Là một trong số những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất tới tư duy hiện đại cùng Marx, Darwin và Einstein, đương nhiên Sigmund Freud được hâm mộ, trích dẫn, tranh cãi và phê phán trên toàn thế giới. Trong giới trí thức thì dường như văn nghệ sĩ là những người chuộng Freud và phân tâm học hơn cả. Các thuật ngữ vô thức, dục năng, cái tôi, cái siêu tôi… thường xuyên xuất hiện trên nhiều trang viết.
Rất khó trình bày tư tưởng của Freud chỉ trong một bài viết, vì ông thường xuyên thay đổi nó. Hơn thế nữa, ông đã dùng vài triệu chữ để trình bày những suy nghĩ của mình; và học trò phải dùng ít nhất 100 triệu chữ để diễn giải cái mà họ cho là quan niệm của ông! Vì thế người đời sau thường đánh giá Freud qua con mắt người khác hơn là bằng cái nhìn riêng của mình.

Lý thuyết hình học của Tâm trí

Năm 1900, trong tác phẩm Giải đoán giấc mơ, Freud đưa ra “lý thuyết hình học” của tâm trí, trong đó ông chia tâm trí thành ba vùng: vô thức, tiềm thức và ý thức. Vì Freud đi tới lý thuyết nhờ các khám phá về vô thức và vì ông luôn xem vô thức là yếu tố quyết định nhân cách con người, nên trước tiên ta hãy khảo sát nó.

Vô thức:

Ngay từ khi nghe những bệnh nhân đầu tiên kể về mắc mứu của mình, Freud đã nhận thấy họ đang kìm nén những ước muốn đáng sợ và những ký ức méo mó vốn không thể chấp nhận ngay cả với bản thân họ. Thi thoảng những ý nghĩ và cảm xúc bị cấm đoán đó lộ ra ở ý thức qua giấc mơ hay sự lỡ lời, thường dưới dạng ngụy trang hay tượng trưng. Vậy thì chúng từ đâu đến, tại sao chúng khủng khiếp, và cái gì ngăn không cho chúng xuất hiện ở ý thức?

Các ước muốn không được chấp nhận đó từ đâu xuất hiện? Sau khi khảo sát cẩn trọng giấc mơ của bệnh nhân, Freud kết luận: “Cái là vô thức trong cuộc sống tinh thần cũng chính là cái thơ trẻ”. Freud nhận thấy người lớn ít khi nhớ những gì xảy ra lúc năm hay sáu tuổi, nhưng chúng vẫn được lưu trong vô thức. Khi thức, một phần tâm trí đè nén hay “kiểm duyệt” chúng. Nhưng khi ngủ, bộ phận kiểm duyệt nghỉ ngơi và ký ức có thể lọt lên tầng ý thức, tất nhiên dưới hình thức ngụy trang.

Về vấn đề tại sao chúng có dạng bất thường, Freud viết: “Nhu cầu khoái cảm – dục năng (libido), như chúng ta gọi nó – chọn đối tượng một cách không cấm đoán, và thực tế là thích chọn trái cấm: không chỉ vợ người khác, mà cả đối tượng loạn luân … mẹ và em gái, cha và anh trai… Sự căm hận cũng bùng phát không kìm nén. Ước muốn trừng phạt và cái chết… không phải là hiếm. Những ước muốn bị kiểm soát đó xuất hiện từ Địa ngục; và khi đã được giải đoán lúc ta thức giấc thì không một sự kiểm soát nào đáng xem là hà khắc nữa”.

Bản chất chống xã hội của những ước muốn bị kìm nén đó chứng tỏ con người là ác quỉ? Freud không cho là vậy. Tâm năng chỉ “là chính nó”. Những mong ước đó xuất hiện rất sớm, trước khi bệnh nhân được xã hội hóa. Chúng chỉ gây rắc rối khi người lớn xem là xấu xa, và đó là lý do tại sao chúng bị “kiểm duyệt” để không xuất hiện ở ý thức.

Ý thức:

Ý thức là khái niệm khó định nghĩa chính xác về mặt khoa học. Rất lâu trước khi Freud chia tâm trí thành ba phần, giới tâm lý Đức thường liên hệ ý thức với sân khấu trong một nhà hát. Luồng sáng hẹp của đèn pha chiếu qua chiếu lại trên sân khấu, chiếu sáng những gì đang được chiếu sáng. Ngồi trong nhà hát, ta có thể thấy một dòng liên tục các hình ảnh xuất hiện dưới ánh đèn rồi biến mất vào bóng tối. Luồng sáng hẹp đó chính là ý thức hiện tại của bạn. Phần sân khấu còn lại cũng có thể nhìn thấy – nếu được chiếu sáng. Nhưng tại mỗi một thời điểm thì tất cả những gì mà bạn thấy chỉ nằm gọn trong luồng sáng đèn pha.

