Tác động của Công ty Đông Ấn đến kinh tế các nước Đông Nam Á: Trường hợp VOC tại Indonesia (1602 - 1799)
Sau các cuộc phát kiến địa lý và sự khởi đầu của “Thời đại Khai phá” (The Age of Exploration), Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã trở thành...
1. Châu Âu thế kỷ XVI và Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC)
Sau các cuộc phát kiến địa lý và sự khởi đầu của “Thời đại Khai phá” (The Age of Exploration), Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã trở thành các thế lực hàng hải hùng mạnh tại châu Âu. Thực hiện Hiệp ước Tordesillas (1494), trong khi Bồ Đào Nha “thiết lập thành công và khai thác hiệu quả tuyến thương mại đường dài kết nối giữa vùng tây nam Địa Trung Hải với thế giới phương Đông (qua Hảo Vọng Giác, vịnh Ba Tư, Ấn Độ, Đông Nam Á, Trung Quốc và Nhật Bản)” thì Tây Ban Nha đã hoàn thành công cuộc chiếm đóng đất đai, tài nguyên (đặc biệt là bạc) ở Trung - Nam Mỹ và luôn duy trì các hạm đội hải quân (Grande y Felicísima Armada) bảo vệ mạng lưới thương mại Đại Tây Dương. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh với Hà Lan (1568), Ottoman (1571), Bồ Đào Nha (1580), Anh (1585)… đã làm ngân khố Tây Ban Nha thâm hụt nghiêm trọng: “Sự bất lực của Tây Ban Nha trong việc kiểm soát chi tiêu quân sự mới là điều gây ra thảm họa. Thật khó tin, họ đã liên tục tuyên bố vỡ nợ vào nửa sau thế kỷ XVI, không đáp ứng được các nghĩa vụ trả nợ của mình tối thiểu là bốn lần”. Điều này buộc Tây Ban Nha phải đẩy mạnh tốc độ khai thác tại châu Mỹ và tăng nhiều loại thuế ở châu Âu nhằm giải quyết nhanh chóng khó khăn tài chính.
Trong bối cảnh châu Âu thường xuyên xảy ra xung đột, thị trường tại đây vẫn tương đối nhộn nhịp nhờ vai trò của các thành thị, thương nhân tích cực tiến hành giao thương. Thay thế vai trò trung chuyển hàng hóa của các thị quốc truyền thống Venice, Genoa, Milan… đang cạnh tranh với người Hồi giáo (Ottoman), “Bắc Âu là nơi tập trung những trung tâm đô thị năng suất cao, với Antwerp, Bruges, Ghent và Amsterdam nổi lên trong thế kỷ XIV và XV là các khu chợ quan trọng cho hàng hoá đến và đi từ Địa Trung Hải, Scandinavia, vùng Baltics và Nga, cũng như quần đảo Anh… Những thành phố này trở thành những thỏi nam châm thu hút thương nhân từ khắp nơi, điều này tới lượt nó tạo ra đời sống xã hội và kinh tế sôi động và những bản sắc dân sự mạnh mẽ… Quy mô và năng suất tăng lên của các thành phố ở vùng Đất Thấp và vùng phụ cận khiến chúng trở thành những hũ tiền béo bở - những trung tâm tạo ra thu nhập từ thuế”. Nhờ vậy mà giai cấp tư sản tại vùng Đất Thấp (trong đó có Hà Lan) nhận được nhiều đặc quyền hơn, kéo theo đó là sự quan tâm cao độ đến vấn đề bảo vệ các quyền tự do tôn giáo và chính trị của giai cấp này. Điều đó có thể lí giải một phần sự ra đời của đạo Tin Lành tại Hà Lan nhằm chống lại những áp bức của người Tây Ban Nha theo Công giáo La Mã. Mặc dù chịu sự thống trị của Tây Ban Nha cả về vương quyền và thần quyền, Hà Lan đã sớm tích lũy kinh nghiệm, sở hữu nhiều điều kiện để phát triển yếu tố tư bản và chủ nghĩa trọng thương (Mercantilism). Trên cơ sở đó, năm 1568, quân dân Hà Lan chính thức nổi dậy chống lại Felipe II (1527-1598) của Tây Ban Nha. Năm 1581, mười bảy tỉnh ở phía bắc Hà Lan dưới sự lãnh đạo của Willem van Oranje đã tự tuyên bố độc lập khỏi Tây Ban Nha và thành lập nước Cộng hòa. Kết quả này có ý nghĩa quan trọng, không chỉ là cuộc Cách mạng tư sản đầu tiên trong lịch sử, mà còn “mở ra con đường phát triển nhanh chóng về mọi mặt, làm cho Hà Lan trở thành “một nước tư bản kiểu mẫu trong thế kỷ XVII”.
