Gần đây, mình có đọc được một bài viết chất lượng trên Spiderum với tiêu đề "Mỹ - Trung và chu kỳ bá quyền" của tác giả "nkà tkơ pắn ốp", đưa ra góc nhìn rất sâu sắc khi đặt sự trỗi dậy của Trung Quốc trong bối cảnh các chu kỳ bá quyền và sự dịch chuyển của trật tự toàn cầu. Dựa trên ý tưởng đó, bài viết này mình xin được trình bày theo quan điểm cá nhân – một góc nhìn khác về sự trỗi dậy của các cường quốc, và cuộc đối đầu Trung - Mỹ thông qua việc phân tích tầm quan trọng của giai đoạn hòa bình – ổn định phát triển chiến lược.
Bài viết được trình bày dưới góc nhìn cá nhân và không nhằm khẳng định chân lý hay phản biện lại quan điểm của ai. Mình hy vọng các bạn có thể đón nhận nó như một góc nhìn bổ sung cho cuộc thảo luận rộng hơn về địa chính trị và lịch sử. Nếu nội dung mang lại cho bạn điều gì đó hữu ích, rất cảm ơn bạn đã đọc bài viết này. Còn nếu bạn cảm thấy nó không phù hợp với góc nhìn của mình, xin hãy cân nhắc bỏ qua.
img_0
Lịch sử hiện đại từng chứng kiến nhiều quốc gia tiệm cận ngưỡng siêu cường, nhưng chỉ một số rất ít có thể thật sự bứt phá. Vào nửa sau của thế kỷ 19, Hoa Kỳ và Nga gần như đồng thời trỗi dậy. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ 20, Hoa Kỳ cuối cùng đã phát triển thành quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới, thay thế vị trí của Anh. Trong khi đó, Nga lại rơi vào tình trạng bất ổn, lặp đi lặp lại giữa chiến tranh và cách mạng.
Nhiều nhà sử học cho rằng sự trỗi dậy của một cường quốc lớn cần ít nhất 50 năm phát triển hòa bình và ổn định, trong giai đoạn này quốc gia đó có thể chuyển trọng tâm chiến lược sang xây dựng kinh tế, phát huy tối đa tiềm năng phát triển và thu hẹp khoảng cách với bá chủ thế giới. Giai đoạn hòa bình và ổn định này cũng được gọi là "thời kỳ phát triển chiến lược".

Trong lịch sử sự trỗi dậy của một cường quốc lớn cần ít nhất 50 năm phát triển hòa bình và ổn định

Trong lịch sử cận đại, Pháp, Nga, Đức và Hoa Kỳ đều từng là đối thủ cạnh tranh của Anh, nhưng chỉ có Hoa Kỳ trải qua được hơn 50 năm phát triển chiến lược hoàn chỉnh. Các quốc gia khác, khi gần hoàn thành quá trình hiện đại hóa, đều bị lôi kéo vào các cuộc chiến tranh, dẫn đến thất bại trong việc trỗi dậy.

Sau khi thống nhất Đức, Nga có được môi trường địa lý thuận lợi.

