Có khoảng 1,6 tỷ người theo đạo Hồi trên thế giới, trong đó 85% là người Sunni, chủ yếu phân bố ở hơn 40 quốc gia như Ả Rập Xê Út; còn người Shia chiếm 10%, phân bố chủ yếu ở Iran.
Bản đồ phân bố của Sunni và Shia, màu xanh lá cây là Sunni và màu đỏ tím là Shia.
Bản đồ phân bố của Sunni và Shia, màu xanh lá cây là Sunni và màu đỏ tím là Shia.
Mặc dù có sự chênh lệch rất lớn về số lượng của hai phe, nhưng cuộc đấu tranh giữa hai phe vẫn tiếp diễn từ xa xưa đến nay. Tình hình ở Trung Đông hiện đang trở nên căng thẳng, nhiều nguyên nhân trong số đó là kết quả của cuộc đấu tranh giữa Ả Rập Saudi do người Sunni thống trị và Iran do người Shia lãnh đạo.
Tại sao Hồi giáo lại chia tách thành Shia và Sunni, và tại sao hai bên đã đấu tranh trong nhiều thiên niên kỷ?
Bán đảo Ả Rập đã là điểm trung chuyển quan trọng trong giao lưu kinh tế và văn hóa giữa phương Đông và phương Tây từ thời cổ đại. Nhưng cho đến cuối thế kỷ 6, bán đảo Ả Rập vẫn còn ở giai đoạn cuối của các bộ lạc thị tộc nguyên thủy. Các bộ lạc này không chỉ tiếp tục chiến tranh mà tín ngưỡng của họ cũng không được thống nhất, nhiều bộ lạc có thần riêng.
Vào thời kỳ cuối của kỷ nguyên bộ lạc, bán đảo Ả Rập bị chia rẽ nghiêm trọng trong xã hội, một số người trở thành quý tộc bộ lạc với lợi thế kiểm soát giao thương Đông Tây như gia đình Umayyad và gia đình Hashemite ở Mecca. Mặc dù các thị tộc và quý tộc sở hữu đặc quyền tôn giáo, nhưng họ không thể thống nhất bán đảo, vì vậy bán đảo bị chia cắt đã trở thành tâm điểm của cuộc cạnh tranh giữa hai đế quốc Byzantium và Ba Tư.
Để tranh giành các con đường thương mại của người Ả Rập, hai đế quốc đã tiến hành một cuộc chiến tranh cướp bóc lâu dài trên bán đảo. Để thoát khỏi số phận bị ngoại xâm, Muhammad, người sinh ra trong gia đình Hashemite, đã thành lập đạo Hồi vào năm 610.
Theo giáo lý Hồi giáo, Allah là vị thần duy nhất được mọi người tin tưởng. Để truyền đạt di nguyện của mình, Allah đã cử rất nhiều nhà tiên tri đến rao giảng, và Muhammad là nhà tiên tri cuối cùng. Muhammad truyền đạt ý nguyện của Allah là " Kinh Qur'an", là kim chỉ nam cho tất cả người Hồi giáo để tuân theo.
Chủ nghĩa độc thần do Hồi giáo chủ trương về cơ bản đã làm lung lay truyền thống tín ngưỡng đa thần trong các bộ lạc trên bán đảo Ả Rập và vi phạm các đặc quyền của quý tộc bộ lạc. Gia đình Umayyad là gia tộc mạnh nhất trong số các gia đình quý tộc chống lại Muhammad.
Gia đình Hashemite của Muhammad và đạo Hồi mà Muhammad mới thành lập kém quyền lực hơn nhiều so với gia đình Umayyad. Để tránh bị tiêu diệt bởi các quý tộc Mecca cũ do gia tộc Umayyad đứng đầu, vào năm 622 sau Công Nguyên, Muhammad đã dẫn dắt dân chúng di chuyển về phía bắc đến Medina.
Muhammad đã sử dụng đức tin Hồi giáo như một liên kết ở Medina để thiết lập một sự thống nhất chính trị và tôn giáo. Kể từ đó, Muhammad trở thành nhà lãnh đạo tối cao về tôn giáo, chính trị, quân sự và công lý ở Medina. Sau khi giành được chỗ đứng ở Medina, Muhammad tập trung vào việc thống nhất bán đảo Ả Rập và liên tục tấn công Mecca.
Sau khi Muhammad thành lập đạo Hồi, ông chỉ có quyền lực tối cao trong tôn giáo, các quý tộc cũ như Umayyad ở Mecca vẫn sở hữu quyền lực chính trị và quân sự mạnh mẽ. Byzantium và Persia ở bên ngoài bán đảo đang để mắt đến nhau.
Do đó, Muhammad và các quý tộc của Mecca đã thỏa hiệp với nhau. Umayyad và các gia đình khác cải sang đạo Hồi, trong khi Muhammad công nhận các đặc quyền chính trị và quân sự của các gia đình này.
Sức mạnh của đạo Hồi đang lớn mạnh từng ngày, với sự giúp sức từ ảnh hưởng của Muhammad, dòng họ Hashemite đã trở thành một dòng họ quyền lực ngang hàng với dòng họ Umayyad.
Nhưng vị thế nổi bật này đã dần mất đi với cái chết đột ngột của Muhammad.
Khi Muhammad qua đời, anh em họ và cũng là con rể của ông, Ali, đã trở thành thủ lĩnh của gia đình Hashemite. Mặc dù Ali và Muhammad có cùng dòng máu nhưng theo giáo lý Hồi giáo, sức mạnh tâm linh của Muhammad không thể truyền qua đường máu.