Mặt khác, do nền độc lập của Hà Lan không được công nhận bởi chính quyền Tây Ban Nha, giữa hai quốc gia này vẫn tiếp tục kéo dài chiến tranh, mà theo triết gia Huig de Groot (1583-1645), “điều này đơn giản càng củng cố quan điểm rằng người Hà Lan phải tự làm chủ số phận của họ. Thay vì lùi bước khi đối mặt với đe doạ và áp lực, lựa chọn duy nhất là đầu tư nhiều hơn vào các công ty thương mại và xây dựng một mạng lưới buôn bán càng nhanh càng tốt để giúp tăng cường hoả lực và củng cố cho nền độc lập”. Chính vì vậy, từ thập niên 90 của thế kỷ XVI, Cộng hòa Hà Lan đã bắt đầu nghiên cứu con đường sang phương Đông qua Bắc Băng Dương và Đại Tây Dương.
Năm 1596, Jan Huyghen van Linschoten (1593-1611), một nhà hàng hải người Hà Lan đã công bố tác phẩm Itinerario - cuốn sách ghi chép về các tuyến thương mại, các hướng dẫn về cách thức kinh doanh, những mô tả về các vùng đất và các cộng đồng dân cư ở phương Đông... qua hải trình của tàu Bồ Đào Nha xuất phát năm 1584 tại Lisbon, trong đó nhấn mạnh rằng “tiềm lực quân sự và thương mại của người Bồ Đào Nha ở phương Đông hết sức bấp bênh và dễ bị đánh bại - nhất là ở vùng quần đảo hương liệu Đông Nam Á”. Tuyên bố này trở thành động lực để chính quyền Hà Lan đầu tư cho các chuyến thám hiểm đến miền Đông Ấn qua Đại Tây Dương, tiêu biểu là hải trình của Cornelis de Houtman năm 1595-1597 và Jacob van Neck năm 1598-1599, đã có những tác động to lớn đối với người Hà Lan: “Lần đầu tiên, một hạm đội Hà Lan đã trực tiếp đến trung tâm hương liệu Đông Nam Á (ghé thăm Banten, Moluccas...), mở ra con đường buôn bán trực tiếp với thế giới phương Đông mà không lo ngại phản ứng từ các đế chế Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha... Chỉ trong giai đoạn ngắn từ năm 1595 đến trước khi thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan (1602), ước tính có tới 15 hạm đội với tổng số gần 65 thương thuyền đã được người Hà Lan tổ chức đi sang phương Đông, trong đó có 50 thương thuyền trở về nước (trong khi đó, trong cả giai đoạn 1591-1601, người Bồ Đào Nha chỉ phái sang Đông Ấn có 46 tàu). Riêng với đội ngũ thương nhân Amsterdam, từ năm 1595 đến năm 1602, họ đã kịp phái sang phương Đông 7 đội tàu với tổng cộng 44 chiếc (đội ít nhất có 3 tàu và đội nhiều nhất có 8 tàu)”.

Hải đội của Jacob van Neck đến Indonesia
Sự phát triển mạnh mẽ của giới thương nhân Hà Lan đã xúc tiến cho sự thành lập hàng loạt các công ty thương mại với nhiều hoạt động buôn bán - cạnh tranh ở cả thị trường Hà Lan và châu Á (Compagnie van Verre, Brabantsche Compagnie, Verenigde Zeeuwse Compagnie…). Với tham vọng làm chủ mặt biển, củng cố độc lập dân tộc và thay thế vai trò độc quyền thương mại của Bồ Đào Nha, “ngày 26/3/1602, trên cơ sở hợp nhất một số công ty đã từng hoạt động ở khu vực châu Á, “Công ty Đông Ấn Thống nhất” hay còn gọi là Công ty Đông Ấn Hà Lan (De Vereenigde Oost-Indische Conpagnie, VOC) dưới sự bảo trợ của chính quyền Hoàng gia đã được thành lập với một Hội đồng điều hành gồm 17 người và có tổng số vốn ban đầu là 6,5 triệu florin. VOC được coi là công ty có thế lực kinh tế lớn nhất Tây Âu trong khu vực buôn bán phương Đông. VOC có một đoàn tàu buôn mạnh gồm hơn 150 chiếc được trang bị vũ khí hiện đại. Công ty được sự ủng hộ chính thức của quốc vương và chịu trách nhiệm duy nhất trong việc liên hệ với bên ngoài, có toàn quyền trong các quyết định như: tuyên chiến, xây dựng cảng, lập thương điếm cũng như ký kết các hiệp ước khi cần thiết. Mục tiêu cao nhất của VOC là phải nhanh chóng giành được độc quyền buôn bán và đất thực dân ở bất cứ nơi nào có thể tại phương Đông”.

Văn kiện thành lập VOC (1602)
Xuất phát từ tham vọng tìm kiếm thị trường hàng hóa, tài nguyên trù phú tại phương Đông, cùng nỗ lực thay thế Bồ Đào Nha nắm giữ độc quyền thương mại gia vị, VOC có những đặc điểm phát triển khác biệt so với những Công ty Đông Ấn khác của Anh (EIC) và Pháp (CIO):
Thứ nhất, Công ty Đông Ấn Hà Lan mang tính chất thương mại điển hình, phục vụ trọng điểm thương mại và tập trung phát triển trên các tuyến hải thương quốc tế. Trên cơ sở đó, VOC thiết lập “cổ phiếu” như một phương thức để tập trung và huy động nguồn vốn lớn trong các hoạt động thương mại, điều này không biểu hiện tại các thực thể như EIC và CIO.
