Không vốn. Tất cả bắt đầu trong gara nhà cha mẹ Steve Jobs. Để có tiền khởi nghiệp, Jobs bán chiếc xe Volkswagen, còn Wozniak bán chiếc máy tính HP của mình.
Họ cần tìm một cái tên cho công ty. Một cái tên đơn giản nhưng dễ nhớ. Jobs chợt nghĩ đến một lần ông ghé thăm một vườn táo. Và thế là Apple ra đời.
Năm 1976, Apple I chính thức ra mắt với mức giá 666.66 USD. Dù đi tiên phong nhưng Apple I vẫn chưa thể trở thành một sản phẩm thương mại phổ biến. Muốn sử dụng, bạn phải nhập lệnh bằng mã code. Đây là một quy trình phức tạp, chỉ dành cho những người thực sự hiểu về máy tính. Bạn phải tự mua bàn phím và màn hình. Mà đa phần, màn hình lúc đó chính là những chiếc TV cũ.
Nói cách khác, Apple I không dành cho tất cả mọi người. Dẫu vậy, nó vẫn có sức hút lớn với các tín đồ công nghệ. Jobs và Wozniak bán hết số Apple I đã tự lắp ráp trong gara.
Nhưng họ biết như vậy là chưa đủ. Nếu muốn Apple thực sự bùng nổ, họ cần một cú nổ lớn hơn. Trong tính toán của Jobs, hình ảnh về một phiên bản nâng cấp toàn diện của Apple I dần hiện lên. Một chiếc máy tính không cần người dùng phải tự lắp ráp, không cần nhập lệnh bằng những dòng mã phức tạp, và quan trọng nhất, nó phải trở thành một sản phẩm mà ai cũng muốn đặt trên bàn làm việc của mình.
Dựa trên thành công của Apple I, Jobs và Wozniak nhanh chóng huy động được 91.000 USD vốn đầu tư và 250.000 USD tín dụng để thực hiện tham vọng lớn hơn.
Một loạt các cải tiến được đưa ra. Không còn cảnh người mua phải tự tìm kiếm bàn phím hay màn hình như trước, Apple II được thiết kế để hoạt động ngay khi mở hộp. Lần đầu tiên, một chiếc máy tính cá nhân đi kèm bàn phím tích hợp, phần mềm lập trình có sẵn. Và đặc biệt, nó có màn hình màu. Vào thời điểm đó, đây là một bước tiến lớn. 
Với Jobs, máy tính không chỉ là một công cụ, nó phải đẹp và cuốn hút. Một chiếc hộp kim loại thô ráp như những chiếc máy tính khác sẽ không đủ. Nó phải gọn gàng, sang trọng và trông thật chuyên nghiệp.
Sau nhiều lần thử nghiệm, Apple II xuất hiện với một thiết kế đơn giản, tinh tế, với lớp vỏ màu kem thanh lịch. Ngày 10 tháng 6 năm 1977, Apple II chính thức ra mắt thị trường. Không còn là một sản phẩm dành riêng cho dân công nghệ, Apple II thực sự trở thành sản phẩm đầu tiên thực sự dành cho người dùng phổ thông. Jobs và Wozniak lúc này đã vươn lên dẫn đầu trong cuộc đua công nghệ.

ĐỒNG MINH HOÀN HẢO

Mọi thành công đều có 2 mặt. Apple II trở thành một cơn sốt, nhưng sự phổ biến của nó cũng kéo theo một làn sóng cạnh tranh dữ dội. Năm 1977, thị trường bắt đầu bùng nổ với hàng loạt công ty gia nhập cuộc đua máy tính cá nhân. Commodore PET, RadioShack Tandy và nhiều thương hiệu khác lần lượt tung ra sản phẩm của riêng mình.
Nhưng có một vấn đề lớn. Những đối thủ này rẻ hơn Apple II rất nhiều. Trong khi Apple theo đuổi triết lý thiết kế cao cấp, những hãng khác lại tập trung vào giảm giá thành để tiếp cận nhiều khách hàng hơn.
Khi các đối thủ tràn vào thị trường với mức giá cạnh tranh, thị phần của Apple dần bị thu hẹp. Jobs biết rằng nếu không có giải pháp, Apple sẽ mất đi lợi thế. Và để giữ vững vị trí dẫn đầu, ông chấp nhận một điều mà trước đó chưa từng nghĩ. Đó là làm việc với đối thủ.
