Sức lôi cuốn, ảnh hưởng và đóng góp của Freud:

Năm 1929, nhà tâm lý Boring viết trong cuốn giáo khoa Lịch sử tâm lý học thực nghiệm rằng, tâm lý học không có một tượng đài như Darwin hay Helmholtz. Hai mốt năm sau, trong lần tái bản năm 1950, ông ca ngợi Freud: “Ông được xem là khởi nguồn vĩ đại nhất của tất cả, tác nhân của tinh thần thời đại, người hoàn thành sứ mạng phổ biến tâm lý học bằng nguyên lý của quá trình vô thức… Không có chuyện lịch sử tâm lý học ba trăm năm tới thiếu tên Freud mà vẫn được xem là lịch sử chính thống. Và đó chính là tiêu chuẩn về sự vĩ đại: danh tiếng sau khi mất” (Schultz DP, Lịch sử tâm lý học hiện đại, NXB Harcourt Brace, xuất bản lần 6, 1996, trang 398, Lịch sử tâm lý học trang 668 dẫn lại)
Năm 1982, hai nhà tâm lý Leak và Christopher đánh giá: “Ít nghi ngờ rằng phân tâm học Freud là “lực đẩy đầu tiên” trong tâm lý học thế kỷ XX. Phân tâm học như một lý thuyết nhân cách toàn diện nhất, chi tiết hóa cấu trúc, động lực và sự phát triển nhân cách ở một mức độ mà không đối thủ nào vượt qua được”. Đây là ưu điểm lớn nhất mang lại cho phân tâm học vinh quang và sức lôi cuốn. Phân tâm học giải thích tất cả, bằng những khái niệm dường như chính xác nhưng lại đủ mơ hồ và huyền ảo để ai cũng có cách diễn giải riêng – một đặc điểm rất giống với các triết thuyết và tôn giáo phương Đông xưa. Điều đó tạo nên sức lôi cuốn mà không một hệ tư tưởng mang tính thực chứng nào có được. Tuy nhiên theo triết gia Popper thì một hệ tư tưởng được xem là khoa học khi và chỉ khi nó mang tính tự phủ định nhằm tạo điều kiện cho hệ tư tưởng bao quát hơn ra đời. Nói cách khác, hệ tư tưởng nào thì cũng không thể giải thích tất cả; và các khái niệm cần được giới thuyết rõ ràng để phản biện. Vì thế đặc điểm trên của phân tâm học cũng chính là điểm mấu chốt để các nhà phê bình liên tục tấn công, thường là hiệu quả.
Sức thu hút của phân tâm học cũng đến từ một hướng khác. Nói chung trong tâm lý học có hai kiểu tư duy: Kiểu tường thuật và kiểu duy lý/giải quyết vấn đề. Freud được ưa chuộng vì ông là một cây bút siêu hạng. Phong cách kể truyện của ông xuất sắc đến mức ông từng được đề nghị trao giải Nobel văn học! Theo McConnell thì không thể hiểu được sức mạnh ngòi bút Freud khi chưa đắm mình vào những trang ông viết về lịch sử bệnh lý bệnh nhân. Những cái tên đầy sức gợi mà Freud đặt cho người bệnh – người rắn, người chó sói, Hans bé nhỏ – vừa miêu tả chính xác đặc tính của họ, vừa thể hiện sức tưởng tượng phi thường của ông. Và các thuật ngữ khoa học cái ấy, cái tôi, cái siêu tôi – cùng nhiều thuật ngữ khác, thì có lẽ chỉ Freud mới nghĩ ra. Người ta dùng chúng thường xuyên không chỉ trong các hội thảo tâm lý, mà còn trong cuộc sống hàng ngày.
Phân tâm học còn được phổ biến nhờ một thực tế không thể bỏ qua, đó là sức hấp dẫn khác thường của chủ đề tính dục. Mặc dù Freud cho rằng kìm hãm tính dục là cần thiết cho sự tồn tại của văn minh, điều có vẻ ngược với quan điểm về vai trò động lực của dục năng, chính việc nhấn mạnh tính dục đã góp phần phổ biến tư tưởng của ông. Theo Schultz trong sách đã dẫn thì ngay trên các tạp chí khoa học, bài viết về sex cũng tạo nên sức lôi cuốn đầy cảm xúc. Và đó cũng có thể là lý do đông khách của mấy bộ phim trong nước gần đây.
Hình ảnh mang tính chất minh họa