Thứ hai, Công ty Đông Ấn Hà Lan phát triển gắn liền với hoàng gia Hà Lan cùng các công quốc, đồng thời cũng chính là cổ đông của công ty. VOC không phải là công ty thương mại độc lập của tư nhân, mà chính là công ty quốc gia, đại diện cho Cộng hòa Hà Lan trong các hoạt động thương mại tại nước ngoài.
Những đặc điểm trên phần lớn quyết định chính sách kinh tế của VOC tại các thị trường phương Đông là xây dựng nền thương nghiệp, mạng lưới kinh tế - buôn bán rộng khắp. Sau khi VOC bị giải thể năm 1799, chính sách trên đã có sự thay đổi để phù hợp với xu hướng phát triển chủ nghĩa thực dân của các nước tư bản châu Âu, bao gồm chiếm đóng đất đai, khai thác thị trường, tập trung mạnh vào nền nông nghiệp và thủ công nghiệp bản địa.
2. Quá trình xâm nhập, thiết lập ảnh hưởng của VOC tại Đông Nam Á
Khi những thương thuyền của VOC tới Indonesia, tình hình tại quần đảo tương đối hỗn loạn: Sau khi chiếm Malacca (1511), Bồ Đào Nha tiếp tục tấn công các đảo lân cận nhằm kiểm soát tuyến đường tới “đảo hạt tiêu” Maluku, “Mối quan hệ giữa người Bồ Đào Nha và người Ternat trở nên căng thẳng do những nỗ lực khá yếu ớt của người Bồ Đào Nha trong việc Cơ đốc giáo hóa và bởi cách cư xử nói chung là kém cỏi của người Bồ Đào Nha… Về sau, Ternat đã trở thành một quốc gia Hồi giáo và chống lại Bồ Đào Nha quyết liệt dưới sự cai trị của Sultan Baab Ullah và con trai ông là Said ad-Din Berkat Syah. Người Bồ Đào Nha cũng tham gia và bao vây đảo Solor. Năm 1562, các linh mục Dominican đã xây dựng một pháo đài ở đó và bị người Hồi giáo Java đốt cháy vào năm sau. Tuy nhiên, các linh mục Dominica vẫn kiên trì xây dựng lại pháo đài bằng những vật liệu bền hơn và bắt đầu quá trình Cơ đốc giáo hóa người dân địa phương. Có thêm các cuộc tấn công của người Java trong những năm sau đó. Người dân Solor cũng không hề đồng tình ủng hộ người Bồ Đào Nha hay tôn giáo của họ, và đã có nhiều lần thể hiện sự phản kháng. Vào năm 1598-1599, một cuộc nổi dậy lớn của người Solor đã yêu cầu người Bồ Đào Nha cử một đội quân gồm 90 tàu để trấn áp”. Thành công của Bồ Đào Nha ở phương Đông là kiểm soát nhiều cơ sở giao thương quan trọng (Goa, Calicut, Malacca, Ambon, Macao, Nagasaki…), song cách hành xử quyết liệt bằng vũ lực và đặt nặng việc truyền giáo đã gây ra mâu thuẫn với nhiều quốc gia châu Á (đặc biệt là các Hồi quốc tại Indonesia), dẫn đến sự suy yếu nhanh chóng của người Bồ tại khu vực. Trong khi đó, Hà Lan lại có được sự tin tưởng của cư dân vùng quần đảo về vấn đề tôn giáo, nhiều khả năng tương đồng với cách Hà Lan ứng xử trước Mạc phủ Tokugawa (Nhật Bản): “Họ [người Hà Lan] đã giải thích rằng, tôn giáo mà họ theo đuổi (đạo Tin Lành) không chịu sự chi phối của nhà thờ La Mã và chính người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha mới là những kẻ có mưu đồ chính trị đối với Nhật Bản. Người Hà Lan đến Nhật Bản chỉ vì mục đích buôn bán mà thôi”.