img_1
Lấy Nga làm ví dụ, thời kỳ phát triển chiến lược của Nga bắt đầu từ năm 1861, sau cải cách nông nô của Sa hoàng Alexander II. Nhờ vào cuộc cải cách này, lợi thế dân số khổng lồ của Nga được giải phóng, giúp quốc gia này bước vào giai đoạn công nghiệp hóa nhanh chóng.
Mặt khác, trong giai đoạn này, cục diện địa chính trị châu Âu cũng chuyển biến theo hướng có lợi cho Nga. Sau khi Đức thống nhất, Đức và Pháp trở thành kẻ thù không đội trời chung, Pháp không còn theo đuổi chính sách chống Nga mà chuyển sang liên minh với Nga, cung cấp các khoản vay giá rẻ để hỗ trợ Nga trong quá trình công nghiệp hóa. Cùng với sự trỗi dậy của Đức, trọng tâm kiềm chế của Anh cũng dần chuyển từ Nga sang Trung Âu, cho phép Nga thoát khỏi những ràng buộc từ thất bại trong Chiến tranh Krym (Crimea) và tái thiết Hạm đội Biển Đen. Để ngăn chặn sự liên kết giữa Pháp và Nga, Otto von Bismarck áp dụng chính sách thân Nga, chủ động hòa giải các mâu thuẫn giữa Nga và Áo về vấn đề Balkan, và ủng hộ Nga trong việc mở rộng lãnh thổ ở Viễn Đông.
Có thể nói, nước Đức thống nhất đã đóng vai trò như một tấm lá chắn cho sự trỗi dậy của Nga. Vào nửa sau thế kỷ 19, Nga trở thành tâm điểm của ngoại giao châu Âu, là đối tượng được các quốc gia tích cực lôi kéo. Vị thế quốc tế của Nga lúc bấy giờ tương đương với Trung Quốc cuối Chiến tranh Lạnh và Ấn Độ hiện tại.
Nhờ vào cải cách chế độ nông nô và môi trường quốc tế thuận lợi, nền kinh tế Nga đã bước vào giai đoạn tăng trưởng nhanh. Từ năm 1870 đến 1900, tổng sản lượng công nghiệp của Nga tăng trung bình 7,4% mỗi năm, tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, vượt cả Hoa Kỳ và Đức - hai nền kinh tế mới nổi khác. Trong cùng thời gian đó, tốc độ tăng trưởng công nghiệp của các cường quốc lâu đời như Anh và Pháp chỉ khoảng 2%, khiến họ mất đi vị trí là công xưởng của thế giới.

Nửa sau thế kỷ 19, Hoa Kỳ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng.