Phê phán Phân tâm học:

Như đã trình bày, Freud xem vô thức là thành tố chủ yếu của tâm trí và nhân cách con người. Nhiều người ủng hộ phân tâm học nhưng quên quan điểm của ông về vô thức, về những ký ức và ước vọng bị kìm nén (vì thường có tính bản năng và chống xã hội). Đó vừa là đóng góp vừa là sai lầm của ông. Sai lầm đó xuất phát từ cách Freud thu thập số liệu.
Nhiều người đã phê phán Freud ở khía cạnh thu thập bằng chứng thực tế, bước đầu tiên của việc xây dựng lý thuyết khoa học. Nói chung nó không đầy đủ, phiến diện và không chính xác. Thực tế Freud chỉ tiến hành quan sát trên phạm vi đối tượng rất hẹp: những người loạn thần kinh thuộc tầng lớp trên tại Vienna. Cái nhìn lệch về bản năng vô thức, về bản chất chống xã hội khá là dễ hiểu. Và đó cũng là lý do tâm lý học Freud là tâm lý học về sự giải thoát tình trạng căng thẳng, chứ không hướng tới sự thăng hoa (như Jung, Adler và các nhà tân Freud khác). Đao to búa lớn thì Freud phạm chính khiếm khuyết của các triết gia cổ đại: lấy tư biện thay cho bằng chứng khách quan. Vì thế phân tâm học ít được bằng chứng thực nghiệm ủng hộ.
Chẳng hạn khoa học thần kinh không ủng hộ quan niệm giấc mơ là con đường chủ yếu để khám phá vô thức. Nói chung trên 80% số người được hỏi mơ thấy bị treo hay bị săn đuổi. Lẽ nào bị treo lại là ước vọng vô thức của con người? Vì thế giải đoán giấc mơ của Freud sai là chính. Không thể đồng ý với ông rằng, ngôi nhà mặt tiền nếu bằng phẳng thì biểu tượng cơ thể nam, xù xì thì ứng với cơ thể phụ nữ; vật dụng dài như cành cây tượng trưng cho bộ phận sinh dục nam, còn vật đóng như bao diêm thì cho bộ phận sinh dục nữ. Càng vô lý hơn nếu quan niệm khi mơ thấy leo cầu thang, lái xe, cưỡi ngựa, đi qua cầu, đó chính là lúc ta mong sinh hoạt tình dục.
Quan niệm về phát triển tính dục của Freud bị công kích khá dữ dội. Cách giải quyết mặc cảm Oedipus hay Electra cũng chịu chung số phận vì dường như thiếu nhân tính và trọng nam khinh nữ. Quan niệm tâm năng thường chọn trái cấm, kể cả bậc sinh thành, là cái nhìn sai lệch về bản chất Darwin của loài người. Theo tiến hóa luận thì bậc sinh thành dám hy sinh tất cả vì sự sinh tồn của con cái, vì đó là cách duy nhất để gien của họ có thể chống chọi với thời gian. Nên ngay từ lúc mới ra đời, một số quan niệm của Freud đã bị nhà tâm lý Mỹ John B. Watson, người cha của tâm lý học hành vi, gọi là “tà thuật”.
Tuy nhiên phê phán Freud chủ yếu tập trung ở điểm chốt sau đây. Giống như mọi lý thuyết mang phong cách trần thuật khác trong khoa học, phân tâm học có khuynh hướng giải thích tất cả nhưng hầu như không tiên lượng gì. Như lưu ý ở trên, đó là lý do Freud hấp dẫn những người nhân văn chủ nghĩa – họa sĩ và nhà thơ, nhà triết học và lịch sử tự nhiên – hơn là những nhà khoa học thực nghiệm thiên về cái nhìn thực chứng, theo kiểu chỉ thực tiễn cây đời mới mãi xanh tươi. Đánh giá của nhà tâm lý Parisi, năm 1987, có thể là minh họa rõ nhất cho nhận định này: “Tôi không cố cãi rằng Freud đúng hay lý thuyết của ông đúng. Nếu buộc phải lựa chọn – đúng hay sai – tất nhiên ai cũng phải thừa nhận rằng Freud sai ở nhiều khía cạnh. Nhưng ông sai trong sự phong phú”.