Hai năm trước khi Apple II ra mắt, một bộ đôi khác cũng đang tạo ra những làn sóng mới trong giới công nghệ. Bill Gates và Paul Allen – hai chàng trai đam mê lập trình đã nhận ra thời đại của máy tính cá nhân sắp đến. Trong khi Apple tập trung vào phần cứng, Gates và Allen lại chọn một con đường khác mang tên viết phần mềm.
Ngay từ nhỏ, Bill Gates đã tỏ ra khác biệt. Sinh ra trong một gia đình giàu có ở Seattle, Gates có điều kiện tiếp cận với máy tính từ rất sớm. Khi còn là thiếu niên, ông đã nhanh chóng nắm vững cách vận hành những cỗ máy tính khổng lồ. Đó là bước khởi đầu cho một hành trình dài.
Vào năm 1974, khi Altair 8800 ra mắt, nó chỉ là một hộp kim loại với đèn nhấp nháy, không có màn hình, không có bàn phím và quan trọng nhất, không có phần mềm. Gates và Allen biết rằng nếu muốn thực sự hữu dụng, Altair cần một ngôn ngữ lập trình. Đây chính là cơ hội có một không hai. Rất nhanh chóng, họ lao vào làm việc trước khi thị trường nhận ra cơ hội
Với quyết tâm đó, Gates và Allen đã phát triển một phiên bản phù hợp dành cho Altair. Họ không có Altair để thử nghiệm, tất cả chỉ là tính toán trên giấy, nhưng họ vẫn mạo hiểm tiếp cận trực tiếp MITS để trình bày ý tưởng của mình. Gates để Allen, người trông già dặn hơn đứng ra thuyết phục để tạo được sự tin tưởng hơn.
Mạo hiểm đôi khi mang lại phần thưởng xứng đáng. Sau khi chứng minh được giá trị của phần mềm mình, Gates đưa ra một quyết định thay đổi cả cuộc đời ông: bỏ học Harvard.
Năm 1975, ông cùng Allen thành lập một công ty nhỏ trong một trung tâm thương mại ở Albuquerque, New Mexico, với cái tên Microsoft. Ban đầu, công ty chỉ tập trung vào phát triển phần mềm cho Altair và những chiếc máy tính sơ khai khác. Nhưng không chỉ muốn viết phần mềm, Gates muốn Microsoft trở thành trụ cột của ngành công nghiệp máy tính.
Năm 1977, cơ hội vàng xuất hiện. Steve Jobs cần phần mềm cho Apple II.  Gates thấy đây chính là cơ hội để đưa Microsoft lên một tầm cao mới. Vấn đề của Apple II rất rõ ràng. Nó mạnh mẽ, dễ sử dụng, nhưng lại không tương thích với phần mềm doanh nghiệp. Trong khi đó, máy tính cá nhân đang dần trở thành công cụ không thể thiếu trong môi trường làm việc. Gates biết rằng nếu có thể giúp Apple II chạy được các chương trình như xử lý văn bản và bảng tính, ông có thể biến nó thành một cỗ máy phục vụ cả doanh nghiệp và kiếm được rất nhiều tiền từ đó.
Vậy là Bill Gates và Steve Jobs bắt tay nhau. Microsoft nhanh chóng phát triển một bộ ứng dụng văn phòng có tên Applesoft. Từ đó, giúp Apple II có thể xử lý các con số, sắp xếp dữ liệu và thậm chí là vẽ hình ảnh. Với Applesoft, Apple II không còn chỉ là một chiếc máy tính chơi game hay gõ lệnh, nó trở thành một công cụ mạnh mẽ phục vụ cho công việc.
Nhờ phần mềm của Microsoft, doanh số Apple II bùng nổ. Từ 600 chiếc năm 1977, chỉ sau hai năm, con số này đã tăng lên 35.000 chiếc. Lúc này, Apple đã không chỉ là một công ty khởi nghiệp, mà đã thực sự trở thành ông lớn trong ngành công nghệ.
Còn với Microsoft, họ cũng được hưởng lợi lớn với đại thành công của Apple. Năm 1980, AppleSoft trở thành sản phẩm bán chạy nhất của Microsoft và mang về khoản lợi nhuận khổng lồ, biến Microsoft từ một công ty phần mềm nhỏ bé thành một thế lực đáng gờm. Doanh thu của Microsoft tăng gấp ba lần chỉ trong một năm. Có lúc, Bill Gates đùa rằng ông có nhiều người làm việc cho Apple hơn Jobs.
