Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Nguyên văn chữ Hán:

蚊書錄

有野蚊與家蚊善,野蚊推家蚊爲兄,自稱爲弟。一夕,家蚊飛來野外訪焉,野蚊曰:「野外牛之頭, 羊之背,任兄翁以果腹。不然,日之夕矣,牛羊下來,吾黨惟清談而已。」未幾,牧豎都歸。家蚊未甚飽滿, 第亦勉强從野蚊棲於蓬葉上。歡叙未已,微風從東方起,野蚊將家蚊集敗蘆節中。俄而雨至,又相相飛 向捲荷葉中,指示家蚊曰:「此雖窄陋,然天雨經旬,小弟常穩止焉。」至昧旦,家蚊辭回,謂野蚊曰: 「嗟乎! 小弟何所見之陋,而所居之卑也。夫人家景象,與野外殊别。大厦帡幪,自信漫天之風雨,我則日依繡柱,夜集花幃。會成市於明朝,自鳴得意; 快羣飛於暮夜,於以求之。家中熟睡之時,是吾醉飽之候也。况復不止於此哉!」野蚊聞而慕之。
次日薄暮,野蚊向人家尋家蚊所在。家蚊初見野蚊,笑容滿口,曰:「吾賢弟今日食指果動乎? 適有二女自遠村來,料今夜家主無帷可容,我賢弟宜以遊絲繩腹,豈僅如日夕之牛羊已耶?」野蚊聞言, 微有自慚。至更深,家蚊引野蚊歷觀各所,誇弄其置身之榮。然後尋隙處飛入房裏,果見二女解衣而臥,叭聲如雷。家蚊指野蚊曰:「臍間血熱,不如股上之温。手白皮粗,寧及顏紅之軟?」交交張喙,兩 兩引矮,頃刻間,有似櫻桃之重。《咏蚊》云:「飽似桃櫻重。」於是家蚊共野蚊,向花幃棲宿焉。家蚊欲實其言也。
纔半霎時,家主呼謂奴人曰:「今夜蚊多,宜以火燒之。」家蚊告野蚊曰:「予已有瓦縫缺處,吾相集此,縱火逸,其如我何?」由是幸得無恙。少間,家主又謂奴人曰:「火燒不盡,宜以苦練葉和生魚鱉甲薰之。」一家之中,蒸蒸煙上,凡空缺處,皆苦煙毒氣所及。二蚊在瓦縫中,目如熟棗,幾墜身爲蟻羣之缮者屢屢矣。野蚊急謂家蚊曰:「今將奈何? 不然,初得滿腹,遽爾喪身,兄則不仁,而弟則不智也。」 家蚊失膽,迷惑交並,同野蚊求豕圈以避煙。時目爲毒瘴,視更不明,误入蜘蛛蝤蛸之網[1]者再,用盡翹翹之力,方得脱出。一點餘纔能就處,亦不顧屎氣之浸身。棲足未定,忽見羣蝙自圈上飛出,回翔庭間,凡蚊類之苦煙而遁者,一一爲夜明之砂。野蚊懼甚,怯死者逾一牌。及醒來,見煙消火熄,蝙蝠藏身,急急拂羽而别。驚魂已壓,乃倩田岷送家蚊一書云:
「鳴啟賢兄: 紅顏點血猶存腹,而毒氣之煙猶在目,而念吾儕產出保河,俗云:「保河之蚊,乂安之神。」 言其多而且毒也。身藏文錦,日光中之野馬,秋毫末之輕塵。燈火未來,深夜之中魑魅; 蘇文:「幽暗之中生魑魅,燈火來時[2]口口口 。」飛鳴得意,陰房之處寂寥。尋女薄之微開,輕身入幕; 幸童兒之半睡,唆人以生。故貪於晝者,非五爪將之碎尸,則團扇子之遠送; 貪於夜者,非毒煙之薰其眼,則烈火之燒其形。 曷若牛頭則角所不驚,羊背則尾何能及; 敗蘆而藏身之固,捲荷而棲息之安? 家蚊家蚊! 予言不間,火日之炭,煙上之塵,無日矣。幸早圖之!」
家蚊得書大塹。
山南叔曰: 野蚊,一微物也,而説破榮顯爲畏途,層層透發,似非熟於世故人情者,弗能爲也。意者聖天子有爲而發,不惟當路者既有所懲"而納交貴勢者審所擇。一筆之嚴,其義皆備。