Tận dụng cơ hội đó, Hà Lan đẩy nhanh việc xâm nhập vào vùng quần đảo, chủ yếu bằng cách liên minh, trao đổi lợi ích với chính quyền bản địa, hỗ trợ quân sự chống lại các thế lực phương Tây khác: “Sự bành trướng của công ty VOC của Hà Lan trên các vùng kiểm soát cũ của Bồ Đào Nha đã có sự hỗ trợ của một số vương quốc ở Indonesia và Xiêm là minh chứng rõ của sự “liên kết cộng sinh” nhằm đạt những lợi ích quốc gia”. Thực tế cho thấy, người Hà Lan đã tìm kiếm mục tiêu và thực hiện ý định này từ trước khi VOC thành lập: “Năm 1600, người Hà Lan cùng Hồi quốc Hitu liên minh chống lại Bồ Đào Nha, đổi lại người Hà Lan sẽ độc quyền buôn bán gia vị của Hitu. Người Bồ Đào Nha đã đáp trả vào năm 1602 bằng một lực lượng viễn chinh lớn (và cuối cùng) từ Malacca, lực lượng này tạm thời tái lập sự thống trị của Bồ Đào Nha ở phần lớn Maluku. Nhưng vào tháng 2 năm 1605, VOC đã tiếp tục duy trì liên minh với Hitu và chuẩn bị tấn công pháo đài của người Bồ Đào Nha trên Ambon. Người Bồ Đào Nha đã đầu hàng. VOC chiếm pháo đài, đổi tên thành “Victoria”, và ngay sau đó trục xuất các nhà truyền giáo Công giáo và bắt đầu chuyển sang đạo Tin Lành”. Trong giai đoạn đầu của quá trình xâm nhập, đối tượng liên minh của VOC thường là các tiểu quốc, dân tộc sinh sống tại các đảo nhỏ (Maluku, Banda…), một phần do Hà Lan chưa đủ sức để xóa bỏ Bồ Đào Nha tại Malacca, còn Hồi quốc Banten lại nổi lên với tư cách là “trung tâm giao lưu thương mại thứ hai giữa vùng Eo Sunda và vùng biển Java”. Cần phải nhấn mạnh rằng, những hòn đảo này là nguồn cung cấp hạt tiêu và nhục đậu khấu dồi dào, giá trị. Mặt khác, nếu không thể thiết lập trụ sở tại vùng lõi Java, kế hoạch của người Hà Lan nhằm kiểm soát các tuyến vận chuyển sẽ trở nên bất khả thi . Chính vì vậy, từ năm 1603, thương điếm đầu tiên của VOC đã được thiết lập tại Banten (Java) sau quá trình thương thuyết giữa hai bên. Nhìn chung, kết quả này đã đáp ứng được yêu cầu trước mắt là tạo ảnh hưởng, nền móng tại vùng lõi quần đảo để trong tương lai phục vụ cho chính sách của Hà Lan tại Quần đảo Gia vị. Tuy nhiên, quá trình bành trướng của VOC đã gặp nhiều khó khăn và cản trở đến từ cả cư dân bản địa và các hạm đội Anh với tham vọng thiết lập ảnh hưởng tại khu vực.
Trong bối cảnh đó, lịch sử VOC đã xuất hiện nhân vật Jan Pieterszoon Coen (1587-1629). Là sĩ quan nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng của VOC, Coen đã có những chuyến thực địa và nghiên cứu kĩ lưỡng về quần đảo Indonesia. Với triết lý “Thương mại không có chiến tranh, và chiến tranh không có thương mại không thể được duy trì”, Coen đã cho thấy sự quyết liệt chống lại các đối thủ cạnh tranh, đặt mục tiêu phải khẳng định quyền lực của người Hà Lan tại vùng quần đảo, điều này đã gây ấn tượng mạnh mẽ với chính quyền Hà Lan. Chính vì vậy, năm 1619, Coen đã được bổ nhiệm làm Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan. Viện cớ bảo vệ quyền lợi thương nhân để thực thi biện pháp quân sự tại Jayakerta, Coen đã cho hạm đội tấn công hải quân Anh và quân đội Banten đang chiếm giữ thành phố và thành lập Batavia - trụ sở trung tâm của VOC tại phương Đông. Đây có thể coi là thành công lớn nhất của VOC trên hành trình tiến vào Đông Nam Á. Nhờ những thuận lợi về địa lý, Batavia có đủ tiềm năng “trở thành điểm xuất phát để thực dân Hà Lan đánh chiếm các đảo Indonesia, biến nơi này thành trung tâm buôn bán và giao thông trên trục đông - Á - Tây - Phi”. Đây là tiền đề cho cuộc chinh phục Banda của Coen vào năm 1621 nhằm phá vỡ sự ràng buộc với chính quyền trên đảo, chính thức độc quyền nhục đậu khấu tại khu vực. Đến năm 1641, VOC đã chiếm thành công Malacca từ tay người Bồ Đào Nha bằng quân sự kết hợp liên minh với người bản xứ: “Vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, vương quốc Johor, một bộ phận tách ra sau khi vương quốc Hồi giáo Melaka sụp đổ sau cuộc tấn công của Bồ Đào Nha, trở nên thịnh vượng. Khi đến khu vực này, người Hà Lan xem Johor là một đối trọng có ích để cạnh tranh với người Bồ Đào Nha ở Melaka và họ đẩy mạnh việc buôn bán với vương quốc Johor này. Năm 1637, vương quốc Johor đã liên minh với người Hà Lan qua bản hiệp ước kí kết giữa tiểu vương Abdul Jali với người Hà Lan. Vương quốc Johor đã cử một hạm đội gồm 40 chiến thuyền để giúp người Hà Lan đánh đuổi Bồ Đào Nha khỏi Melaka trong cuộc chiến đấu cuối cùng (1640-1641)”.