Nhưng tất nhiên là Gates chưa hài lòng. Không chỉ là đồng minh với Apple, ông còn nhắm đến gã khổng lồ công nghệ lớn nhất thế giới thời bấy giờ – IBM.
Nếu có một cái tên nào đủ sức lay chuyển toàn bộ ngành công nghiệp máy tính, thì đó chính là IBM. Công ty này đã xây dựng danh tiếng vững chắc với hàng loạt sản phẩm đột phá trong nhiều thập kỷ. Họ tự tạo ra chiếc máy tính đầu tiên từ tận năm 1944. Sáng tạo ra bộ nhớ DRAM vào năm 1966. Cho ra đời máy tính đầu tiên sử dụng bộ nhớ ảo năm 1970. Và vào thập niên 80 khi IBM tuyên bố sẽ sản xuất máy tính cá nhân, mọi đối thủ hiểu rằng cuộc chơi đã thay đổi.
Nhưng có một vấn đề lớn: IBM cần một hệ điều hành. Gates biết rõ IBM mạnh yếu ra sao, và ông không bỏ lỡ cơ hội này. Ban đầu, IBM chỉ tìm kiếm một ngôn ngữ lập trình, nhưng Gates thuyết phục họ rằng hệ điều hành mới là thứ quan trọng hơn cả.
Vấn đề là, Microsoft không có hệ điều hành nào cả. Nhưng điều đó không quan trọng. Gates biết chính xác phải làm gì. Ông tìm mua lại một hệ điều hành hoàn chỉnh từ một công ty phần mềm nhỏ, đổi tên nó thành MS-DOS và sẵn sàng gửi đến IBM.
Nhưng điều tuyệt vời nhất là Microsoft không bán độc quyền cho IBM. Gates thương lượng được một hợp đồng cho phép Microsoft cung cấp MS-DOS cho bất kỳ công ty nào khác. Khi ấy, không nhận ra tầm quan trọng của phần mềm. IBM tập trung vào phần cứng và không xem hệ điều hành là yếu tố cốt lõi. Vì vậy, họ chấp nhận thỏa thuận này mà không hề lường trước hậu quả.
Điều này gián tiếp giúp Gates tạo ra một con quái vật. Chỉ trong vài năm, Microsoft trở thành đế chế phần mềm thống trị ngành công nghệ. Mỗi chiếc máy tính cá nhân bán ra đều phải có một bản sao của MS-DOS, và tiền cứ thế chảy vào túi Microsoft.
Trong khi đó, Steve Jobs từ xa quan sát sự thành công của Bill Gates với những nỗi lo riêng.

HAI TÊN TRỘM Ở XEROX

Năm 1981, khi IBM PC xuất hiện và làm mưa làm gió trên thị trường, Apple bị đẩy vào thế khó. Chiếc máy tính của IBM chỉ có giá 1.500 USD, trong khi Apple II lên tới 2.500 USD.
Steve Jobs hiểu nếu không tìm ra một bước đột phá mới, IBM sẽ nuốt trọn thị phần của Apple. Nhưng ông không muốn chỉ đơn giản là cải tiến Apple II. Ông cần một thứ có thể thay đổi hoàn toàn cuộc chơi.
Và cơ hội đến từ một cái tên không ai ngờ tới. Thời điểm đó, Xerox là một trong những tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới. Họ muốn đầu tư vào Apple. Nhưng điều mà Jobs quan tâm không phải là tiền bạc, mà là thứ mà Xerox đang nghiên cứu. Bằng một thỏa thuận khôn ngoan, Jobs thuyết phục Xerox cho ông một chuyến tham quan bí mật đến phòng thí nghiệm nổi tiếng nhất của họ – Xerox PARC.
PARC hay Palo Alto Research Center là nơi Xerox tập trung những bộ óc giỏi nhất để phát triển công nghệ tương lai. Khi Jobs đặt chân đến đây, ông không ngờ bản thân sắp nhìn thấy thứ sẽ định nghĩa lại cả ngành công nghệ máy tính.