Phiên âm:

Văn thư lục

Hữu dã văn dữ gia văn thiện, dã văn thôi gia văn vi huynh, tự xưng vi đệ. Nhất tịch, gia văn phi lai dã ngoại phóng yên, dã văn viết: “Dã ngoại ngưu chi đầu, dương chi bối, nhậm huynh ông dĩ quả phúc. Bất nhiên, nhật chi tịch hĩ, ngưu dương hạ lai, ngô đảng duy thanh đàm nhi dĩ.” Vị kỉ, mục thụ đô quy. Gia văn vị thậm bão mãn, đệ diệc miễn cường tòng dã văn tê vu bồng diệp thượng. Hoan tự vị dĩ, vi phong tòng đông phương khởi, dã văn tương gia văn tập bại lô tiết trung. Nga nhi vũ chí, hựu tương tương phi hướng quyển hà diệp trung, chỉ kỳ gia văn viết: “Thử tuy trách lậu, nhiên thiên vũ kinh tuần, tiểu đệ thường ổn chỉ yên.” Chí muội đán, gia văn từ hồi, vị dã văn viết: “Ta hồ! Tiểu đệ hà sở kiến chi lậu, nhi sở cư chi ti dã. Phu nhân gia cảnh tượng, dữ dã ngoại thù biệt. Đại hạ bình mông, tự tín mạn thiên chi phong vũ, ngã tắc nhật y tú trụ, dạ tập hoa vi. Hội thành thị vu minh triều, tự minh đắc ý; khoái quần phi vu mộ dạ, vu dĩ cầu chi. Gia trung thục thụy chi thời, thị ngô túy bão chi hầu dã. Huống phục bất chỉ vu thử tai!” Dã văn văn nhi mộ chi.
Thứ nhật bạc mộ, dã văn hướng nhân gia tầm gia văn sở tại. Gia văn sơ kiến dã văn, tiếu dung mãn khẩu, viết: “Ngô hiền đệ kim nhật thực chỉ quả động hồ? Thích hữu nhị nữ tự viễn thôn lai, liêu kim dạ gia chủ vô duy khả dung, ngã hiền đệ nghi dĩ du ti thằng phúc, khởi cận như nhật tịch chi ngưu dương dĩ gia?” Dã văn văn ngôn, vi hữu tự tàm. Chí canh thâm, gia văn dẫn dã văn lịch quan các sở, khoa lộng kỳ trí thân chi vinh. Nhiên hậu tầm khích xử phi nhập phòng lí, quả kiến nhị nữ giải y nhi ngọa, bá thanh như lôi. Gia văn chỉ dã văn viết: “Tề gian huyết nhiệt, bất như cổ thượng chi ôn. Thủ bạch bì thô, ninh cập nhan hồng chi nhuyễn?” Giao giao trương uế, lưỡng lưỡng dẫn ải, khoảnh khắc gian, hữu tự anh đào chi trọng. 《 vịnh văn 》 vân: “Bão tự đào anh trọng.” Vu thị gia văn cộng dã văn, hướng hoa vi tê túc yên. Gia văn dục thật kỳ ngôn dã.