Batavia năm 1681
Kế hoạch của Coen thể hiện rõ ý định tối ưu lợi nhuận, củng cố mạng lưới giao thương khu vực và khai thác hàng hóa. Tuy nhiên, kế hoạch đó cũng mang tính chất “bạo lực”, gây nên mâu thuẫn giữa VOC và một số chính quyền bản địa. VOC bắt đầu nhận ra hậu quả của việc xây dựng một hệ thống thương mại mà không kiểm soát được quyền lực lãnh thổ. Chính vì vậy, trong các nhiệm kì tiếp theo của các Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan, VOC đã có những quyết sách, hành động cứng rắn đối với các tiểu vương khu vực: Vào thời Toàn quyền Johan Maetsuycker (1653 - 1678), người Hà Lan kiểm soát các thủ lĩnh hàng đầu của Minangkabau (1662), chấm dứt ảnh hưởng của Aceh qua chuyến chinh phạt của Abraham Verspreet (1662), làm chủ hoàn toàn khu vực Molucca (1663), Hồi quốc Macassar chấp nhận quyền minh chủ của Hà Lan, cho Hà Lan độc quyền buôn bán và trục xuất toàn bộ người châu Âu khác; Vào thời Toàn quyền Rijckloff van Goens (1678 - 1681), năm 1684, tiểu vương Abulfatah Agung của Bantam phải ký hiệp ước hầu như trao nền độc lập của Bantam cho Hà Lan, trả các chi phí chiến tranh lên tới 600.000 dollars, cho phép người Hà Lan độc quyền buôn bán xuất nhập khẩu, trục xuất những người châu Âu khác khỏi vương quốc. Như vậy, cho đến cuối thế kỷ XVII, VOC đã dần có ý thức thực dân và chiếm lĩnh thị trường, “chuyển từ một thế lực thương mại sang một thế lực lãnh thổ”.
Từ đầu thế kỷ XVIII, VOC ngày càng suy yếu trên lĩnh vực thương mại. Đó là hậu quả từ chính sách “mua rẻ, bán đắt” của các giám đốc VOC từ những năm 50 của thế kỷ XVII, khiến cư dân bản địa ngày càng nghèo khó, từ đó khiến cho thị trường Indonesia không thể tiêu thụ các mặt hàng của châu Âu mang đến. Việc bán phá giá, lỗ vốn lâu dài dẫn đến nợ nần là không thể tránh khỏi: “Do thâm hụt ngày càng tăng, các giám đốc đã có chính sách phải tuyệt đối giữ bí mật sổ sách kế toán của Công ty, và để duy trì uy tín của mình trên thị trường tiền tệ, Công ty phải trả tiền lãi cổ phần hàng năm từ 20 đến 40 phần trăm, mặc dù để làm được điều đó họ phải tiếp tục vay tiền. Vào năm 1700, nợ của Công ty lên tới 12 triệu guilders”. Mặt khác, các cuộc chiến tranh hoặc hỗ trợ chiến tranh tại Indonesia khiến VOC chịu ngày càng nhiều tổn thất. Thậm chí, năm 1751, trong cuộc chiến tranh ở Mataram, chỉ huy người Hà Lan là De Clercq đã bị tiểu vương Mataram giết chết. VOC đồng thời phải hòa giải, thiết lập quan hệ tốt đẹp với các tiểu vương còn lại, cũng như giúp đỡ họ trong quá trình tranh chấp ngôi vị và giao thương khu vực. Phải tới năm 1753, nền hòa bình tạm thời được VOC khôi phục tại Java sau một số hiệp ước được ký kết. Nhưng các kết quả đó chưa đáng kể giúp khôi phục sức mạnh của Hà Lan tại Đông Ấn.
Năm 1780 - 1784, cuộc chiến tranh Anh - Hà Lan diễn ra, gần như “chấm dứt” những cố gắng củng cố vị thế của VOC tại châu Á. Lúc này, hải quân Hà Lan ở Indonesia đã không còn khả năng chống cự, số lượng tàu thuyền thiệt hại rất lớn: “Người Hà Lan đã mất hầu hết các tàu vẫn thường chạy từ phương Đông về nước. Không có tàu buôn nào dám rời hải cảng của Hà Lan ở châu Âu. Buôn bán bị đình trệ. Các kho hàng của người Hà Lan tại Batavia chất đầy những hàng hóa không thể xuất khẩu được, và họ buộc lòng phải bán rẻ cho những người trung gian”. Thất bại của Hà Lan kéo theo sự độc quyền thương mại của VOC tại Indonesia, thông qua bản Hòa ước Paris năm 1784, có điều khoản rằng các quốc gia sẽ không cản trợ việc đi lại của tàu thuyền Anh tại vùng biển phía đông Ấn Độ. Trong bối cảnh đó, tại vùng quần đảo, các Hồi quốc bắt đầu nổi loạn, người Anh thiết lập ảnh hưởng của mình tại Penang và Kedah, tạo nên những thách thức lớn cho VOC đang trên đà suy tàn, đặc biệt là về mặt thương mại: “Điều không kém phần đáng lo ngại là tình hình thâm hụt cán cân thanh toán của Công ty đang tăng nhanh không hề bị ngăn chặn. Năm 1789, con số thâm hụt là 74 triệu guilders và hai năm sau con số đó tăng lên 96 triệu guilders. Công ty bị mất uy tín và không thể vay tiền tiếp ở thị trường công khai”. Năm 1795, Pháp tấn công Hà Lan, vua William V phải chạy sang nước Anh. Nhân cơ hội đó, người Anh yêu cầu kiểm soát một số vùng đất ở Indonesia như Malacca, Tây Sumatra… như một sự bảo đảm để ngăn chặn Pháp chiếm đóng Hà Lan. Trước những áp lực trên, Hà Lan về căn bản không thể giải quyết triệt để, không đủ nguồn lực để duy trì hoạt động của VOC tại nước ngoài. Kết quả, năm 1799, Công ty Đông Ấn Hà Lan chính thức giải thể sau 197 năm tồn tại và phát triển.