Trong một góc phòng thí nghiệm, một chiếc máy tính mang tên Alto đang chạy thử nghiệm. Nhưng đây không phải là một chiếc máy tính thông thường. Nó không dùng dòng lệnh khô khan như các máy khác. Nó có một giao diện đồ họa hoàn chỉnh. Những biểu tượng trông giống như thế giới thực. Một thùng rác dùng để xóa tệp tin. Một tập tài liệu xuất hiện dưới dạng tờ giấy. 
Và đặc biệt, trên màn hình, không cần phải nhập từng dòng lệnh như hệ điều hành MS-DOS. Mọi thao tác đều có thể thực hiện bằng cách nhấp chuột.
Jobs chết lặng. Đây chính là thứ mà ông đã tìm kiếm bấy lâu nay. Đây là cách mà máy tính sẽ thay đổi thế giới.
Trở về Apple, Jobs không lãng phí một giây nào. Ông tập hợp đội ngũ kỹ sư xuất sắc nhất, rút họ khỏi Apple II và giao cho họ một nhiệm vụ duy nhất: tạo ra một chiếc máy tính có giao diện đồ họa hoàn chỉnh lấy cảm hứng từ Alto của Xerox.
Chưa hết, Jobs muốn nó phải hoàn hảo từ trong ra ngoài. Lúc đó, chuột máy tính vẫn còn là một thiết bị cồng kềnh, với ba bánh xe thô kệch và chi phí sản xuất đắt đỏ. Jobs không chấp nhận điều đó. Ông yêu cầu một con chuột tối giản với chỉ có một nút duy nhất. Và từ đó, khái niệm nhấp đúp chuột (double-click) ra đời. Với một thiết kế nhỏ gọn, bền bỉ và giá thành thấp, con chuột này chính thức đưa giao diện đồ họa từ phòng thí nghiệm ra thị trường. Đồng thời, mở ra một kỷ nguyên mới cho máy tính cá nhân. Lấy cảm hứng từ giống táo mà Jobs yêu thích, chiếc máy tính đó được đặt tên là Macintosh
Để tìm phần mềm cho Macintosh, Jobs tìm đến một người quen cũ là Bill Gates. Trong quá trình cộng tác, Gates ngay lập tức bị thu hút bởi giao diện đồ họa của Macintosh. Một hệ điều hành không còn bắt người dùng nhập từng dòng lệnh, mà có thể di chuyển cửa sổ, mở nhiều chương trình cùng lúc. Tất cả chỉ bằng vài cú click chuột. Đó là tương lai của máy tính cá nhân.
Gates đồng ý viết phần mềm cho Macintosh. Nhưng trong đầu ông, một suy nghĩ khác bắt đầu hình thành. Đây không chỉ là một cơ hội hợp tác. Đây là cơ hội để thống trị toàn bộ ngành công nghiệp phần mềm.
Ngay khi rời khỏi Apple, Gates lập tức triệu tập đội ngũ kỹ sư của mình. Microsoft cần một giao diện đồ họa của riêng họ. Và phải làm điều đó trước khi Macintosh ra mắt.
Dự án mới được đặt tên Interface Manager. Mục tiêu rất rõ ràng: đánh bại Apple ngay trên sân chơi của chính họ. Gates vừa muốn tạo ra một sản phẩm cạnh tranh, đồng thời có thể chạy trên mọi máy tính cá nhân chứ không chỉ trên một dòng máy duy nhất như Macintosh.
Tháng 11 năm 1983, Bill Gates tổ chức một sự kiện đặc biệt và công bố một hệ điều hành mới. Interface Manager chính thức có một cái tên mới. Một cái tên sẽ thay đổi ngành công nghệ mãi mãi: Windows.
Khi biết tin, Jobs như phát điên. Chỉ còn vài tuần nữa là Macintosh ra mắt. Công nghệ mà ông đã dành ba năm cuộc đời để phát triển, giờ đây không còn là duy nhất nữa.
Nhưng điều khiến ông tức giận hơn cả không phải là việc Microsoft sao chép ý tưởng, mà là người đã làm điều đó. Bill Gates, người mà Jobs từng xem là một đồng minh, giờ đây, đã chính thức tuyên chiến với ông.
Không chần chừ, Jobs ra lệnh gọi Gates đến trụ sở Apple ngay lập tức. Không phải là kẻ dễ bị khuất phục, Gates bước vào trụ sở Apple một mình, không mang theo bất kỳ trợ lý nào. Với Gates, đây không phải là một buổi đàm phán. Đây là một trận chiến mà ông sẵn sàng đối mặt.