Tài bán siếp thời, gia chủ hô vị nô nhân viết: “Kim dạ văn đa, nghi dĩ hỏa thiêu chi.” Gia văn cáo dã văn viết: “Dư dĩ hữu ngõa phùng khuyết xử, ngô tương tập thử, túng hỏa dật, kỳ như ngã hà?” Do thị hạnh đắc vô dạng. Thiếu gian, gia chủ hựu vị nô nhân viết: “Hỏa thiêu bất tẫn, nghi dĩ khổ luyện diệp hòa sinh ngư miết giáp huân chi.” Nhất gia chi trung, chưng chưng yên thượng, phàm không khuyết xử, giai khổ yên độc khí sở cập. Nhị văn tại ngõa phùng trung, mục như thục táo, kỉ trụy thân vi nghĩ quần chi thiện giả lũ lũ hĩ. Dã văn cấp vị gia văn viết: “Kim tương nại hà? Bất nhiên, sơ đắc mãn phúc, cự nhĩ tang thân, huynh tắc bất nhân, nhi đệ tắc bất trí dã.” Gia văn thất đảm, mê hoặc giao tịnh, đồng dã văn cầu thỉ quyển dĩ tị yên. Thời mục vi độc chướng, thị canh bất minh, ngộ nhập tri chu tiêu sao chi võng giả tái, dụng tẫn kiều kiều chi lực, phương đắc thoát xuất. Nhất điểm dư tài năng tựu xử, diệc bất cố thỉ khí chi tẩm thân. Tê túc vị định, hốt kiến quần biên tự quyển thượng phi xuất, hồi tường đình gian, phàm văn loại chi khổ yên nhi độn giả, nhất nhất vi dạ minh chi sa. Dã văn cụ thậm, khiếp tử giả du nhất bài. Cập tỉnh lai, kiến yên tiêu hỏa tức, biên bức tàng thân, cấp cấp phất vũ nhi biệt. Kinh hồn dĩ áp, nãi thiến điền mân tống gia văn nhất thư vân:
“Minh khải hiền huynh: Hồng nhan điểm huyết do tồn phúc, nhi độc khí chi yên do tại mục, nhi niệm ngô sài sản xuất Bảo Hà, tục vân: “Bảo Hà chi văn, Nghệ An chi thần.” Ngôn kỳ đa nhi thả độc dã. Thân tàng văn cẩm, nhật quang trung chi dã mã, thu hào mạt chi khinh trần. Đăng hỏa vị lai, thâm dạ chi trung si mị; tô văn: “U ám chi trung sinh si mị, đăng hỏa lai thời khẩu khẩu khẩu.” Phi minh đắc ý, âm phòng chi xử tịch liêu. Tầm nữ bạc chi vi khai, khinh thân nhập mạc; hạnh đồng nhi chi bán thụy, toa nhân dĩ sinh. Cố tham vu trú giả, phi ngũ trảo tương chi toái thi, tắc đoàn phiến tử chi viễn tống; tham vu dạ giả, phi độc yên chi huân kỳ nhãn, tắc liệt hỏa chi thiêu kỳ hình. Hạt nhược ngưu đầu tắc giác sở bất kinh, dương bối tắc vĩ hà năng cập; bại lô nhi tàng thân chi cố, quyển hà nhi tê tức chi an? Gia văn gia văn! Dư ngôn bất gian, hỏa nhật chi thán, yên thượng chi trần, vô nhật hĩ. Hạnh tảo đồ chi!”
Gia văn đắc thư đại tiệm.
Sơn Nam Thúc viết: Dã văn, nhất vi vật dã, nhi thuyết phá vinh hiển vi úy đồ, tằng tằng thấu phát, tự phi thục vu thế cố nhân tình giả, phất năng vi dã. Ý giả thánh thiên tử hữu vi nhi phát, bất duy đương lộ giả kí hữu sở trừng "Nhi nạp giao quý thế giả thẩm sở trạch. Nhất bút chi nghiêm, kỳ nghĩa giai bị.

