Một trong những lời phản bác phổ biến nhất mà tôi hay nghe từ bạn bè Tin Lành khi họ phê phán Chính Thống giáo hay thậm chí Công Giáo Rô-ma là: “Các thánh nhân đã chết rồi – họ không nghe anh chị em đâu.”
Nhưng các thánh trên trời đâu có chết! Nếu nói vậy chẳng phải phủ nhận luôn việc Đức Ki-tô đã làm khi Ngài xuống ngục tổ tông (âm phủ) sao? Ngài giải thoát tất cả những bậc công chính đã khuất và đưa họ vào thiên đàng. Chính Chúa đã phán trong Phúc Âm rằng: Thiên Chúa không phải là Chúa của kẻ chết, mà là Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống” (Loukas XX, 38).
Các thánh trên trời rõ biết mọi chuyện xảy ra với chúng ta, với Giáo Hội trên trần gian, và các ngài luôn cầu nguyện cho chúng ta.
Các thánh, những người đang sống trong Đức Ki-tô trên trời, được thông phần vào những năng lượng thần thiêng không do tạo vật mà có. Như thánh Petros Tông đồ đã viết: “Quyền năng của Ngài đã ban cho chúng ta mọi điều cần thiết cho đời sống và lòng đạo đức… để nhờ đó anh em được tham dự vào bản tính Thiên Chúa” (II Petros I, 3-4). Vì vậy, các thánh biết rõ chúng ta ra sao, sống thế nào, và bao quanh ta như một “đám mây nhân chứng lớn lao” (Do Thái XII, 1-2). Cũng nhờ vậy mà thánh Ioannis Tông đồ khi được thị kiến đã nghe cả muôn loài trên trời, dưới đất và cả trong lòng đất cất tiếng ca ngợi Thiên Chúa (Khải Huyền V, 13).
Chuyện các thánh cầu nguyện cho ta đã được nói rõ trong Kinh Thánh:
“Khi Chiên Con nhận lấy cuốn sách, bốn sinh vật và hai mươi bốn vị trưởng lão phủ phục trước Con Chiên, mỗi vị đều có một cây đàn và một chén vàng đầy hương, là những lời cầu nguyện của các thánh” (Khải Huyền V, 8).
“Rồi một thiên thần khác đến, đứng bên bàn thờ, tay cầm một lư hương vàng. Người ta ban cho ngài nhiều trầm hương, để ngài dâng lên cùng với lời cầu nguyện của toàn thể các thánh, trên bàn thờ vàng trước nhan Thiên Chúa. Khói trầm bay lên, hòa cùng lời cầu nguyện của các thánh, từ tay thiên thần mà dâng lên trước mặt Thiên Chúa” (Khải Huyền VIII, 3-4).
Nhìn lại hết những điều trên, có thể nói “mảnh ghép cuối cùng” trong bức tranh này chính là thực tế: nếu các thánh thực sự sống trong Đức Ki-tô, biết về chúng ta, cầu bầu cho chúng ta, thì còn lý do gì để nghi ngờ nữa? Ta có thể xin các thánh trên trời cầu nguyện cho mình, giống như thánh Ivakos dạy ta phải cầu nguyện cho nhau. Ngài còn viết rằng: “Lời cầu nguyện sốt sắng của người công chính có sức mạnh vô cùng” (Ivakovos V, 16). Điều đó có nghĩa là, lời cầu của người này có thể đẹp lòng Chúa hơn lời cầu của người kia. Đây là sự thật:
“Chúa xa lánh phường gian ác, nhưng Ngài lắng nghe lời nguyện của người công chính” (Cn XV, 29).
Tư tưởng này lặp đi lặp lại nhiều lần trong Kinh Thánh, nhưng một minh chứng rõ ràng có thể thấy trong sách Gióp:
“Chúa phán với Ê-li-pha xứ Tê-man rằng: Cơn giận Ta đang bừng lên với ngươi và hai bạn của ngươi, vì các ngươi đã không nói đúng về Ta như tôi tớ Ta là Gióp. Vậy hãy lấy bảy con bò đực và bảy con cừu đực, đến với tôi tớ Ta là Gióp mà dâng lễ toàn thiêu cho mình. Tôi tớ Ta là Gióp sẽ cầu nguyện cho các ngươi, và Ta sẽ nhận lời nó, để không trừng phạt các ngươi vì sự ngu muội của các ngươi…” (Gióp XLII, 7-8).