Jobs ngồi chờ sẵn trong phòng họp, bao quanh là mười nhân viên cấp cao của Apple. Tất cả đều háo hức chứng kiến màn đối đầu này, như thể họ đang chờ xem một trận quyền anh nảy lửa.
Và Jobs không làm họ thất vọng. Ngay khi Gates bước vào, Jobs lập tức nổ tung với tông giọng giận dữ:
“Ông đã lừa chúng tôi! Tôi đã tin tưởng ông! Và giờ, ông đánh cắp ý tưởng từ chúng tôi!”
Những người trong phòng họp nín thở. Họ biết Jobs sẽ bùng nổ, nhưng không ai ngờ rằng cơn giận của ông lại dữ dội đến vậy.
Gates vẫn bình tĩnh, ngồi im, không hề nao núng, ánh mắt không rời khỏi Jobs. Khi cơn giận của đối phương vừa dứt, Gates mới lạnh lùng lên tiếng.
“Steve ạ, tôi nghĩ rằng có nhiều hơn một cách để nhìn nhận sự việc này. Tôi nghĩ chúng ta nên nhìn nhận sự việc này như sau: chúng ta có một ông hàng xóm rất giàu có tên là Xerox, tôi quyết định đột nhập vào nhà ông ta để lấy trộm chiếc tivi và phát hiện ra rằng ông đã lấy nó mất rồi”.
Căn phòng lặng đi. Mọi người có mặt nhận ra rằng Jobs đã bị phản đòn. Từ giây phút ấy, cuộc chiến giữa hai thiên tài chính thức bắt đầu.
Sau đó, Jobs còn công khai nhận xét: "Họ đã sao chép chúng tôi một cách trắng trợn, vì Gates không hề biết xấu hổ."
Đáp lại, Gates chỉ nhún vai và mỉa mai: "Nếu ông ấy thực sự tin như vậy, thì có lẽ ông ta đã hoàn toàn chìm đắm trong thế giới ảo tưởng của chính mình rồi."
Gates cũng chẳng bao giờ đánh giá cao tính cách của Jobs. Ông xem Jobs là một người "có gì đó lệch lạc về bản chất", một người với những khiếm khuyết "kỳ lạ đến khó hiểu".
Năm 1996, khi xuất hiện trong bộ phim tài liệu của PBS mang tên "Triumph of the Nerds", Jobs không ngần ngại công khai chỉ trích sản phẩm của Microsoft là "hàng kém chất lượng", không có dấu ấn sáng tạo. Không những vậy, Jobs nhấn mạnh:
"Vấn đề duy nhất của Microsoft là họ hoàn toàn không có gu thẩm mỹ. Họ không có chút thẩm mỹ nào cả. Tôi không nói về một điều nhỏ nhặt, mà là về một vấn đề lớn. Họ không có ý tưởng nguyên bản, và sản phẩm của họ chẳng mang một chút tinh thần văn hóa nào."
Câu nói ấy như một lời tuyên chiến. Không chỉ về công nghệ, nó đã trở thành một cuộc chiến về triết lý, về danh dự, và về cái tôi của hai thiên tài.
Nhưng mọi rạn nứt đều có khúc ngoặt.

MÀN TÁI HỢP KHÔNG NGỜ

Trở lại những năm 1980, Steve Jobs quyết định đặt cược tất cả vào Macintosh.
Để tạo ra một cơn sốt thực sự, ông không chỉ đơn thuần tung ra sản phẩm, mà muốn biến nó thành một biểu tượng văn hóa.
Tại sự kiện thể thao lớn nhất nước Mỹ là Super Bowl, Apple tung ra một đoạn quảng cáo kỳ lạ kéo dài 1 phút do đạo diễn Ridley Scott thực hiện. Không có hình ảnh nào của chiếc Macintosh xuất hiện, nhưng nó lại khiến tất cả mọi người phải chú ý với thông điệp: “Vào ngày 24 tháng 1, Apple Computer sẽ giới thiệu Macintosh. Và bạn sẽ thấy vì sao năm 1984 sẽ không giống như 1984.”
Rồi ngày đó cũng đến. Macintosh chính thức ra mắt với mức giá 2.495 USD, tương đương khoảng 7.500 USD ngày nay. Đây là chiếc máy tính cá nhân đắt nhất trên thị trường, nhưng điều đó không ngăn được người dùng đổ xô đi mua.
