THIÊN ĐÀNG VÀ ĐỊA NGỤC CÓ TỒN TẠI BÊN NGOÀI CHÚNG TA KHÔNG? (PHẦN I)
Từ quan điểm của Tin Mừng, địa ngục và thiên đàng không phải là những phần thưởng hay hình phạt sau khi chết hay là "nơi ở" của con người...

Khi bạn bắt đầu nói với mọi người về Thiên đàng và/hoặc Địa ngục, bạn sẽ phải đối mặt với một quan niệm khá cố định về chúng như là phần thưởng hoặc hình phạt từ Chúa sau khi chết. Mọi người thường coi Thiên đàng là phần thưởng cuối cùng cho một lối sống đạo đức và tốt đẹp (Các từ đồng nghĩa chính của từ "Thiên đàng" trong truyền thống Ki-tô giáo là Eden, Nước Chúa, Thiên Quốc, Jerusalem trên trời, lòng của Abravam và hạnh phúc vĩnh cửu), còn Địa ngục là hình phạt cuối cùng cho một cuộc sống tội lỗi và độc ác (Các từ đồng nghĩa chính của từ "địa ngục" trong truyền thống Ki-tô giáo là sheol, cõi âm, Gehenna, Tartarus và sự dày vò vĩnh viễn.).
Đồng thời, chúng được hiểu cả hai điều này là thứ gì đó nằm ngoài thế giới con người, một điều mà con người chỉ tiếp cận và thừa hưởng sau khi chết và chỉ một phần - nghĩa là chỉ với linh hồn, và cuối cùng là với toàn bộ con người (bao gồm cả linh hồn và thể xác) sau Sự Phục Sinh Toàn Cầu và Phán Xét Cuối Cùng.
Địa ngục và Thiên đàng được hình dung như những trạng thái đặc biệt bên ngoài - ban đầu là tinh thần, và sau đó là vật lý - những nơi chốn và "thời kỳ" nhất định trong cuộc sống sau khi chết của một người.
Theo quan điểm này, mối quan hệ với Chúa được xây dựng theo một kế hoạch kinh doanh thương mai đơn giản, được thể hiện qua câu tục ngữ: "Có qua có lại mới toại lòng nhau" Tôi dành cho Chúa những suy nghĩ, lời nói và hành động chính trực trong cuộc sống trần gian của mình, và Chúa ban cho tôi hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu sau khi chết.
Nếu chúng ta nhìn thẳng vào bản thân một cách trung thực, rõ ràng là mỗi người chúng ta, ngoại trừ những trường hợp hiếm hoi, hầu hết đều không hoàn thành được những nghĩa vụ của mình theo "hợp đồng" với Thiên Chúa và do đó xứng đáng phải “sa hỏa ngục” – theo cách nói của Công giáo La Mã.
Vì vậy, hy vọng duy nhất của chúng ta là sự ăn năn, theo gương của Kẻ Trộm Lành trong Tin Mừng, người đã được Chúa Ki-tô ban ngay Nước Thiên Đàng chỉ nhờ lời cầu xin ăn năn của mình:
" Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến con" (Loukas XXIII, 42). Như thể kẻ trộm ấy đã kịp "nhảy vào toa cuối cùng của chuyến tàu cứu rỗi đang lăn bánh".Dựa trên ví dụ này và cùng với lòng kiêu ngạo của mình, nhiều người đưa ra một kết luận sai lầm và xảo quyệt rằng sự ăn năn vào lúc cuối đời là đủ cho sự cứu rỗi của họ, và do đó, trước khi chết họ có thể thỏa mãn mọi khoái lạc của cuộc sống mà không từ chối bất cứ điều gì.
Tuy nhiên, từ quan điểm của Tin Mừng, địa ngục và thiên đàng không phải là những phần thưởng hay hình phạt sau khi chết hay là "nơi ở" của con người, mà là những trạng thái nội tâm của trái tim con người ở đây và bây giờ, trong suốt cuộc sống trần thế của chúng ta. Cũng như Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các con (Loukas XVII, 21), thì địa ngục cũng ở trong chúng ta ngay lúc này.