Tiềm thức:

Theo chân các nhà triết học Đức, Freud cho rằng tiềm thức là bất kỳ cảm giác hay tư duy nào mà ta có thể biết – nếu và khi được đèn pha ý thức chiếu sáng.

Hai hệ thống tâm trí:

Theo Freud, có hai hệ thống quyết định cuộc sống tinh thần là hệ tìm kiếm khoái cảm vô thức và hệ kiểm soát tiềm thức. Hệ tìm kiếm khoái cảm gắn với dục năng, mục đích là thu được sự thỏa mãn tức thời các đòi hỏi. Mục đích của hệ kiểm soát tiềm thức là ngăn chặn không cho luồng sáng ý thức chiếu tới những vùng “lộn xộn” không muốn thấy. Những gì bạn nghĩ – đặc biệt những gì bạn nằm mơ – là do tương tác giữa hai hệ thống qui định.

Nguyên lý khoái cảm:

Hệ vô thức được vận hành bằng nguyên lý khoái cảm. Đó là, bất cứ sự thỏa mãn nhu cầu dục năng nào cũng dẫn tới trạng thái khoái cảm về thể chất hay tinh thần. Nếu nhu cầu không được thỏa mãn, ta thấy đau đớn hay - theo Freud – không khoan khoái.

Freud cho rằng có hai cách thỏa mãn tâm năng. Đầu tiên là thỏa mãn thực, như khi đói thì sữa làm em bé khoan khoái. Không có sữa thì em bé tìm cách thỏa mãn “ảo” hay “tượng trưng”, chẳng hạn mút tay hay mơ thấy được ăn.

Nguyên lý hiện thực:

Khi lớn lên, em bé dần nhận thấy, cách “thực” dẫn tới sự tưởng thưởng kéo dài và thú vị hơn cách “ảo”. Và bé ngày càng nhận rõ sự khác biệt giữa hai phương cách. Khi đó bé bắt đầu hướng theo cái mà Freud gọi là nguyên lý hiện thực. Hệ tiềm thức bắt đầu tìm kiếm ở môi trường xung quanh những gì có thể thỏa mãn khoái cảm một cách thực tế (chẳng hạn vú mẹ). Quá trình tìm kiếm đó dần đưa bé tới “sự tự làm chủ”.

Giấc mơ:

Tất nhiên người lớn có khả năng tự làm chủ và phân biệt rõ ràng hai cách thỏa mãn. Tuy nhiên vô thức vẫn tìm kiếm sự thỏa mãn các ước vọng trẻ thơ – và những ước vọng này thường có tính chống xã hội nên không thể thỏa mãn trên thực tế. Vậy người lớn mơ để thực hiện những ước vọng bị ngăn cấm.

Giấc mơ có vai trò quan trọng, vì nó có thể thỏa mãn một phần các nhu cầu vô thức trong khi vẫn duy trì được tiêu chuẩn đạo đức. Freud xem giấc mơ là “con đường vương giả” dẫn tới vô thức. Ông nói: “Tất cả chúng ta, kể cả người tốt, đều có bản chất dã thú vô pháp lộ ra trong giấc ngủ”. Nhưng vì vô thức hành động cả khi hiện thực không tồn tại, nên có thể thỏa mãn đòi hỏi của nó một cách tượng trưng. Như vậy bộ phận kiểm soát có thể thỏa mãn hầu hết các nhu cầu vô thức bằng cách trình bày chúng dưới dạng hóa trang.

Bản năng:

Năm 1915, Freud định nghĩa bản năng là “biểu diễn tinh thần của nhu cầu vật chất”. Theo ông, nó có bốn đặc trưng là áp lực, mục đích, đối tượng và cội nguồn.

Càng thiếu ăn thì ta càng đói, càng chịu áp lực tìm kiếm và tiêu thụ thức ăn. Mục đích của mọi bản năng là giảm áp lực. Như vậy mục đích cuối cùng của bản năng đói là ăn. Mút tay là mục đích trung gian vì nó có thể tạm thời làm dịu đói. Thỏa mãn tượng trưng một nhu cầu nào đó luôn là mục đích trung gian của bản năng tương ứng. Hầu hết các nhu cầu chỉ có thể thỏa mãn bằng đối tượng thực: Vú mẹ trở thành đối tượng để em bé săn lùng khi đói. Muộn hơn đối tượng có thể là bình sữa hay ngón tay. Và cội nguồn của bản năng là các quá trình vật lý và hóa học trong cơ thể.