72.000 chiếc Macintosh được bán ra chỉ trong vài tháng đầu tiên. Những ai sở hữu nó đều bị mê hoặc bởi giao diện đồ họa trực quan và thao tác dễ dàng. Không còn những dòng lệnh khó hiểu, mọi thao tác giờ đây chỉ cần một cú nhấp chuột. Một thế hệ người dùng trung thành ra đời, và cái tên “Cult of Mac” chính thức hình thành.
Nhưng chỉ vài tháng sau, giấc mơ đẹp bắt đầu lung lay. Macintosh trông bắt mắt, nhưng bên trong nó có một vấn đề lớn. Vì muốn tạo ra một sản phẩm không có tiếng ồn, Jobs kiên quyết loại bỏ quạt tản nhiệt và ổ cứng. Điều này lại khiến các linh kiện bên trong quá nóng, dẫn đến hệ thống bị treo và hỏng hóc liên tục.
Người dùng bắt đầu mất kiên nhẫn. Một năm sau, doanh số Macintosh tụt dốc không phanh. Apple lần đầu tiên trong lịch sử báo lỗ.
Nhưng với Jobs, điều đó không quan trọng. Ông vẫn tiếp tục đổ tiền vào Macintosh, bất chấp thực tế rằng Apple II mới là nguồn sống của công ty. Điều này khiến Wozniak thất vọng. Giữa hai người từng là đồng đội thân thiết, khoảng cách nay ngày càng lớn. Wozniak cảm thấy mình bị lãng quên. Ông không còn nhận ra công ty mà mình đã cùng sáng lập. Wozniak quyết định rời khỏi Apple. Từ đó, Jobs mất đi người đồng đội quan trọng nhất . Và ông sẽ phải đối mặt với những thử thách tiếp theo chỉ một mình.
Ngày 20 tháng 11 năm 1985, Microsoft chính thức ra mắt Windows. Không chỉ là một hệ điều hành, Windows được xem như một hệ sinh thái phần mềm dành cho doanh nghiệp. Kế toán, thanh toán hóa đơn, quản lý hàng tồn kho – tất cả đều có thể thực hiện trên Windows. 
Và điều quan trọng nhất? Nó rẻ hơn Macintosh rất nhiều. Macintosh được kỳ vọng sẽ bán 150.000 chiếc vào dịp Giáng sinh, nhưng chỉ có 50.000 chiếc được tiêu thụ. Trong khi đó, máy tính chạy Windows tăng trưởng theo cấp số nhân.
Doanh số giảm, lợi nhuận sụt giảm, căng thẳng trong nội bộ Apple leo thang đến đỉnh điểm. Cuối cùng, hội đồng quản trị đưa ra quyết định không thể đảo ngược. Steve Jobs bị đuổi khỏi chính công ty mà mình đã sáng lập. Ông rời khỏi Apple, mang theo một trong những nỗi cay đắng lớn nhất cuộc đời.
Sau sự kiện chấn động này, Apple lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Không còn người dẫn đường, ban lãnh đạo mất phương hướng, nội bộ hỗn loạn, giá cổ phiếu lao dốc, thị phần toàn cầu tụt từ 20% xuống còn 3%.
Trong khi đó, Bill Gates tiếp tục thống trị thế giới công nghệ. Windows 95 ra mắt. 100 triệu bản được bán ra chỉ trong 4 ngày. Ở tuổi 39, Bill Gates trở thành người giàu nhất thế giới, với khối tài sản 12 tỷ USD. 
Máy tính cá nhân không còn là thứ xa xỉ. Nó xuất hiện ở khắp mọi nơi. Và tất cả đều chạy Windows. Chỉ có một cái tên duy nhất vẫn còn đứng ngoài cuộc chơi. 
Năm 1997, Apple đứng bên bờ vực phá sản. Trong khi đó, Steve Jobs vẫn không ngừng theo đuổi giấc mơ công nghệ của mình. Ông thành lập NeXT, một công ty máy tính với mục tiêu tạo ra hệ điều hành tiên tiến hơn.
NeXT không thành công như kỳ vọng, nhưng nó có một thứ khiến Apple chú ý. Một hệ điều hành mới, với nền tảng vững chắc và tiềm năng thay thế hệ điều hành cũ kỹ của Apple.