3. Tác động của VOC đối với nền kinh tế Indonesia
Về thương nghiệp, từ nửa sau thế kỷ XVII, VOC về cơ bản đã kiểm soát các đảo gia vị và địa hạt thương mại quan trọng ở vùng quần đảo Indonesia. Một mạng lưới giao thương với cách thức hoạt động khác biệt mô hình Đông Nam Á truyền thống được thiết lập bởi người Hà Lan, mang đặc trưng nổi bật với “các thương thuyền đồng thời là những hạm đội có vũ trang và có chi nhánh đại diện (thương điếm) ở hầu khắp các vùng ven biển của khu vực Đông Nam Á. Ngay cả ở Đông Á VOC cũng có đại diện ở Hirado, Nagasaki, Formosa... Tất cả các thương điếm này đều chịu sự chỉ huy nhất quán từ Amsterdam nhưng lại rất năng động trong những hoạt động theo cơ chế thị trường”, gọi là “Mạng lưới thương mại Nội Á” (Intra-Asian trade).

Mạng lưới thương mại Nội Á (Intra-Asian trade)
Dựa trên lý thuyết của chủ nghĩa trọng kim - vàng bạc là của cải quan trọng nhất, các quốc gia có nhiều kim loại này tức là quốc gia giàu có, hầu hết các nước châu Âu sẽ hạn chế để “rò rỉ” nguồn tài nguyên này ra bên ngoài, trong khi để mua hàng bán hàng hóa thì buộc phải sử dụng chúng làm tiền tệ. Tuy nhiên, chính quyền Hà Lan với tư duy kinh doanh linh hoạt, lại kế thừa nhiều tri thức tư bản khi đã tiến hành Cách mạng tư sản sớm nhất, sẵn sàng bỏ tiền để mua về nhiều mặt hàng giá trị từ các vùng đất phương Đông như Ấn Độ, Trung Quốc, Đông Nam Á… sau đó đem số hàng hóa này đi bán (thường với giá cao) để thu về nguồn tiền lớn. Cách thức vận hành mạng lưới của VOC được mô tả như sau: “Mạng lưới thương mại Nội Á của VOC về cơ bản được tổ chức như sau: Bạc nén và các loại kim loại tiền tệ (mang từ Hà Lan sang) được đầu tư vào các loại sản phẩm vải sợi Ấn Độ - 8 mặt hàng thiết yếu trong hoạt động trao đổi lấy hồ tiêu và các loại hương liệu của vùng quần đảo Indonesia. Trong khi phần lớn hương liệu được chuyên chở về châu Âu, một lượng nhất định được đưa đến bán ở các trung tâm giao dịch khác của phương Đông như Ấn Độ, Ba Tư, Đài Loan, Nhật Bản, Đàng Ngoài… Tơ sống và các loại vải lụa thu mua từ Bengal, Ba Tư, Trung Quốc và Đàng Ngoài được chuyên chở sang Nhật Bản (một phần về châu Âu) để tiến hành trao đổi bạc Nhật (và từ đầu thập niên 1670 là đồng và vàng). Phần lớn số bạc thu mua tại Nhật được phân phối cho các thương điếm của Công ty ở phương Đông (Đàng Ngoài, Xiêm, Java, Bengal, Ba Tư…) làm vốn kinh doanh; một số lượng nhỏ được dùng để thu mua vàng ở Đài Loan. Cùng với số vàng đưa từ Hà Lan sang, vàng thu mua ở Đài Loan và các trung tâm buôn bán khác ở phương Đông (trong đó có Đàng Ngoài) được gửi sang Coromandel để duy trì việc nhập khẩu vải vóc từ Ấn Độ cho các hoạt động thu mua hương liệu tại vùng quần đảo Đông Nam Á”.
So sánh giữa mạng lưới thương mại của Hà Lan với cấu trúc thương mại Indonesia truyền thống, có thể thấy điểm khác biệt khá quan trọng về chủ thể tương tác: Trước đây, mạng lưới thương mại Indonesia ghi nhận sự dự nhập của các quốc gia lớn (Srivijaya, Majapahit, Malacca…) và các đảo quốc - cảng đảo hoạt động tự do (Borneo, Moluccu, Sulawesi…) tích cực tham gia buôn bán, trung chuyển hàng hóa và cạnh tranh dựa trên lợi ích bang giao, chính trị, xoay quanh một trung tâm Liên thế giới tại vùng Eo Malacca. Trong hệ thống đó, mỗi chủ thể đều tương đối độc lập trong tương tác, vừa giúp hoàn chỉnh hệ thống thương mại khu vực, vừa phục vụ phát triển thương nghiệp cho các quốc gia hoặc thương cảng.