Hơn nữa, nếu như sau khi chết, chúng bị tách biệt, với một khoảng cách lớn không thể vượt qua (Loucas XVI, 26) giữa chúng, thì ở đời này chúng thường cùng tồn tại trong một trái tim, được biểu lộ bằng cùng một miệng lưỡi, và thể hiện mình trong những hành động của cùng một con người, pha trộn đến mức cực kỳ khó phân biệt, giống như sự pha trộn của lúa mì và cỏ lùng trong dụ ngôn của Chúa.
Điều then chốt đối với chúng ta là phải hiểu rằng địa ngục và thiên đàng không phải là những nơi "ngoài kia" hay trong một thời khắc không chắc chắn trong tương lai, mà đã hiện diện ngay tại đây và bây giờ. Niềm hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu và những hình phạt của địa ngục trong đời sống sau này là những kết quả tự nhiên và hậu quả tự nhiên của cuộc sống trần thế của chúng ta: những ý định, suy nghĩ, quyết định, lời nói, hành động, cảm xúc, ý chí, lý trí và thái độ của chúng ta đối với Chúa và người lân cận.
Như Thánh Pavlos đã nói,
"Chớ hề dối mình; Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu; vì ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy. Kẻ gieo cho xác thịt, sẽ bởi xác thịt mà gặt sự hư nát; song kẻ gieo cho Thánh Linh, sẽ bởi Thánh Linh mà gặt sự sống đời đời." (Galatias VI, 7-8). Bằng ý chí, lời nói và hành động của chính mình, mỗi người gieo trong mình hoặc là địa ngục hoặc là thiên đàng, hoặc là sự sống hoặc là sự chết.Khi phạm tội, chúng ta đã lao mình vào vực sâu của địa ngục ở tại chốn đây, chuốc lấy những lời khiển trách đốt cháy của lương tâm, gây hại cho sức khỏe tinh thần, trí tuệ và thể chất của chúng ta, và thường tự hủy hoại mình; chúng ta đối nghịch với người khác, tranh chấp với họ và với Chúa, chúng ta đã chịu đau khổ bởi chính chúng ta từ tất cả điều này. Kẻ phạm tội như thể tự trừng phạt chính mình, vì tội lỗi là sự phá hủy mối quan hệ với Chúa, với người lân cận và với thế giới, và đã chứa đựng sự trừng phạt cho chính nó.
Vì vậy, địa ngục là tội lỗi, và tội lỗi là địa ngục. Cũng như một con đường gắn liền với mục tiêu của nó và vô nghĩa khi thiếu nó, cũng như một cây gắn liền với trái của nó và mất ý nghĩa khi thiếu chúng, thì địa ngục cũng gắn liền với tội lỗi và hoàn toàn không thể tưởng tượng nếu không có nó.
Khác với "địa ngục bên kia mộ", hoàn cảnh "địa ngục trần gian" của chúng ta được giảm nhẹ bởi cơ hội tránh xa các tội lỗi của mình, tuy nhiên chúng ta thường che đậy chúng trong ý thức bằng những sở thích, công việc, việc nhà và những niềm vui mới, đẩy chúng ra khỏi ký ức và quên đi như thể chẳng có gì xảy ra. Do đó, tội lỗi thường được nhiều người coi là một mẫu hành vi có thể chịu đựng, chấp nhận được và thậm chí là bình thường.
Con người tìm cách chìm đắm trong những khoái lạc giác quan, giải trí và vui chơi trên trái đất để át đi những đau khổ tâm linh, ấn tượng tinh thần và đau đớn thể xác; ví dụ như với ma túy. Một người thế tục được hướng dẫn bởi "giới luật" của "Hãy cố gắng tìm kiếm niềm vui và tránh sự đau khổ".