Dịch:

Bức thư của con muỗi

Có con muỗi đồng quen thân với con muỗi nhà. Muỗi đồng nhường muỗi nhà làm anh, tự xưng là em. Một chiều kia, muỗi nhà bay ra đồng thăm em.
Muỗi đồng nói:
- Bao nhiêu đầu trâu, lưng dê ở ngoài đồng này, mời quan anh cứ xơi cho đẫy dạ, kẻo khi bóng chiều đổ xuống, trâu, dê về chuồng, thì chúng ta chỉ ngồi tán chuyện suông thôi.
Không bao lâu, mục đồng dong cả trâu dê về chuồng. Muỗi nhà vẫn chưa được no nê, nhưng cũng đành miễn cưỡng theo muỗi đồng đậu trên lá cói.
Chúng cùng nhau trò chuyện chưa được mấy lời, gió đông đã hiu hiu thổi tới. Muỗi đồng đưa muỗi nhà vào trong đốt lau đã mục. Được một lát thì trời mưa. Hai anh em đưa nhau vào ẩn trong lá sen cụp. Muỗi đồng bảo muỗi nhà:
- Đây tuy chật, nhưng trời có mưa hàng tuần, em vẫn bình chân như vại.
Tảng sáng hôm sau, muỗi nhà cáo từ ra về và bảo muỗi đồng rằng:
- Than ôi! Tầm mắt của hiền đệ sao quá hẹp, chỗ ở của hiền đệ sao quá thấp như vậy? Này cảnh tượng trong nhà khác với chốn đồng không mông quạnh này nhiều. Mái nhà rộng mênh mông, bất chấp mưa sa gió táp. Ngày ta nương cột chạm; tối ta đậu màn hoa. Vui họp chợ lúc sáng mai, vo ve đắc ý; thú lượn đàn khi chiều tối, đủng đỉnh kiếm ăn. Lúc người nhà đã ngủ mệt, là lúc ta no say. Nào chỉ có thế mà thôi đâu, còn biết bao nhiêu niềm vui khác nữa.
Muỗi đồng nghe nói, lấy làm thích lắm. Chập tối hôm sau, nó liền bay đến nhà người tìm muỗi nhà.
Thoạt thấy muỗi đồng, muỗi nhà đã nở nang mày mặt, tươi cười mà rằng:
- Hiền đệ ta có lẽ hôm nay thực chỉ động[3] chăng? Vừa rồi có hai cô ả ở thôn xa đến đây. Nghe chừng đêm nay chủ nhà không đủ màn cho họ nằm. Hiền đệ ta rồi đến phải lấy dây tơ mà buộc bụng, há chỉ giống như lũ trâu dê lúc trời sắp tối mà thôi ư?
Muỗi đồng nghe nói, hơi có ý thẹn.
Đến canh khuya, muỗi nhà đưa muỗi đồng đi khắp mọi nơi trong nhà, khoe rằng chỗ ở của mình sung sướng vẻ vang. Rồi chúng cùng nhau tìm kẽ hở lọt vào phòng ngủ. Quả nhiên thấy hai người con gái nằm trần, tiếng ngáy như sấm. Muỗi nhà trỏ bảo muỗi đồng rằng:
- Chỗ rốn máu nóng, không bằng đùi vế êm ấm. Tay trắng da dầy, kém đứt má hồng mềm mại!
Đoạn cùng nhau chẫu miệng thò ngòi, trong giây lát đã cảm thấy mình nặng như trái anh đào chín. Muỗi nhà mới đưa muỗi đồng đến đậu ở màn hoa cùng ngủ. Một lát sau nghe tiếng chủ nhà gọi người ở, bảo rằng:
- Đêm nay nhiều muỗi quá, phải lấy lửa mà đốt. Muỗi nhà nói với muỗi đồng:
- Trên mái ngói có nhiều khe hở. Chúng mình lên đấy mà ẩn, dẫu lửa cháy to mấy cũng không sợ.
Dùng kế ấy, quả nhiên hai muỗi được vô sự.
Một lát sau, lại nghe tiếng chủ nhà gọi người ở bảo rằng:
- Lửa đốt vẫn chưa hết muỗi. Phải lấy lá soan, cá tươi và mai ba ba mà hun.
Thế là khắp trong nhà khói lên nghi ngút. Phàm những khe hở đều có khói cay khí độc lùa vào. Hai muỗi ở trong khe ngói, mắt sưng húp như quả táo chín, đã mấy lần suýt làm mồi cho lũ kiến. Muỗi đồng vội bảo muỗi nhà rằng:
- Bây giờ biết tính sao đây? Nếu không thì mới được no bụng đã bị thiệt thân, anh thành ra người bất nhân mà em là kẻ bất trí đó.