Trong nỗ lực tuyệt vọng để cứu lấy công ty, Apple đưa ra một đề nghị không thể chối từ: mua lại NeXT với giá 429 triệu USD, kèm theo 1,5 triệu cổ phiếu Apple. Và quan trọng nhất, Steve Jobs trở lại Apple với vị trí CEO.
Ngay lập tức, Jobs bắt tay vào việc tái thiết. Ông nhận ra tình hình thật sự tồi tệ. Apple đang trên đà sụp đổ. Sẽ có một người duy nhất có thể giúp ông.
Tháng 8 năm 1997, Steve Jobs bước lên sân khấu tại hội nghị Macworld. Hàng nghìn người hâm mộ Apple háo hức chờ đợi một thông báo lịch sử.
Sau khi uống ngụm nước để lấy bình tĩnh, Jobs chia sẻ: "Hôm nay, tôi xin công bố một trong những mối quan hệ đối tác đầu tiên của chúng tôi. Và đó là Microsoft."
Và rồi, Steve Jobs xuất hiện trên màn hình.
Cả hội trường sững sờ. Steve Jobs, người từng chỉ trích Microsoft không có "gu thẩm mỹ", người đã từng tuyên chiến với Bill Gates – giờ đây bắt tay với kẻ thù cũ.
Những tưởng đây là quyết định khó hiểu. Nhưng thực tế, tất cả đều có nguyên do. 
Vào thời điểm đó, Microsoft đang ở đỉnh cao quyền lực. Nhưng các cáo buộc, sự giám sát gắt gao cũng ngày một gia tăng. Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã mở cuộc điều tra chống độc quyền lớn nhất trong lịch sử công nghệ, cáo buộc Microsoft bóp nghẹt cạnh tranh, ép các nhà sản xuất máy tính phải sử dụng Windows, và triệt tiêu các công ty phần mềm nhỏ.
Gates hiểu rằng nếu Apple sụp đổ, Microsoft sẽ thực sự trở thành gã khổng lồ không có đối thủ. Và đó chính là điều Bộ Tư pháp đang tìm cách ngăn chặn. Một thị trường công nghệ chỉ có duy nhất Microsoft sẽ là mồi ngon cho những án phạt, thậm chí là nguy cơ bị buộc phải chia tách công ty.
Một Apple yếu nhưng vẫn tồn tại sẽ có lợi hơn một Apple biến mất hoàn toàn. Nó giúp Microsoft tránh bị xem là độc quyền, đồng thời vẫn giữ lại một đối thủ để duy trì thế cân bằng.
Vậy là giao kèo được đưa ra. Bill Gates đồng ý đầu tư 150 triệu USD vào Apple, đổi lấy 150.000 cổ phiếu không có quyền biểu quyết. Đổi lại, Apple sẽ tiếp tục hỗ trợ Microsoft Office trên nền tảng Mac.
Gates không cứu Jobs, ông cứu chính mình. Tuy nhiên dù là vì lý do gì, Apple đã có một cơ hội để làm lại từ đầu. Và Steve Jobs biết chính xác phải bắt đầu từ đâu.
Lúc đó, cả ngành công nghệ chỉ quan tâm đến phần cứng, tốc độ xử lý, bộ nhớ. Nhưng Jobs hiểu rằng máy tính phải đẹp, phải có hồn. Nó không thể là một hộp kim loại nhàm chán.
Và thế là iMac ra đời. Nó là sự kết hợp giữa tính thẩm mỹ và công nghệ tiên tiến khi được kết nối internet ngay từ đầu
Ngày 15 tháng 8 năm 1998, iMac chính thức ra mắt. Thị trường bùng nổ. Doanh số iMac đạt mức 800.000 chiếc chỉ trong năm đầu tiên. Không ai còn nghi ngờ về tương lai của Apple nữa. Họ đã quay trở lại.
Và Steve Jobs chỉ mới bắt đầu. Từ năm 2001 và 2008, Apple tiếp tục ra mắt hàng loạt sản phẩm mang tính cách mạng. iPod, iPhone, Macbook, iPad, tất cả đều những sản phẩm sẽ thay đổi cả thế giới công nghệ. Apple trở thành công ty đầu tiên trong lịch sử chạm mốc giá trị một nghìn tỷ USD vào năm 2018. 