Tình yêu và cái chết:

Năm 1920, Freud cho rằng có hai bản năng chủ yếu: Eros (thần tình yêu trong thần thoại Hy Lạp) là lực sống và Thanatos (thần chết) là bản năng chết. Theo cách diễn giải của ông, Eros là bản năng sáng tạo có tổ chức để bảo tồn sự sống và giống loài. Eros là tình yêu và sự khoái cảm.

Thanatos là bản năng phá vỡ sự tổ chức của nhân cách và đưa cơ thể tới “con đường tự thân dẫn tới cái chết”. Thanatos là sự tự căm thù, gây hấn và buồn đau.

Hầu hết những người theo phân tâm học chấp nhận Eros nhưng bác bỏ Thanatos. Để bảo vệ quan điểm về tình yêu và cái chết, Freud đưa ra “mô hình tâm trí” mới.

Mô hình cấu trúc của tâm trí:

Thành phần chính trong lý thuyết hình học là vô thức và tiềm thức. Năm 1923, Freud cho rằng mô hình này không chính xác nên đưa ra ba cấu trúc mới: cái ấy, cái tôi và cái siêu tôi.

Cái ấy:

“Một cách nguyên mẫu, hãy tin rằng, mọi thứ là cái ấy”. Bằng cách diễn đạt như vậy, Freud xem cái ấy là thành phần nguyên thủy nhất của nhân cách. Nó tồn tại từ lúc mới sinh và chứa tất cả các bản năng cơ bản. Freud gọi nó là “cái vạc đầy ắp những kích thích sục sôi”. Theo ông, cái ấy “không biết đánh giá các giá trị: không thiên thần và ác quỉ, không đạo đức… Nó không có tổ chức, không tạo ra ý chí tập thể, mà chỉ hành động nhằm thỏa mãn các nhu cầu bản năng dưới con mắt theo dõi của nguyên lý khoái cảm”.

Cái tôi:

Với bản chất tham lam, cái ấy sẽ sớm tự phá hủy bản thân – và nhân cách. Tuy nhiên, theo Freud, ngay những năm đầu đời, cái tôi bắt đầu thoát thai từ cái ấy. Sự phát triển cái tôi là hệ quả của việc con người có nhu cầu kiềm chế cái ấy và đáp ứng một cách thích hợp những đòi hỏi của môi trường xung quanh. “Chúng ta có thể nói rằng cái tôi ứng với lý trí và cảm xúc tốt trong khi cái ấy ứng với các cảm xúc mạnh mẽ không được thuần hóa”. Cái ấy chứa libido và tuân theo nguyên lý khoái cảm. Cái tôi tuân theo nguyên lý hiện thực. Khi hành động như vậy, cái tôi có quyền quyết định vấn đề, liệu một nhu cầu bản năng nên được thỏa mãn tức thời hay cần phải kìm nén.

Vì cái tôi thoát thai từ cái ấy, cái tôi cần tìm nơi chứa tâm năng. Một phần năng lượng này hướng tới những đối tượng bên ngoài có thể thỏa mãn nó. Freud gọi đó là dục năng đối tượng. Phần năng lượng còn lại của cái tôi được dùng để chống lại “bản năng chết”. Cái tôi “làm trung gian” giữa các nhu cầu trẻ thơ của cái ấy và đòi hỏi của hiện thực bên ngoài. Và khi thực hiện điều đó, nó phải gắn với yếu tố thứ ba của tâm trí - cái siêu tôi.

Cái siêu tôi:

Đối tượng đầu tiên mà cái tôi em bé đầu tư là vú mẹ. Chẳng chóng thì chầy, cái “dục năng đối tượng” đó sẽ được mở rộng cho cả người mẹ. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian mà Freud gọi là giai đoạn tiềm tàng, bé buộc phải chấm dứt việc xem mẹ là “đối tượng tình yêu”. Khi bị “mất mẹ” như vậy, cái tôi sẽ bù cho cái ấy bằng cách lựa chọn một số đặc trưng từ người mẹ. “Khi cái tôi lựa chọn đường nét của đối tượng (đã mất), có thể nói, nó tự buộc mình xem cái ấy như đối tượng tình yêu bằng cách nói: “Hãy nhìn đi, bạn có thể yêu tôi đấy – Tôi rất giống đối tượng””.

Quá trình “trở thành giống đối tượng đã mất” như thế được gọi là sự đồng nhất. Và từ sự đồng nhất đó mà cái siêu tôi thành hình. Nói một cách đơn giản thì cái siêu tôi xuất hiện khi đứa trẻ học cách đồng nhất với cha mẹ.