Muỗi nhà khiếp thất đảm, vừa sợ vừa mê, cùng muỗi đồng tìm ra chuồng lợn để tránh khói. Khi ấy mắt bị khói hun, trông không rõ nữa, hai lần bay nhầm ngay vào mạng nhện, phải dùng hết sức lực mỏng manh của mình mới thoát ra được. Khoảng một giờ sau, chúng mới tìm được chỗ đậu, cũng chẳng còn nghĩ chi đến việc bị hơi hôi thối nhiễm vào mình. Nào ngờ đậu chưa yên thân, bỗng thấy một đàn dơi từ trên mái chuồng lợn bay ra, liệng vòng quanh sân. Phàm những chú muỗi nào sợ khói bay trốn ra ngoài, đều bị biến thành những hạt sa dạ minh[4]. Muỗi đồng sợ quá, chết khiếp đến hơn một giờ.
Khi tỉnh lại thì thấy lửa đã tắt, khói đã tan và lũ dơi đã về tổ, bèn vội vàng từ biệt, vỗ cánh bay về. Khi đã hoàn hồn, muỗi đồng viết một bức thư nhờ một con dãn đồng chuyển đến muỗi nhà. Lời thư như sau:
Thưa với hiền huynh,
Máu tươi má phấn, bụng còn no chăng?
Khí độc khói hun, mắt còn mờ chăng?
Trộm nghĩ: Lũ ta sinh ở Bảo Hà,
Tục truyền: "Muỗi đất Bảo Hà, thần ma xứ Nghệ"[5].
Thân nương gấm vóc.
Mỏng manh như tơ trời[6] trong ánh nắng.
Nhỏ nhen tựa hạt bụi đầu sợi lông.
Đèn lửa chưa soi, trong đêm tối hiện hình ma quỷ;
Bay kêu đắc ý, chốn âm phòng được lúc vắng tanh.
Màn cô ả hé ra, nhẹ mình len lỏi,
Giấc cậu em thiu ngủ, hút máu no nê.
Cho nên kẻ tham ăn ban ngày, nếu không tay đập tan thây, cũng bị mảnh quạt tống đi xa lắc;
Đứa tham ăn buổi tối, chẳng bị khói hun mù mắt, ắt lửa hồng thiêu cháy tấm thân.
Sao bằng:
Ở đầu trâu sừng quật không kinh,
Đậu lưng dê, đuôi xua chẳng tới.
Đốt lau nát nhưng thân nương vững chắc;
Lá sen cụp mà chân nghỉ bình yên.
Muỗi nhà, muỗi nhà!
Ta nói mà huynh không nghe, thì làm than trong lửa, làm bụi trên khói chưa biết ngày nào đó thôi!
Nên mau mau lo liệu...
Muỗi nhà đọc thư cảm thấy vô cùng hổ thẹn.
LỜI BÀN CỦA SƠN NAM THÚC: Muỗi đồng chỉ là con vật nhỏ, mà nói được vỡ lẽ vinh hiển là con đường đáng sợ, có tầng thứ phân minh. Nếu không phải là người am hiểu thế tình, không thể làm được bài văn như thế. Có lẽ thánh thiên tử cũng có sở nhân mới chép truyện này, không chỉ những kẻ ở nơi quyền quý phải lấy làm răn, mà những người chơi bời với người quyền quý cũng nên chọn kỹ. Thực là: một nét bút nghiêm minh mà ý nghĩa đầy đủ.
Nhận xét của tập thể admin Thế Giới Thần Thoại: "Bức thư của con muỗi" là một truyện ngụ ngôn ngắn, được xác nhận là viết bởi vua Lê Thánh Tông. Truyện chế giễu những kẻ đổi tự do để sống trong bó buộc, sợ hãi. Muỗi nhà béo tốt gặp muỗi đồng gầy gò. Muỗi nhà khoe mình được sống an nhàn, sung túc và mời muỗi đồng về "nhà" chơi. Đêm ấy cả hai được hút máu no nhưng lại bị người hun khói đến nỗi ngạt thở gần chết. Trước khi bỏ đi, muỗi đồng viết bức thư mỉa muỗi nhà ý nói bản thân tuy vất vả phải kiếm ăn xa nhưng được sống tự do còn muỗi nhà tuy có an nhàn đầy đủ nhưng sống trong lo lắng, hiểm nguy. Chỉ qua một truyện ngắn, Lê Thánh Tông đã thành công xây dựng nên 2 nhân vật rất có chiều sâu là muỗi đồng và muỗi nhà: một là kẻ trục lợi, hợm hĩnh, khoe khoang; một trong sạch, khiêm tốn và thẳng thắn. Đem hai tính cách này đối chiếu cho con người hẳn là chuẩn cho rất nhiều kẻ, không chỉ riêng dưới thời Lê Thánh Tông. Truyện đơn giản nhưng ý nghĩa thì sâu xa đặt ra bài học nhân sinh đáng suy ngẫm: tự do là quý nhất, trong môi trường tự do con người mới được là chính con người.