Do đó, Ali sẽ không thể kế thừa địa vị tôn giáo của Muhammad, và rất khó để tất cả người Hồi giáo đồng lòng nhất trí. Sau cái chết của Muhammad, người Hồi giáo chia thành hai phe lớn xoay quanh vấn đề thừa kế.
Một số tín đồ tin rằng quyền lãnh đạo nên được trao cho những người có trình độ và năng lực. Những tín đồ này không chỉ bao gồm những người Hồi giáo theo phong trào đi lên phía bắc của Muhammad đến Medina trong những ngày đầu, mà còn bao gồm cả những người Hồi giáo địa phương ở Medina, vì vậy họ rất hùng mạnh.
Những người khác nhấn mạnh vào quyền thừa kế huyết thống, cho rằng người cai trị hợp pháp duy nhất phải đến từ hậu duệ của Muhammad, tức là Ali.
Sau khi thảo luận giữa các phe khác nhau, "phe trình độ" đã giành chiến thắng. Họ bầu chọn Abu Bakr, người đầu tiên nối gót Muhammad, người lớn tuổi nhất và là cha vợ của Muhammad, làm người thừa kế của Muhammad, được gọi là "Khalip".
Bởi vì Muhammad đã quy định rõ ràng các quy tắc của đạo Hồi trong suốt cuộc đời của mình, các vị vua sau Abu Bakr chủ yếu kiểm soát quyền lực chính trị và quân sự. Abu Bakr đã chỉ định Umar làm người kế vị trước khi qua đời. Trước khi Umar qua đời, một ủy ban gồm sáu người đã được chỉ định để bầu ra một vị vua mới. Với sự ủng hộ của "phe trình độ", Osman đã được bầu làm Khalip thứ ba.
Abu Bakr
Abu Bakr
Việc chuyển giao quyền lực của ba vị vua này đã đạt được một quá trình chuyển đổi suôn sẻ. Tuy nhiên, với sự ám sát của Osman và sự kế vị của Khalip Ali thứ tư, cuộc đấu tranh gia tộc ẩn sau họ dần trở nên gay gắt, cuối cùng dẫn đến sự phân chia đạo Hồi thành hai phe phái.
Dưới thời trị vì của Abu Bakr, Umar và Osman, họ tiếp tục mở rộng ra nước ngoài. Trong thời kỳ cai trị của Osman, Đế chế Ả Rập đã hoàn toàn xóa sổ Đế chế Ba Tư. Mặc dù Osman đã có những đóng góp to lớn trong việc mở rộng đế chế Ả Rập, nhưng ông là người theo chủ nghĩa thân hữu.
Osman sinh ra trong gia đình Umayyad, vì vậy ông đã thăng chức một số thành viên của gia đình Umayyad vào các vị trí quan trọng. Phương pháp gia tăng sức mạnh của gia đình Umayyad của Ottoman đã khơi dậy sự bất mãn từ các thế lực khác và cuối cùng bị một người Hồi giáo ám sát.
Sau cái chết của Osman, Ali, người sinh ra trong gia đình Hashemite và đi theo Muhammad từ rất sớm, đã trở thành nhà lãnh đạo tiếp theo.
Nhưng sự kế vị của Ali đã gây ra sự chia rẽ trong những người theo đạo Hồi. Những người Hồi giáo ủng hộ Ali với tư cách là Khalip được gọi là "shiaat Ali", tức "những người theo Ali". Trong khi đó những người thuộc gia tộc Umayyad và những người Hồi giáo khác, những người phản đối Ali là quốc vương và ủng hộ việc trả thù cho Osman được gọi là những người ủng hộ Ottoman.
Gia đình Umayyad do Muawiyah đứng đầu và gia đình Hashemite do Ali đứng đầu đã nội chiến trong 5 năm kể từ năm 656. Năm 661, Ali bị ám sát, Muawiyah của gia tộc Umayyad buộc con trai cả của Ali phải nhường ghế và thành lập "Vương triều Umayyad".
Ali
Ali
Sự kế vị của Muawiyah khiến các thành viên trong phe Ali bất mãn, khi chết năm 680, ông đã truyền lại Khalip cho con trai mình. "Hệ thống cha truyền con nối" của Khalip do Muawiyah khởi xướng đã khiến nhiều người Hồi giáo tức giận. Trong số đó, phe Ali ủng hộ con trai thứ hai của Ali, Hussein, làm lãnh đạo, nhưng cuối cùng Hussein đã bị triều đại Umayyad giết chết.
Cái chết của Hussein đã củng cố sự ủng hộ của một số người Hồi giáo đối với con cháu của Ali, và cuối cùng chia Hồi giáo thành hai phe.
Những người Hồi giáo chỉ công nhận sự lãnh đạo của Muhammad và hậu duệ dòng máu của Ali được gọi là "Shiite" hay "Shia", có nghĩa là "những người ủng hộ Ali." Tương ứng, những người Hồi giáo chủ trương rằng quyền lãnh đạo nên được trao cho những người có trình độ được gọi là "Sunni", có nghĩa là "chính thống."
Sau khi chia rẽ, hai phe cũng hình thành những khác biệt về học thuyết. Người Sunni cố gắng dung hòa hai khái niệm về quyền hạn vô hạn của Allah và trách nhiệm của con người. Người Shia tin rằng ý chí của Allah phải được thể hiện trong một người chỉ có thể là Ali và các hậu duệ trực tiếp của ông từ gia tộc Hashemite.
Dựa trên điều này, hai phe cũng khác nhau trong cách đối xử của họ đối với danh tính của bốn vị vua từ Abu Bakr đến Ali. Người Shiite chỉ công nhận tình trạng hợp pháp của Ali, trong khi người Sunni tin rằng bốn vị vua chính đều hợp pháp.