hệ thống đường sắt của Hoa Kỳ
hệ thống đường sắt của Hoa Kỳ
Thời kỳ phát triển chiến lược của Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1866, ngay sau cuộc Nội chiến, thời điểm này muộn hơn Nga một chút. Với lợi thế địa lý nằm giữa hai đại dương, Hoa Kỳ thực hiện chính sách “chủ nghĩa biệt lập”, không can thiệp vào các vấn đề châu Âu và tập trung vào xây dựng trong nước.
Để thúc đẩy phát triển công nghiệp nội địa, Hoa Kỳ áp dụng chính sách thương mại với thuế quan cao và tiến hành xây dựng hàng loạt tuyến đường sắt trên khắp đất nước. Năm 1850, chiều dài đường sắt của Hoa Kỳ chỉ là 9.000 dặm; đến năm 1900, con số này đã tăng vọt lên 220.000 dặm,
Trong đó, tuyến đường sắt Thái Bình Dương là quan trọng nhất, giúp thời gian di chuyển giữa hai bờ Đông và Tây nước Mỹ giảm từ sáu tháng xuống còn bảy ngày, không chỉ thúc đẩy sự thịnh vượng của các thị trấn xung quanh mà còn tăng cường sự thống nhất quốc gia, mang ý nghĩa cả về kinh tế và chính trị.
Sự phát triển nhanh chóng của cơ sở hạ tầng cũng kích thích sự phát triển của các ngành như ngân hàng, thép, than đá và điện lực, đưa Hoa Kỳ vào giai đoạn công nghiệp hóa nhanh chóng.
Từ năm 1870 đến 1900, tổng sản lượng công nghiệp của Hoa Kỳ tăng trưởng trung bình 7,1% mỗi năm, chỉ đứng sau Nga. Xét đến quy mô lớn hơn của nền kinh tế Hoa Kỳ, tốc độ tăng trưởng này rất ấn tượng. Sự bùng nổ kinh tế quy mô lớn này chỉ có thể so sánh với Trung Quốc trong giai đoạn 1980-2010. Nhờ sự thịnh vượng kinh tế, Hoa Kỳ xuất hiện một loạt các doanh nghiệp đa quốc gia có khả năng cạnh tranh toàn cầu và một tầng lớp trung lưu lớn mạnh, xã hội Hoa Kỳ dần đi vào ổn định.
img_2
Có thể thấy rằng vào cuối thế kỷ 19, Hoa Kỳ, Nga và Đức, với tư cách là các nền kinh tế mới nổi, đã dần vượt qua các cường quốc lâu đời như Anh và Pháp về sản lượng công nghiệp.
Vào giữa thế kỷ 19, Đế quốc Anh đang ở thời kỳ Victoria và được mệnh danh là “công xưởng của thế giới”. Năm 1870, sản lượng công nghiệp của Anh chiếm 32% tổng sản lượng toàn cầu, nhưng đến năm 1900, con số này giảm xuống còn 18,5%, và Hoa Kỳ đã vượt qua Anh về tỷ trọng sản xuất.
Năm 1870, sản lượng công nghiệp của Pháp vẫn cao hơn Đức và Nga, nhưng đến năm 1900, Pháp đã bị Đức và Nga bỏ xa.
Với tư cách là các siêu cường quốc, cả Hoa Kỳ và Nga đều có diện tích lãnh thổ rộng lớn, dân số đông đảo và nguồn tài nguyên phong phú, tiềm năng phát triển của họ là vô hạn.
Cuối thế kỷ 19, cùng với sự bùng nổ kinh tế, Hoa Kỳ thách thức bá quyền của Anh trên biển, trong khi Nga thách thức Anh trên đất liền. Đứng ở thời điểm năm 1900, đối với Hoa Kỳ, với tư cách là một quốc gia có quy mô lục địa, nếu tiếp tục tận hưởng thêm 20 năm hòa bình, Hoa Kỳ sẽ trở thành cường quốc số một thế giới, thay thế vị trí kinh tế và tài chính của Anh. Đối với Nga, với vị thế là một cường quốc không thiếu lương thực và năng lượng, nếu tiếp tục tận hưởng thêm 20 năm hòa bình, Nga sẽ trở thành cường quốc công nghiệp số một châu Âu, hoàn toàn làm thay đổi cục diện địa chính trị châu Âu kể từ thời kỳ cận đại.
Tuy nhiên xét theo kết quả lịch sử cuối cùng, Hoa Kỳ vào năm 1921 đã thành công trong việc thay thế vị thế kinh tế của Anh, với tổng sản lượng công nghiệp vượt qua tổng sản lượng của toàn bộ châu Âu, trung tâm tài chính thế giới chuyển từ London sang New York, và đồng tiền toàn cầu từ bảng Anh chuyển thành đô la Mỹ. Ngược lại, Nga phải đối mặt với nhiều biến cố thăng trầm. Sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917, đất nước này liên tục bị xáo trộn bởi nội chiến, Chiến tranh Xô-Phổ, nạn đói lớn và các sự kiện khác. Đến năm 1928, tỷ trọng sản lượng công nghiệp toàn cầu của Liên Xô thấp hơn đáng kể so với thời Sa hoàng. Phải đến khi Stalin thực hiện chính sách công nghiệp hóa cưỡng chế, chấp nhận hy sinh đời sống nhân dân, Liên Xô mới trở lại thành cường quốc công nghiệp.
Vậy tại sao Hoa Kỳ có thể vượt qua, còn Nga lại thất bại? Một lý do quan trọng là Hoa Kỳ đã tận dụng cơ hội ngoại giao để kéo dài thời kỳ trỗi dậy hòa bình lên 56 năm, trong khi Nga lại sớm bị cuốn vào chiến tranh, khiến thời gian trỗi dậy hòa bình chỉ kéo dài 43 năm, sau đó rơi vào giai đoạn tăng trưởng chậm.