Quan trọng nhất, không chỉ là những sản phẩm, Steve Jobs để lại để lại một tư duy, một cách nhìn mới về công nghệ. Không chỉ là những cỗ máy, các thiết bị điện tử phải đơn giản, đẹp, tối ưu và dễ sử dụng. Nhờ triết lý ấy, chúng ta mới có thể thoải mái sáng tạo trên hệ sinh thái Apple như ngày nay.
Ở phía bên kia chiến tuyến, Microsoft vẫn là gã khổng lồ công nghệ lớn thứ hai thế giới. Tuy nhiên, Bill Gates gặp một vấn đề lớn. Ông quá thành công, nhưng không được yêu mến. Steve Jobs được ca ngợi như một thiên tài sáng tạo, một người thay đổi cả thế giới công nghệ. Còn Bill Gates bị xem như một kẻ độc quyền, một doanh nhân lạnh lùng thực dụng, người dùng chiến lược thương mại để đánh bại đối thủ thay vì sáng tạo ra những sản phẩm đột phá.
Gates không muốn chỉ là người giàu nhất. Ông muốn được nhớ đến như một vĩ nhân. Và để làm điều đó, ông cần thay đổi cách thế giới nhìn nhận mình.
Năm 2000, Gates rút khỏi Microsoft, thành lập Quỹ Bill & Melinda Gates với số vốn 100 triệu USD. Nhưng đây không chỉ là một quỹ từ thiện bình thường. Nó nhanh chóng trở thành tổ chức từ thiện tư nhân lớn nhất thế giới với sứ mệnh giải quyết những vấn đề cấp bách nhất của nhân loại. Gates đổ hàng tỷ đô la vào nghiên cứu y học, cung cấp vắc-xin cho hàng triệu trẻ em, và tài trợ cho các sáng kiến xóa đói giảm nghèo.
Thời gian trôi qua, người ta quên dần hình ảnh một Bill Gates độc quyền, lạnh lùng của thập niên 90. Thay vào đó, ông được nhớ đến như một người đã cống hiến tài sản của mình để thay đổi cuộc sống của hàng triệu người.
Còn về mối quan hệ với Steve Jobs, Bill Gates đã cải thiện cái nhìn dù đôi chút hằn học: “Ông ấy không bao giờ là người hiểu biết nhiều về công nghệ, nhưng ông ấy có khả năng thiên bẩm đáng kinh ngạc về cái gì nên làm và sẽ mang lại kết quả tốt”.
Nhưng Steve Jobs thì vẫn công khai nhận xét khi Gates nghỉ hưu: “Bill thực chất là một người thiếu tính sáng tạo và ông ấy chẳng bao giờ phát minh ra được cái gì cả. Đó là lý do vì sao đến giờ ông ấy cảm thấy thoải mái với việc làm từ thiện hơn là tập trung vào công nghệ. Ông ấy chỉ đơn giản là người thích đánh cắp ý tưởng một cách đáng xấu hổ từ người khác”.

LỜI KẾT

Năm 2011, Steve Jobs qua đời sau một thời gian dài chiến đấu với bệnh ung thư. Nhưng những gì ông để lại vẫn tiếp tục thay đổi cả thế giới, nơi mà những thứ tưởng như viễn tưởng lại trở thành hiện thực. Và quan trọng nhất, ông khiến chúng ta tin vào điều đó.
Năm 2025, Apple đã có giá trị lên đến hơn 3500 tỷ Đô. Trong khi đó, Microsoft của Bill Gates  vẫn luôn so kè với Apple với giá trị hơn xấp xỉ 3 nghìn tỷ. Nếu Steve Jobs khiến thế giới yêu thích công nghệ, thì Bill Gates giúp thế giới hiểu rằng phần mềm chính là thứ mang lại linh hồn cho nó.
Họ từng là đồng minh. Họ từng là đối thủ không đội trời chung. Nhưng cuối cùng, cả hai đã cùng nhau định hình thế giới công nghệ như chúng ta biết ngày nay.
Sẽ chẳng có Apple nếu không có Microsoft. Và sẽ chẳng có Microsoft nếu không có Apple.
Hai con đường. Hai triết lý. Hai huyền thoại. Nhưng họ cùng có chung một sứ mệnh. Đó là định nghĩa lại cuộc sống và đưa nhân loại tiến xa hơn bao giờ hết.