Chú thích:

[1]: Nguyên gốc trong bản chép tay ghi "cương" (綱) nghĩa là lưới; các ấn bản sau này chỉnh lí lại thành một từ khác là "võng" (網) nghĩa là lưới nhện cho được sát nghĩa văn cảnh hơn.
[2]: Nguyên gốc không có chữ "thời" (時), các ấn bản sau này bổ sung để giúp cho câu không bị tối nghĩa.
[3]: Thực chỉ động, nghĩa đen là ngón tay trỏ động đậy. theo Tả truyện (左傳), ngày xưa người ta tin rằng ngón tay trỏ bỗng nhiên động đậy là điềm được ăn thứ ngon.
[4]: Hạt sa dạ minh: sách thuốc thời xưa gọi mắt muỗi là dạ minh sa, người ta thường lọc ở phân con dơi ra dùng để chữa bệnh mắt mờ. Ở đây nói "biến thành những hạt sa dạ minh" ý chỉ việc muỗi bị dơi bắt ăn.
[5]: "Muỗi đất Bảo Hà, thần ma xứ Nghệ" là một câu ngạn ngữ xứ An Nam thời xưa thời xưa, trong đó Bảo Hà là một khu vực tương ứng với huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai ngày nay còn Nghệ (An) là một châu/trấn tương ứng với tỉnh Nghệ An ngày nay.
Tuy nhiên câu này còn có một phiên bản khác được ghi nhận phổ biến hơn là "Cọp Bảo Hà, ma xứ Nghệ" vốn toát lên được cái ý về một vùng đất có nhiều hiểm nguy hơn.
[6]: Tơ trời: mùa thu trời nắng, ngoài đồng thường có những sợi tơ trắng như tơ nhện bay ở trong không, người ta gọi là tơ trời, ở đây dùng nói vật rất nhỏ.
- Theo Thánh Tông di thảo -

(Hết phần 8)

#Backturn