Chiến tranh Nga-Nhật khiến Nga mở ra giai đoạn suy thoái cho quốc gia 

img_3
Năm 1902, để kìm hãm sự trỗi dậy của Nga, Anh đã ký kết Hiệp ước Liên minh Anh-Nhật với Nhật Bản, nhằm hạn chế sự mở rộng của Nga ở Viễn Đông. Năm 1904, dưới sự hỗ trợ của Anh, Nhật Bản bất ngờ tấn công hạm đội Thái Bình Dương của Nga tại cảng Lüshun (Lữ Thuận), dẫn đến Chiến tranh Nga-Nhật.
Do Pháp và Nga là đồng minh quân sự, để ngăn Pháp hỗ trợ Nga, Anh đã chủ động điều chỉnh mối quan hệ với Pháp, hòa giải các mâu thuẫn thuộc địa. Anh thừa nhận Maroc là vùng ảnh hưởng của Pháp, trong khi Pháp công nhận Ai Cập là vùng ảnh hưởng của Anh. Điều này khiến Pháp giữ thái độ trung lập trong Chiến tranh Nga-Nhật. Kết quả là Nga bị Nhật Bản đánh bại, buộc phải thừa nhận Triều Tiên là vùng ảnh hưởng của Nhật Bản và nhượng lại một số quyền lợi ở Đông Bắc Trung Quốc (như cảng Lữ Thuận, đường sắt Nam Mãn Châu) cho Nhật Bản [.].
Thất bại trong chiến tranh đã gây ra cú sốc lớn cho Nga. Sa hoàng hy vọng rằng cuộc chiến tranh có thể chuyển hướng sự bất mãn trong nước, nhưng thất bại quân sự đã làm giảm uy tín của Sa hoàng. Giai cấp công nhân mất lòng tin vào chính quyền, và Cách mạng năm 1905 bùng nổ ở Nga. Cuộc cách mạng này kéo dài ba năm, xã hội Nga rơi vào hỗn loạn, vốn đầu tư nước ngoài rút đi hàng loạt, và đà tăng trưởng kinh tế bị chặn lại, chấm dứt kỳ tích kinh tế kéo dài hơn bốn thập kỷ. Sergei Witte, người đứng đầu chính phủ, bị buộc phải từ chức vì thất bại này. Sau khi cuộc cách mạng năm 1905 kết thúc, Nga bắt đầu cuộc cải cách Stolypin với mục tiêu thúc đẩy công nghiệp hóa thông qua tư nhân hóa đất đai, phá hủy hệ thống công xã nông thôn truyền thống và đẩy nông dân vào các nhà máy. Tuy nhiên, cải cách Stolypin không thể đưa Nga trở lại thời kỳ phát triển chiến lược, vì Nga phải đối mặt với đối thủ mạnh nhất của thế kỷ 20 - Đế chế Đức.
Đầu thế kỷ 20, sản lượng công nghiệp của Đức dần vượt qua Anh, trở thành quốc gia công nghiệp hàng đầu châu Âu. Khác với quan điểm truyền thống, sau khi trỗi dậy, Đức lo sợ nhất không phải là Pháp hay Anh, mà là Nga, quốc gia ở phía đông. Khi đó, Nga có dân số 170 triệu người, chiếm 10% dân số thế giới, với tỷ lệ sinh cao, tạo ra sự tương phản rõ rệt với sự suy thoái của Pháp. Nga còn sở hữu lãnh thổ rộng lớn, trong thời cận đại, phần lãnh thổ châu Á của Nga gần như vô dụng. Tuy nhiên, sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, với sự phát triển của các ngành công nghiệp dầu mỏ, hóa chất, điện lực và thép, các nguồn tài nguyên trong đất liền của Nga ngày càng trở nên quan trọng. Mặc dù trong dư luận, người Đức thường hạ thấp Nga, nhưng trong lòng họ rất sợ hãi trước cường quốc này. Người Đức lo ngại rằng nếu Nga có đủ thời gian để phát triển, người Đức sẽ không thể chống lại mối đe dọa từ người Slav [.].
Để ngăn chặn sự trỗi dậy của Nga, với sự hỗ trợ của Đức, Đế chế Áo-Hungary nhiều lần gây ra các cuộc xung đột quân sự với Nga, tạo ra "Cuộc khủng hoảng Bosnia" ở khu vực Balkan, liên tục gây áp lực quân sự lên Nga. Mục tiêu của người Đức rất rõ ràng: kéo Nga vào một cuộc chạy đua vũ trang vô tận, phá hoại quá trình phát triển của Nga. Nếu cuộc chạy đua vũ trang không thể ngăn Nga trỗi dậy, Đức có kế hoạch phát động một cuộc chiến tranh phòng ngừa để tiêu diệt vận mệnh quốc gia của Nga. Khi tình hình địa chính trị châu Âu trở nên căng thẳng, vào năm 1907, Anh, Pháp và Nga đã ký kết "Hiệp ước Tam quốc", hình thành hai khối quân sự lớn ở châu Âu: Liên minh Trung ương và Khối Hiệp ước. Các quốc gia đều tăng mạnh ngân sách quân sự. Trước áp lực địa chính trị, Nga cũng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc mở rộng quân đội và chuẩn bị chiến tranh. Chi tiêu quân sự khổng lồ chiếm hơn một nửa ngân sách nhà nước, khiến Nga buộc phải cắt giảm chi tiêu dân sự và không còn khả năng tập trung vào phát triển kinh tế.