Một số nhận định về Phân tâm học tại Việt Nam:

Tại Việt Nam lời khen tiếng chê Freud cũng không khác quan điểm chung trên toàn thế giới. Và những sai lầm trong đánh giá hay vận dụng phân tâm học cũng không thoát khỏi tình trạng đó.
Sai lầm lớn nhất của một số văn nghệ sĩ là quan niệm sáng tạo chủ yếu do vô thức quyết định, chẳng hạn như cách diễn đạt của một cây bút: “Mà, hình như, mọi sáng tạo đều bị thúc đẩy bởi những xung lực của vô thức” (T/c Văn hóa và nghệ thuật, số 1-2004, trang 81, cột 2, dòng 46-49). Có lẽ vì họ quá đề cao và (nên) không muốn giải mã sự sáng tạo về mặt khoa học, không muốn sáng tạo trở thành đối tượng của cái hiểu. Nếu biết rằng nhà thơ Steensen (1638-1686) từng viết (dịch ý): thấy thì đẹp, hiểu thì đẹp hơn, không hiểu thì đẹp nhất, ta có thể hiểu và thông cảm với tâm thức của ý tưởng đó. Tuy nhiên nếu vô thức là động lực sáng tạo, tại sao chỉ Mendeleev, là nhà hóa học, chứ không phải nhà yoga, là người vô thức hơn tất cả, mới mơ thấy bảng tuần hoàn? Và tại sao chỉ Nguyễn Trọng Tạo, chứ không phải một đệ tử Lưu Linh, mới xuất khẩu thành thơ “Sông Hương hóa rượu ta đến uống – Ta tỉnh kinh thành nghiêng ngả say” lúc tàn cuộc rượu? (Theo lời kể thì sáng hôm sau tỉnh rượu nhà thơ hỏi: Thơ ai mà hay quá vậy?). Và tại sao máy tính - vốn chỉ hành xử và hành xử rất giỏi ở mức vô thức, vì nó biết mà không biết rằng nó biết – không bị sự sáng tạo thôi thúc?
Một nhà thơ khá nổi tiếng thì dùng khái niệm vô thức cộng đồng để giải thích phong trào sáng tác trường ca sau ngày thống nhất đất nước 1975. Ông cho rằng những thôi thúc trả món nợ không thể trả đối với đồng đội đã hy sinh, đối với mất mát của toàn dân tộc chính là động lực buộc các nhà thơ phải viết trường ca, như một cách trả nợ. Những gì ông viết đều đúng, chỉ có điều đó là ý thức công dân, ý thức cộng đồng, chứ không phải vô thức cộng đồng! Đó có thể là minh họa cho một kiểu vận dụng Freud và tân Freud: nặng về trang điểm hơn là hướng tới sự hiểu.
Cần lưu ý thêm rằng, không chỉ người yêu mà ngay kẻ ghét cũng có thể sai lầm khi phê phán phân tâm học. Chẳng hạn khi phê phán quan điểm cơ bản của Freud (vô thức là động lực nhân cách), người ta thường xem vô thức là phần tối trong sự đối lập với ý thức là phần sáng. Và vì con người luôn hướng tới phần sáng nên đương nhiên Freud sai. Đây cũng là một kiểu phê bình bất cập vì đã dùng chính quan niệm vô thức của Freud – vốn sai lầm - để bác bỏ Freud.