Vậy tại sao chúng ta lại không cầu xin lời chuyển cầu của những người đã đạt đến sự thần hóa (theosis) trên thiên đàng, nếu lời cầu nguyện của họ có sức mạnh như vậy? Chúng tôi, những người Ki-tô hữu Chính Thống, tin rằng sẽ là điều không khôn ngoan nếu không nhờ đến sự chuyển cầu của họ.
Những người Tin Lành thường đưa ra hai phản đối khi họ diễn giải quá xa các trích dẫn từ Kinh Thánh mà tôi đã đề cập ở trên.
Phản đối thứ nhất: Thông thường, họ trích dẫn câu sau: "Vì chỉ có một Thiên Chúa, và cũng chỉ có một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, đó là Đức Jesus Ki-tô, một con người" (I Timotheos II, 5).
Nhưng điều này không phải là một phản bác hợp lý đối với tất cả những gì tôi đã nói. Thuật ngữ "Trung Gian" (Μεσίτης - Mesites) trong bối cảnh này mang ý nghĩa "cầu nối", chứ không phải "Đấng chuyển cầu" (μεσιτεία - mesiteia) theo nghĩa cầu nguyện thay cho người khác.
Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người, vì Ngài mang hai bản tính: vừa là Thiên Chúa thật, vừa là con người thật (Θεάνθρωπος - Theanthropos). Do đó, chỉ mình Ngài mới có thể hóa giải khoảng cách giữa Thiên Chúa và nhân loại. Ngài không chỉ là người cầu bầu mà còn là Cây Cầu Cứu Độ, là gạch nối thần linh duy nhất giữa hai bờ vực ngăn cách giữa Thiên Chúa thánh thiện và loài người tội lỗi.
Việc làm trung gian không đồng nghĩa với việc chuyển cầu. Câu Kinh Thánh trên từ Thư thứ nhất gửi ông Timotheos mang ý nghĩa cứu độ học. Nó nói về ơn cứu độ, chứ không đề cập đến lời cầu nguyện hay sự chuyển cầu. Đây là hai điều hoàn toàn khác nhau, nên câu Kinh Thánh này không có ý nghĩa như một số người Tin Lành khẳng định.
Các linh hồn đã khuất biết về tình trạng của những người còn sống trên thế gian và vẫn quan tâm đến họ
Thánh Anthony Cả
Thánh Anthony Cả
Điều này rất dễ chứng minh. Trong dụ ngôn về người giàu và Lazarus (Loukas XVI, 19–31), chúng ta thấy điều đó xảy ra. Cả câu chuyện rất đáng chú ý, nhưng các câu 24, 27 và 30 đặc biệt nổi bật, vì người giàu có trong âm phủ không cầu xin Chúa Jesus hay Chúa Cha, mà là tổ phụ Áp-ra-ham: "Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con". Điều này cho thấy Thiên Chúa trao quyền cho các thánh của Ngài, và chính lời kể của Chúa Jesus chứng minh rằng những người được Thiên Chúa yêu thương có thể giao tiếp với nhau.
Như chú thích trong Kinh Thánh Nghiên Cứu Chính Thống Giáo (Orthodox Study Bible) có viết: "Ngay cả một người không có niềm tin cũng có thể kêu cầu từ âm phủ và trò chuyện với Áp-ra-ham." Các linh hồn đã khuất biết về tình trạng của những người còn sống trên trần gian và quan tâm đến họ. Lời cầu bầu của kẻ gian ác có thể không hữu ích, nhưng lời cầu nguyện sốt sắng của người công chính thì đầy sức mạnh, như Thư của Thánh Ivakovos Tông đồ khẳng định.
Nếu điều đó đã xảy ra trong Cựu Ước, thì càng đúng hơn trong Tân Ước.
Ngay cả trong Cựu Ước, cũng có những trường hợp tương tự.
Ví dụ, trong Sách Tôbia (Tôbia XII, 15), Tổng lãnh thiên thần Raphael, người đồng hành cùng Tôbia, tự giới thiệu mình là thiên thần dâng những lời cầu nguyện của các thánh lên Thiên Chúa:
"Ta là Raphael, một trong bảy Thiên Thần thánh thiện, những đấng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của các thánh và đứng trước vinh quang của Đấng Chí Thánh."
Điều này không có nghĩa là cách duy nhất để kết nối với các thánh đã khuất là nhờ họ cầu nguyện lên Thiên Chúa cho chúng ta. Trong một số trường hợp đặc biệt, với sự cho phép đặc biệt của Thiên Chúa, các thánh trong Cựu Ước có thể trực tiếp hiện ra và giao tiếp với các tín hữu.
