Phát triển mới trong lý thuyết nhân cách:

Có thể hiểu rõ hơn vị trí của phân tâm học nếu lưu ý tới xu hướng phát triển mới trong các lý thuyết nhân cách sau Freud. Các xu hướng đó bao gồm:
1) Sự dịch chuyển từ quan điểm “tự nhiên” của Freud tới quan điểm “giáo dục” tới quan điểm “tương tác” giữa tự nhiên và giáo dục.
2) Quá trình thoát ly quan niệm cơ thể là “cỗ máy phản ứng thụ động” để chuyển sang quan niệm con người là “kẻ tham gia tích cực” vào việc hình thành nhân cách bản thân.
3) Xu hướng từ nhấn mạnh cảm xúc của Freud tới nhấn mạnh quá trình nhận thức.
4) Thoát ly vô thức để hướng tới niềm tin, rằng các quá trình ý thức là quan trọng đối với nhân cách.
5) Giảm quan tâm tới “các giai đoạn phát triển”, tăng niềm tin rằng các hình thái phát triển nhân cách được quyết định nhờ sự tương giao liên tục giữa con người và môi trường xã hội.
6) Một bước chuyển từ niềm tin Freud rằng nhân cách cố định ở tuổi 15 sang quan niệm con người có thể trưởng thành trong suốt cả cuộc đời.
Hình ảnh mang tính chất minh họa

Vô thức trong tâm lý học nhận thức:

Từ những gì đã trình bày, có thể tin rằng, những ai vốn coi trọng vô thức vẫn không hề lay chuyển niềm tin. Điều đó thực ra dễ hiểu, vì không thể đánh giá đúng vai trò vô thức trong mối tương quan với ý thức nếu không nhắc tới tâm lý học nhận thức, là hệ thống tâm lý tập trung tới sự hiểu, tới việc tâm trí tích cực sắp đặt và tổ chức các kinh nghiệm như thế nào. Nói một cách đơn giản thì tâm lý học nhận thức quan tâm trở lại tới các quá trình ý thức.
Có thể gây ngạc nhiên, nhưng chính việc khảo sát ý thức một cách khoa học lại gây nên sự chú ý mới đối với các hoạt động vô thức. “Sau gần 100 năm bị lãng quên, nghi ngờ và vô hiệu hóa, các quá trình vô thức lại chiếm một vị trí vững vàng trong tâm trí tập thể của các nhà tâm lý học” (Kihlstrom JF, Barnhardt M, Tataryn DJ, Vô thức tâm lý học: tìm thấy, mất đi và tái xuất hiện, T/c Nhà tâm lý My, 1992, số 47, trang 788; dẫn lại theo Schultz, sách đã dẫn, trang 455).
Tuy nhiên đây mới là mấu chốt vấn đề: đó không phải là vô thức như Freud đã lập thuyết, tức cái vô thức được vận hành nhờ các dục năng, ký ức và ước vọng bị kiểm soát, cũng như nhờ sự săn lùng khoái cảm. Và chúng chỉ có thể xuất đầu lộ diện ở ý thức qua quá trình phân tích tâm lý lâu dài và tốn kém. Vô thức mới được xem là lý trí hơn cảm xúc. Nó liên quan với giai đoạn đầu tiên của sự nhận thức trong hành động đáp ứng đối với một kích thích. Vô thức là yếu tố tích hợp của quá trình học và xử lý thông tin, và có thể khảo sát nó qua nhiều hình thức thực nghiệm có kiểm soát.
Để phân biệt vô thức nhận thức học với vô thức phân tâm học (và trạng thái không biết về mặt thể chất, ngủ hay hôn mê), một số nhà nhận thức học ưa dùng thuật ngữ phi ý thức (nonconscious) hơn là vô thức (unconscious). Khi đó giới nghiên cứu đồng ý rằng, phần lớn quá trình xử lý tâm thần diễn ra ở tầng phi ý thức. Điều đó không hạ thấp vai trò ý thức, vì theo thuyết xử lý đối ngẫu Dixon, 1981, ý thức và vô thức là hai mặt của một đồng xu, chúng tồn tại không thể thiếu nhau, đối lập và thống nhất. Hãy so sánh khập khiễng ý thức với bộ tham mưu chiến lược, vô thức với phần còn lại của một đạo quân. Hiển nhiên phần lớn công việc thuộc về vô thức, nhưng phải chăng các quyết sách chiến lược lại kém phần quan trọng? Theo bạn thì Napoleon đúng khi coi trọng các tướng soái hay Lev Tolstoi đúng khi coi trọng những người lính vô danh trên mọi nẻo đường chiến dịch?