Năm 1911, Stolypin bị ám sát, cải cách ở Nga thất bại, hàng loạt công nhân mất việc làm, và mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Năm 1914, "Sự kiện Sarajevo" đã đẩy quân cờ domino của trật tự địa chính trị châu Âu đổ sập, và nhân loại bước vào Thế chiến thứ nhất. Để giành chiến thắng trong cuộc chiến, Sa hoàng đã đẩy hàng triệu người lính ra tiền tuyến và huy động mọi nguồn lực cho quân đội. Điều này khiến nguồn cung cấp vật tư ở Nga trở nên khó khăn, giá lương thực tăng vọt. Năm 1917, cuộc cách mạng Nga bùng nổ, đất nước chìm vào nội chiến kéo dài, và những thành tựu kinh tế tích lũy trong nhiều thập kỷ đã tan biến.
Từ năm 1918 đến 1922, Liên Xô liên tục đối mặt với nội chiến. Nhiều nhân tài ưu tú hoặc di cư ra nước ngoài hoặc thiệt mạng trong chiến tranh. Sau khi Lenin qua đời vào năm 1924, Liên Xô lại rơi vào cuộc tranh giành quyền lực, với các lãnh đạo như Trotsky và Bukharin lần lượt bị phế truất. Đường lối phát triển quốc gia liên tục thay đổi và đời sống nhân dân ngày càng suy giảm. Mãi đến năm 1927, khi Stalin hoàn toàn nắm quyền, Liên Xô mới trở lại con đường xây dựng kinh tế. Tuy nhiên, lúc này đã hơn 20 năm trôi qua kể từ Chiến tranh Nga-Nhật.
Nhìn lại, vận mệnh quốc gia của Nga đã bước vào thời kỳ suy thoái từ năm 1904. Do sớm bị cuốn vào cuộc chiến tranh quy mô lớn, kỳ tích kinh tế kéo dài hơn bốn thập kỷ của Nga đã kết thúc, và quốc gia này rơi vào bẫy tăng trưởng chậm. Không chỉ vậy, cuộc Cách mạng Nga sau này cùng với cuộc chạy đua vũ trang ở châu Âu đã khiến Nga không bao giờ có thể phục hồi lại trạng thái tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, và đặt nền móng cho Cách mạng Tháng Mười.
Nếu Nga có thể duy trì chiến lược vững vàng và tránh được Chiến tranh Nga-Nhật, thì các cải cách sau đó có thể diễn ra suôn sẻ hơn. Theo kịch bản cơ bản, Nga dự kiến sẽ trở thành một cường quốc công nghiệp với dân số 600 triệu người vào nửa sau thế kỷ 20, có quy mô kinh tế không kém Hoa Kỳ, đồng thời có thể khắc phục những hạn chế về nông nghiệp và công nghiệp nhẹ trong thời kỳ Liên Xô, và trở thành một quốc gia hiện đại hóa. Tuy nhiên, tất cả những điều này đã tan biến khi chiến tranh xảy ra.
Thực tế, vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Anh đã coi Nga, Hoa Kỳ và Đức là đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, Nga và Đức đã bị kiềm chế, trong khi Hoa Kỳ tránh được nguy cơ này, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và cuối cùng trở thành bá chủ thế giới. Đứng từ thời điểm cuối thế kỷ 19, cả Hoa Kỳ và Nga đều muốn mở rộng về phía Viễn Đông, vì đây là khu vực đông dân nhất thế giới, có không gian thị trường rộng lớn. Hơn nữa, lúc này triều đình nhà Thanh yếu kém, không thể chống lại sự xâm lược của phương Tây. Khu vực mà Hoa Kỳ nhắm đến là Tây Thái Bình Dương, đặc biệt là Philippines do Tây Ban Nha chiếm đóng. Còn khu vực mà Nga nhắm đến là Đông Bắc Trung Quốc và Triều Tiên, với tham vọng mở ra con đường tới Thái Bình Dương. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng là kế hoạch của Hoa Kỳ đã thành công, còn kế hoạch của Nga thì thất bại.

Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha đã biến Thái Bình Dương thành sân nhà của Mỹ.

img_4
Năm 1898, Mỹ lấy cớ từ sự kiện tàu chiến Maine để kích động cuộc Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha, tấn công vào cường quốc thực dân lâu đời là Tây Ban Nha vốn đã suy yếu. Trước sức tấn công của quân đội Mỹ, các lực lượng Tây Ban Nha đóng tại Cuba và Philippines liên tục bị đánh bại. Cuối cùng, Mỹ và Tây Ban Nha ký hiệp ước hòa bình, theo đó Tây Ban Nha nhượng lại các vùng lãnh thổ Cuba, Philippines, Guam và Puerto Rico cho Mỹ. Không chỉ vậy, Mỹ còn nhân cơ hội này chiếm đóng quần đảo Hawaii. Như vậy, phạm vi ảnh hưởng của Mỹ mở rộng tới khu vực Tây Thái Bình Dương, giành được bàn đạp để tiến vào Viễn Đông.
Không chỉ dừng lại ở đó, năm 1899, Mỹ gửi công hàm ngoại giao tới các cường quốc, yêu cầu thực hiện chính sách “Mở cửa” tại Trung Quốc. Trên danh nghĩa, chính sách này nhằm bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Trung Quốc, nhưng thực chất là yêu cầu chia sẻ lợi ích với các cường quốc khác, biến Trung Quốc thành nơi tiêu thụ hàng hóa của Mỹ. Trước yêu cầu này, Anh - quốc gia có nhiều lợi ích thương mại ở lưu vực sông Dương Tử - đã chọn cách chấp nhận và ngầm đồng ý cho Mỹ mở rộng ảnh hưởng ở Đông Á. Ngược lại, năm 1904, khi Nga cố gắng xâm lấn Đông Bắc Trung Quốc, Anh đã can thiệp và Nga buộc phải tham gia cuộc chiến quyết định vận mệnh với Nhật Bản. Trong khi đó, năm 1898, Mỹ cướp lấy Philippines và Guam từ Tây Ban Nha và thúc đẩy chính sách "Mở cửa" tại Trung Quốc mà không gặp sự cản trở từ Anh. Tại sao lại như vậy?
Lý do chính là Mỹ đã tận dụng được cơ hội chiến lược vào cuối thế kỷ 19.
Anh không phải là không muốn can thiệp vào cuộc chiến Mỹ-Tây Ban Nha, mà là không có khả năng can thiệp. Năm 1898, Anh và Pháp xảy ra cuộc khủng hoảng Fashoda khi hai nước đối đầu về quyền kiểm soát thượng nguồn sông Nile. Căng thẳng giữa Anh và Pháp suýt dẫn đến chiến tranh khi cả hai bên đều sẵn sàng sử dụng vũ lực. Đối với Anh, nếu quân Pháp chiếm được thượng nguồn sông Nile, họ có thể tấn công xuống Ai Cập và kiểm soát kênh đào Suez, điều này vượt quá giới hạn chịu đựng của Anh. Vì vậy, Anh đã tiến hành huy động quân sự và lập kế hoạch tiêu diệt hạm đội hải quân Pháp. Cuộc khủng hoảng Fashoda kéo dài gần nửa năm, và hai cường quốc quân sự lớn nhất châu Âu là Anh và Pháp đã ở trong tình trạng căng thẳng cao độ. Trong khi Anh và Pháp đối đầu, Mỹ đã tận dụng cơ hội để đánh bại Tây Ban Nha và buộc Tây Ban Nha phải ký kết một hiệp ước nhục nhã.