Đối với những người không tin, việc "gây mê" những hậu quả bi thảm và đau đớn của tội lỗi, thậm chí biện minh chúng trở nên đặc biệt dễ dàng và tiện lợi, khiến chúng trở thành một "chuẩn mực" tự nhiên.
"Nếu không có Thượng Đế, thì sẽ không có linh hồn, không có sự tồn tại ngoài cõi mộ," họ lập luận: "Nếu vậy, thì chúng ta hãy ăn và uống; vì ngày mai chúng ta sẽ chết (I Korinthos XV, 32)."Một người quen với việc sống thiếu trách nhiệm và tin rằng nó có thể tiếp tục cho đến khi anh ta chết, sẽ được nối tiếp bởi sự không tồn tại sau khi mình qua đời. "Bao lâu chúng ta tồn tại, cái chết sẽ không ở đây. Và khi nó đến, chúng ta sẽ không còn tồn tại nữa," họ lập luận, như những người Epicurus cổ xưa.
Trong trường hợp này, không có ai để chúng ta phải trả lời, không ai từ trên cao sẽ phán xét hoặc trừng phạt bạn. Điều này có nghĩa là chỉ có con người mới là chủ nhân của cuộc sống của họ, họ một mình là thước đo của thiện và ác, tiêu chí của chân lý và hiện thực - về cơ bản, họ chính là một vị thần đối với chính họ. "Nếu không có Thượng Đế, thì mọi thứ đều được phép." (Cụm từ này có thể được tìm thấy trong cuốn tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov của F.M. Dostoevsky) Như những kẻ vô thần xảo ngôn cổ xưa từng nói: "Con người là thước đo của mọi sự - của những sự vật đang hiện hữu, rằng chúng tồn tại, và của những sự vật không hiện hữu, rằng chúng không tồn tại." (Ý tưởng này được cho là của nhà triết học ngụy biện Hy Lạp cổ đại Protagoras)
"Và về lương tâm thì sao?" bạn có thể hỏi.
"Đó chỉ là một ảo tưởng do chính con người tạo ra," họ sẽ trả lời. "Những định kiến mà xã hội đã áp đặt lên chúng ta về thiện và ác." Friedrich Nietzsche đã viết rằng sự hối hận cũng ngu ngốc như con chó đang cố gắng đập vỡ một tảng đá. Adolf Hitler đã đẩy tư tưởng của Nietzsche đến mức cực đoan: “Mười điều răn đã không còn phù hợp nữa. Lương tâm là một phát minh của người Do Thái—nó là một khuyết điểm, giống như phép cắt bì… Tôi miễn cho bạn khỏi thứ ảo tưởng gọi là lương tâm!”
Sự tôn thờ giới hạn con người này là nguyên nhân tâm lý sâu xa của chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa hoài nghi, là cơ sở của sự gắn bó của chúng với văn hóa, là nguồn cội của quyền lực, sức hấp dẫn và ảnh hưởng của chúng đối với tâm trí và trái tim của con người.
Luôn luôn có sự ích kỷ ham thích phóng túng phía sau chủ nghĩa hoài nghi và chủ nghĩa vô thần. Đó là nguồn gốc, nguồn cội, gốc rễ và nền tảng của chúng. Chính ở đó mà chúng thu nhận nguồn cảm hứng và động lực của mình. Sự hư vinh và tự hào, nếu không kháng cự để tiêu trừ, tự nhiên chúng sẽ lớn mạnh trong trái tim của ai đó đến mức chúng lấn át và đuổi đức tin nơi Chúa ra khỏi đó, chỉ để lại đức tin nơi chính bản thân mình.
Trước tiên, đức tin nơi Chúa là một thành tích của sự từ bỏ bản thân đối với một người yêu mến bản thân mình hơn bất cứ thứ gì khác.
Thánh Pavlos Tông đồ nói với môn đồ của người và mỗi chúng ta: Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến. (I Timotheos VI, 12)./.

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