Tuy nhiên, không chỉ tham gia vào hoạt động buôn bán tại khu vực, làm giàu cho chính quốc Hà Lan và mở rộng ảnh hưởng với các chính thể Đông Nam Á khác, “sự xuất hiện của VOC đã làm phần lớn các cảng quốc tế ở Đông Nam Á mất dần ý nghĩa đích thực là những trung tâm giao lưu thương mại quốc tế mà đơn thuần trở thành những trung tâm vùng làm nhiệm vụ thu gom sản phẩm từ nội địa”. Thương nghiệp truyền thống tại Indonesia chính thức bước vào giai đoạn mới, từ thời kỳ tự do buôn bán, giao lưu thương mại kết hợp giao lưu văn hóa, bang giao chính trị giữa những chủ thể độc lập chuyển sang thời thời kỳ độc quyền thương mại do tư bản Hà Lan kiểm soát. Những chính sách thương nghiệp của Hà Lan tại Indonesia thế kỷ XVII - XVIII, đặc biệt là “độc quyền thương mại, thị trường các tiểu quốc” và “mua rẻ, bán đắt” đều nhằm mục đích tối đa nguồn vốn và lợi nhuận cho VOC, đồng thời khiến đời sống cư dân ngày càng khó khăn. Nền thương nghiệp Indonesia truyền thống từ giai đoạn bị hạn chế giao lưu, phát triển chuyển sang giai đoạn phụ thuộc, cột chặt với các chính sách khai thác thuộc địa của Hà Lan vào thế kỷ XIX - XX.
Về nông nghiệp, trong khoảng thời gian đầu thiết lập ảnh hưởng tại Indonesia, VOC không thực sự chú trọng. Đối với công ty, các mặt hàng gia vị, hương liệu ở một số vùng đảo nhất định là nguồn lợi quan trọng nhất, được đưa về Hà Lan để xuất khẩu sang các nước châu Âu, hoặc được xuất khẩu ngay tại châu Á do Hà Lan độc quyền buôn bán. Các loại nông phẩm lúc này chưa có sự ưu tiên. Tuy nhiên, đến thế kỷ XVIII, do ảnh hưởng của chính sách thương nghiệp tiêu cực, gây ra khủng hoảng nghiêm trọng cho VOC, công ty quyết định tập trung vào nông nghiệp, thực hiện trồng và thu hoạch số lượng lớn nông phẩm và cây công nghiệp như một giải pháp tạm thời.
Nhiều số liệu cho thấy, trong nhiệm kỳ của Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan Hendrick Zwaardecroon (1718 - 1725), ông đã chủ trương thiết lập các đồn điền cà phê đầu tiên tại Batavia và Cheribon, khuyến khích trồng bông và trồng gỗ vàng để sản xuất thuốc nhuộm đỏ. Các hợp đồng cà phê của Zwaardecroon với giá 5 xu/1 pound cà phê đã kích thích việc trồng cà phê phát triển đến mức có nguy cơ chênh lệch cung cầu. Các biện pháp này vốn để “cứu vãn” VOC khỏi tình trạng giải thể, do đó chính sách nông nghiệp của Hà Lan về căn bản mang tính bóc lột: “Công ty thao túng việc buôn bán cà phê trong suốt thế kỷ XVIII. Đây là một câu chuyện đáng buồn về các biện pháp nhằm bảo đảm giá cả cao ở thị trường châu Âu và giá rẻ mạt đối với người sản xuất; chính phủ nắm quyền sinh sát đối với người sản xuất vì từng lúc thay đổi chính sách một cách độc đoán khiến người sản xuất không thể tiến hành trồng trọt cà phê một cách kinh tế… Furnivall đã tổng kết như sau: “Kết quả là cứ 126 pounds cà phê được chuyển lên tàu, người trồng cà phê phải cung cấp 240 đến 270 pounds và chỉ được một số tiền tương đương với giá trị 14 pounds cà phê”.
Nền nông nghiệp Đông Nam Á về cơ bản mang tính chất “tự cung tự cấp”, sản xuất các nông sản lương thực, rau củ… để phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sinh tồn. Trong nhiều thời kỳ, khi sản xuất nông nghiệp của một số quốc gia phát triển, các nông sản đó trở thành các mặt hàng trao đổi, buôn bán giữa các chính thể khu vực, tạo nên một nền kinh tế hàng hóa năng động. Ở cấp độ khu vực, từ thế kỷ XI - XII, “khu vực Đông Nam Á có nhiều thương cảng và/hoặc các chính thể trọng thương mới (new trade-based polities) như là các cảng thị trên đảo Sumatra, các cảng thị mới trên bán đảo [Malay], cảng Thị Nại (Quy Nhơn - Việt Nam ngày nay) ở tiểu quốc Vijaya (Champa), thương cảng Vân Đồn (Đại Việt) và các cảng của Java… Hải thương trở nên quan trọng hơn đối với các chính thể nằm trên bờ Biển Đông, cho dù đó là chính thể trọng thương (trade-oriented polity) như là Champa, hay chính thể trọng nông (agriculture-based polity) như Đại Việt và Angkor”. Trong bối cảnh đó, Indonesia không phải là trường hợp ngoại lệ. Trong không gian của vùng quần đảo, tồn tại các chính thể thương nghiệp điển hình là các đảo quốc, cảng đảo; cùng với những chính thể thương nghiệp có nền nông nghiệp tương đối phát triển, tiềm lực đủ mạnh để vừa duy trì lương thực sinh hoạt, vừa mang đi xuất khẩu tới các quốc gia. Thời kỳ của các cường quốc thương mại như Srivijaya, Majapahit... là minh chứng rõ ràng cho quan điểm trên.