Trong Sách Ma-ca-bê quyển hai (II Ma-ca-bê XV, 12–16), thượng tế Ô-ni-a, người đã qua đời vài thập kỷ trước, và ngôn sứ Jeremiah, sống hàng thế kỷ trước đó, đã hiện ra với ông Giu-đa Ma-ca-bê:
"Trong thị kiến, ông thấy Ô-ni-a, một vị thượng tế, một con người chính trực và tốt lành, đáng kính trọng, hiền lành, có lời nói dễ thương, từ nhỏ đã rèn luyện sự thánh thiện. Ông thấy Ô-ni-a giơ tay cầu nguyện cho toàn dân Israel. Sau đó, một người khác xuất hiện, có mái tóc bạc, vẻ ngoài uy nghi đáng sợ. Ô-ni-a nói: 'Đây là người yêu thương anh em, người cầu nguyện rất nhiều cho dân và thành thánh, chính là Jeremiah, vị ngôn sứ của Thiên Chúa.' Bấy giờ, Jeremiah đưa tay phải ra và trao cho Giu-đa một thanh gươm vàng, nói rằng: 'Hãy nhận lấy thanh gươm thánh này, quà tặng từ Thiên Chúa, để con đánh bại quân thù.'"
Đây là một đoạn văn đầy kinh ngạc, chứng tỏ rằng các thánh vẫn sống trước cả khi có sự phục sinh chung của nhân loại.
Điều này cũng được xác nhận trên núi Tabor, khi Moshe và Elijah hiện ra và trò chuyện với Chúa Jesus trong sự kiện Hiển Dung - Hoá Hình (Mattathias XVII, 1–4).
Trong II Ma-ca-bê XII, 45, thói quen cầu nguyện cho nhau của các tín hữu cũng được phản ánh theo chiều ngược lại:
"Nhưng ông [Giu-đa Ma-ca-bê] tin rằng những người đã chết trong sự thánh thiện sẽ nhận được phần thưởng tốt đẹp hơn, một niềm tin thánh thiện và đạo đức! Vì vậy, ông đã dâng lễ hy sinh đền tội cho những người đã khuất, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi."
Điều này chứng minh rằng lời cầu nguyện không chỉ được dâng bởi những người còn sống, mà còn bởi những người đã bước vào cõi vĩnh hằng! Không chỉ các thánh cầu nguyện cho chúng ta, mà chúng ta cũng cầu nguyện cho những người đã qua đời. Giữa linh hồn của những người đang sống và linh hồn của những người thuộc về thế giới linh thiêng, luôn có một mối liên kết và sự hiệp thông.
Giữa linh hồn của những người đang sống và linh hồn của những người thuộc về thế giới linh thiêng luôn có sự giao tiếp và mối liên kết.
Hội Thánh Chiến Đấu (chỉ các Ki-tô hữu đang sống trên trần gian) và Hội Thánh Khải Hoàn (chỉ các Ki-tô hữu đã về trời) không phải là hai thực thể riêng biệt, mà là một Giáo Hội duy nhất, và điều này đã luôn luôn như vậy. Sự thật rằng Hội Thánh Khải Hoàn và Hội Thánh Chiến Đấu không phải là hai tổ chức hay hai Giáo Hội khác nhau, mà là một Hội Thánh duy nhất, đã được Thánh Pavlos Tông đồ khẳng định trong thư gửi tín hữu Ephesus:
"Trước mặt Chúa Cha, từ Ngài mà mọi gia tộc trên trời dưới đất đều nhận danh hiệu của mình." (Ephesus III, 15–16)
Cuối cùng, tôi muốn nói rằng: Việc cầu nguyện và duy trì sự hiệp thông với các thánh không phải là một sự xuyên tạc mang màu sắc ngoại giáo, không phải một âm mưu nào đó của Rô-ma, và càng không phải là việc thờ lạy các thánh. Đây là một truyền thống chân thật, rất cổ kính và quan trọng mà mọi Ki-tô hữu đều nên gìn giữ.
Bởi lẽ, chúng ta có một gia đình trên thiên đàng, những người luôn yêu thương và chăm sóc chúng ta, và chúng ta cũng phải quan tâm đến họ. Hãy giữ vững những truyền thống đã được truyền lại cho chúng ta!
Nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh và tất cả các thánh, lạy Chúa Jesus Ki-tô, xin thương xót chúng con là những kẻ tội lỗi!