Tự nhiên và giáo dục, Sinh học và môi trường:

Thực ra mọi tranh cãi về bài toán ý thức hay vô thức chỉ có thể giải quyết thỏa đáng trong khuôn khổ một bài toán bao quát hơn. Đó là bài toán tự nhiên hay giáo dục, sinh học hay môi trường trong việc tìm hiểu bản chất con người. Nói cách khác, cái gì quyết định bản chất con người, hệ gien hay các thành tố văn hóa? Đây là bài toán từng gây tranh cãi gay gắt không chỉ trong khoa học, vì những hệ lụy khoa học, triết học, đạo đức, xã hội, thậm chí cả chính trị của nó. Từng có những quan niệm như quyết định luận sinh học của chủ nghĩa phát xít hay công nghệ xã hội của xã hội học cực đoan, cũng như nhiều quan niệm trung dung ở mức độ khác nhau (chẳng hạn do đề cao bản năng vô thức, phân tâm học thiên về tự nhiên hơn giáo dục, sinh học hơn môi trường).
Ở đây cần trích dẫn nhà linh trưởng học Thụy Sĩ Hans Kummer khi ông nhận xét về mối quan hệ nói trên. Theo ông, cố gắng xác định xem nhân cách được sắp xếp bằng gien hay môi trường nhiều ít ra sao cũng vô ích như việc cố gắng xác định xem tiếng trống từ xa vọng lại do trống hay người đánh trống. Cái có thể xác định chỉ là, hai tiếng trống khác nhau do hai cái trống hay do hai người đánh trống khác nhau. Cũng như vậy, có thể nói sự khác nhau trong phong cách của hai nhạc sĩ chủ yếu do di truyền hay giáo dục, chứ không thể nói phong cách từng người chỉ do thiên bẩm hay khổ luyện.
Có thể thấy vấn đề rõ hơn qua chủ đề ưa thích của Freud, cấm kị loạn luân. Theo phân tâm học, dục năng ưa đối tượng loạn luân. Vậy tại sao loạn luân ít xảy ra? Vì cấm kị loạn luân là thiết chế đạo đức để kiểm soát và ngăn chặn. Theo giới Freud học thì đó chính là thắng lợi của văn hóa trước tự nhiên.
Tuy nhiên ngay từ thời Freud, nhà xã hội học Phần Lan Edward Westermarch đã giả định rằng, sự thân thuộc ngay từ lúc bé (như giữa mẹ con hay anh em) giết chết đòi hỏi tính dục. Ông cho rằng hầu như không có sự hấp dẫn tính dục giữa những người lớn lên bên nhau. Như một người Darwin chủ nghĩa, ông giả định đó chính là cơ chế tiến hóa để ngăn ngừa sự loạn luân, tức ngăn ngừa sự suy thoái của hệ gien di truyền. Quan niệm đó được khẳng định cả trên linh trưởng và trên người. Cấm kị loạn luân không phải là thắng lợi của văn hóa trước sinh học, mà là sự giao thoa của chúng. Theo tiến hóa luận thì chúng ta là kết quả của hệ gien phù hợp với môi trường, nói cách khác là sản phẩm giao thoa giữa sinh học và môi trường. Và như thành tố của một xã hội cụ thể, mỗi chúng ta là sản phẩm của quá trình tương tác không ngưng nghỉ giữa các yếu tố văn hóa và tự nhiên đã tạo nên xã hội đó.
Kết thúc bài báo khoa học “Chấm dứt cuộc tranh cãi tự nhiên chống giáo dục” trên T/c Người Mỹ khoa học số 12-1999, nhà động vật và đạo đức học Frans de Waal viết: “Thay cho việc coi văn hóa là phản đề của tự nhiên, chúng ta có thể hiểu sâu sắc hơn hành vi con người nếu im lặng mang cuộc tranh cãi xưa cũ tự nhiên/giáo dục tới nấm mồ của nó”. Nếu ta noi gương ông thì hoàn toàn có thể cho rằng, có thể hiểu rõ hơn quá trình sáng tạo cũng như các hoạt động tinh thần khác của con người nếu chúng ta lẳng lặng đem cuộc quyết đấu ý thức hay vô thức chôn sâu dưới ba thước đất.