Trước sự xâm nhập của phương Tây, đặc biệt là tư bản Hà Lan với tư duy của hình thái kinh tế - xã hội tư bản (đề cao yếu tố lợi nhuận) và chủ nghĩa trọng thương (chú trọng buôn bán, tạo ra giá trị thặng dư lớn với sản lượng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu), nông nghiệp Indonesia dần có sự biến chuyển quan trọng, chứng kiến số lượng nhỏ các đồn điền trồng cây công nghiệp tại Indonesia, gắn với chính sách nông nghiệp bóc lột của người Hà Lan. Sự xuất hiện của mô hình nông nghiệp trên là dấu mốc cho bước đầu biến đổi của nền nông nghiệp Indonesia, từ tính chất “tự cung tự cấp” chuyển sang tính chất “sản xuất phục vụ kinh tế thuộc địa”. Có thể thấy rằng, so với nền thương nghiệp đã bị tư bản Hà Lan chi phối, kiểm soát từ những năm 20 của thế kỷ XVII, nông nghiệp Indonesia có sự thay đổi muộn hơn khoảng gần một thế kỷ, nhưng đều chịu những chính sách bất bình đẳng, khắc nghiệt của tư bản Hà Lan. Tác động về kinh tế của VOC kết thúc năm 1799, nhưng là tiền đề và cơ sở để Đế quốc Hà Lan tiếp tục phát triển, tiến hành xâm chiếm và khai thác thuộc địa trên toàn lãnh thổ Indonesia trong thế kỷ XIX - XX.
4. Kết luận
Trước khi có sự xâm nhập của các công ty Đông Ấn, Đông Nam Á là một khu vực phát triển với các hoạt động kinh tế - bang giao diễn ra một cách tích cực, sôi nổi giữa các chính thể khu vực; hoạt động sản xuất nông nghiệp phát triển ở nhiều quốc gia trên cơ sở địa lý phong phú. Trong bối cảnh đó, Indonesia với vai trò là một trong những trung tâm kinh tế - chính trị lớn đã tham gia vào hệ thống hải thương khu vực, đồng thời cũng là một trong những vùng sản xuất nông nghiệp quan trọng. Các nước Đông Nam Á nói chung và Indonesia nói riêng, đều có khả năng xây dựng một mô hình kinh tế tổng hòa để phát triển sức mạnh, vị thế quốc gia, có những đóng góp lớn trong sản sinh và truyền bá văn hóa.
Từ sau các cuộc phát kiến địa lý vào thế kỷ XV, người châu Âu đã ghi chép về một phương Đông giàu có, nhiều tài nguyên và sản phẩm chất lượng. Từ những thương nhân phương Tây chỉ tới để khám phá và buôn bán, một số chính quyền châu Âu, trong đó có Hà Lan, đã xây dựng các Công ty Đông Ấn với chính sách đối ngoại và quân đội chiến đấu có tổ chức, hướng tới các vùng đất phương Đông để gây sức ép với chính quyền bản địa về vấn đề thiết lập thương điếm và độc quyền thương mại. VOC - đại diện cho Cộng hòa Hà Lan là thế lực tư bản mạnh nhất tại châu Âu thế kỷ XVI, đã từng bước chinh phục quần đảo Indonesia - điểm trọng yếu của thương mại Đông Nam Á, và sang đến thế kỷ XVII thì Batavia đã trở thành trung tâm liên thế giới của người Hà Lan tại khu vực. Trên bước đà đó, để tối đa lợi ích thu về chính quốc, VOC đã can thiệp và tạo một số biến chuyển căn bản đối với nền nông nghiệp và thương nghiệp Indonesia, tạo tiền đề và cơ sở cho công cuộc xâm chiếm thuộc địa trong các thế kỷ sau đó.
Nhìn từ VOC nói riêng và các Công ty Đông Ấn nói chung, các thế lực tư bản này đều tìm cách thao túng, chi phối các ngành kinh tế tại các vùng lãnh thổ, các thị trường thế giới; giảm thiểu và ở mức độ nào đó là xóa bỏ ảnh hưởng của cư dân bản địa; tăng quyền lực và quyền lợi kinh tế cho các tư nhân phương Tây, hướng đến mục tiêu thiết lập mô hình kinh tế thuộc địa - tư bản chủ nghĩa tại Đông Nam Á.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