Vì hình thành khi đứa trẻ còn bé, nên cái siêu tôi xây dựng một hình ảnh lý tưởng hóa về cha mẹ. Cái “ý niệm lý tưởng hóa” đó hầu như không hơn tập hợp các hành vi được xã hội cho phép. Nên cái siêu tôi hành xử như “lương tâm xã hội”. Trong hầu hết tình huống, cái siêu tôi buộc cái tôi (và cái ấy) tuân theo chuẩn mực đạo đức xã hội, bất kể chúng khắc khe đến mức nào.

Theo Freud, nhiệm vụ của cái tôi không chỉ là giữ vai trò trung gian giữa cái ấy và hiện thực, mà khi làm như vậy, nó còn phải thỏa mãn cấu trúc của cái siêu tôi. Với một chút phân vân, ông nhắc nhở cái tôi điều đó: “Cuộc sống chẳng dễ dàng gì!”.

Sự phát triển tính dục:

Tâm năng hay libido đóng vai trò then chốt trong cuộc sống tinh thần. Vậy nó được tổ chức hay thể hiện như thế nào trong các giai đoạn phát triển nhân cách khác nhau? Freud cho rằng tính dục phát triển qua năm giai đoạn. Trong giai đoạn miệng (đến một tuổi), dục năng biểu hiện ở miệng, còn trong giai đoạn hậu môn (từ hai tới ba tuổi), libido giải phóng qua hậu môn. Trong giai đoạn dương vật (từ ba tới năm tuổi), tâm năng được tổ chức qua kích thích dương vật. Dục năng bị kiềm chế trong giai đoạn tiềm (từ sáu tới tám tuổi), nhưng tìm lại mình qua các hoạt động tính dục khác giới trong giai đoạn sinh dục (từ tuổi thiếu niên). Đương nhiên libido có các vùng và đối tượng khác nhau trong từng giai đoạn; chẳng hạn vùng dục năng thay đổi từ miệng hay ngón tay tới bộ phận sinh dục ngoài, còn đối tượng thì thay đổi từ vú mẹ tới người khác giới.

Đáng chú ý là việc Freud giải quyết mặc cảm loạn luân Oedipus. Ông cho rằng bé trai bắt đầu mặc cảm Oedipus khi sợ cha sẽ thiến mình. Bé giải quyết nỗi sợ bằng cách tiếp nhận các giá trị của cha qua ba bước: 1) chấm dứt đối tượng tình yêu ban đầu, tức người mẹ; 2) đồng nhất với cha qua việc tiếp nhận các giá trị và quan điểm của cha; và 3) phát triển cái siêu tôi hay lương tâm, với cơ sở ban đầu là quan điểm đạo đức của cha mẹ.

Bé gái thì trải qua mặc cảm Electra, khi bắt đầu nhận thấy mình không có dương vật và giận mẹ vì “thảm họa” đó. Bé liền chấm dứt đối tượng yêu ban đầu là mẹ để hướng tới cha. Freud tin rằng, mặc cảm Electra bị phân tán ở bé gái khi bé tiếp nhận các giá trị và hành vi phụ nữ từ mẹ để hấp dẫn cha. Cùng với thời gian, “thảm họa dương vật” giảm dần và bé lại gần gũi mẹ. Tuy nhiên vì mặc cảm Electra chỉ bị phân tán chứ không được giải quyết đến cùng, nên phụ nữ phát triển lương tâm hay cái siêu tôi không mạnh như nam giới.

Tương tác giữa hai mô hình:

Năm 1933, Freud hợp nhất hai mô hình hình học và cấu trúc với nhau. Ông xem cái tôi nằm chủ yếu ở vùng ý thức và tiềm thức, nhưng cũng lấn sâu xuống vô thức. Cái siêu tôi chủ yếu nằm ở tiềm thức và vô thức; còn cái ấy nằm ở vô thức. Tuy nhiên Freud cảnh báo về việc thảo luận sơ đồ hợp nhất của ông một cách quá cơ giới. Ông cho rằng: “Chúng ta không thể phán xét đặc trưng tâm trí bằng các đường nét tuyến tính như trong một bức tranh cổ, mà nên bằng các mảng màu tan vào nhau của hội họa hiện đại. Sau khi tạo ra sự chia tách, chúng ta phải nhập cái mà chúng ta vừa chia tách lại với nhau”. Trong lý thuyết Freud, chính mối tương quan động giữa các thành tố – cái ấy, cái tôi, cái siêu tôi; vô thức, tiềm thức, ý thức – quyết định bản chất nhân cách con người.





Hình mang tính chất minh họa