Chiến tranh Boer khiến nước Anh từ thịnh vượng trở nên suy yếu.

img_5
Sau khi giải quyết xong tranh chấp với Pháp, Anh đã có ý định xử lý Mỹ.
Vào thời điểm đó, sức mạnh hải quân của Mỹ còn yếu, hoàn toàn không thể so sánh với Hải quân Hoàng gia Anh. Tuy nhiên, đúng lúc này, cuộc Chiến tranh Boer bùng nổ ở Nam Phi, khiến Anh một lần nữa bị kéo vào vũng lầy chiến tranh, và điều này đã cứu vãn vận mệnh của Mỹ. Người Boer là hậu duệ của những người di cư Hà Lan, mặc dù dân số ít nhưng họ giữ lại thói quen săn bắn, giỏi cưỡi ngựa và bắn súng, có thể nói là đầy sức mạnh chiến đấu. Người Anh cũng không muốn đối đầu với lực lượng khó nhằn này, nhưng vì Nam Phi có mỏ vàng (một yếu tố quan trọng trong thời đại bản vị vàng) nên Anh buộc phải tham chiến. Ai kiểm soát mỏ vàng thì sẽ nắm quyền đúc tiền, và đây là một trong những trụ cột quan trọng giúp Đế quốc Anh thống trị thế giới.
Anh đã huy động tổng cộng hơn 400.000 quân và tiêu tốn 200 triệu bảng (tương đương 1,5 lần thu nhập tài chính hàng năm của họ) để cố gắng đánh bại người Boer một cách dứt điểm. Tuy nhiên, vì người Boer là người da trắng nên dư luận ở châu Âu đã đứng về phía họ. Đức thậm chí còn cung cấp cho họ súng trường Mauser và pháo Krupp hiện đại, khiến người Boer ngày càng chiến đấu mạnh mẽ hơn. Ngay cả Winston Churchill, người sau này trở thành Thủ tướng nổi tiếng của Anh, cũng từng bị người Boer bắt giữ trong cuộc chiến này. Tức giận và thất vọng, người Anh không còn quan tâm đến luật pháp quốc tế, áp dụng chính sách "ba sạch" (đốt sạch, phá sạch, giết sạch) với người Boer, đưa toàn bộ thường dân bị bắt vào trại tập trung.
Cuộc Chiến tranh Boer kéo dài ba năm, và mặc dù Anh cuối cùng đã giành chiến thắng, nhưng họ đã bị tổn thương nặng nề về cả sức mạnh và hình ảnh quốc tế. Chính phủ Anh bắt đầu xem xét lại các chính sách thuộc địa của mình, từ bỏ việc mở rộng lãnh thổ và chuyển sang tập trung xây dựng nội bộ. Trong thời gian Anh bận rộn với cuộc chiến tranh Boer, Mỹ đã tận dụng cơ hội để thực hiện chính sách “Mở cửa” ở Trung Quốc, chiếm lĩnh nhiều lợi ích thương mại của Anh tại Viễn Đông. Anh, không đủ khả năng tham gia chiến đấu trên hai mặt trận, đành phải làm ngơ trước sự xâm phạm lợi ích của Mỹ.
Sau chiến tranh, để kiềm chế sự trỗi dậy của Nga, Anh thậm chí còn chủ động lôi kéo Mỹ, cho phép Mỹ xây dựng một hạm đội với trọng tải lớn hơn. Cũng giống như việc những nhà lập quốc của Mỹ đã dựa vào sự hỗ trợ của Pháp để giành chiến thắng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập, Abraham Lincoln đã tận dụng cuộc chiến tranh thống nhất Đức và Ý để củng cố miền Nam. Vào cuối thế kỷ 19, Mỹ đã tận dụng cơ hội từ cuộc Chiến tranh Boer và các sự kiện quốc tế khác để hoàn tất quá trình mở rộng ở Viễn Đông, trở thành một cường quốc Thái Bình Dương thực sự.

Nga cố gắng xâm nhập Đông Bắc Trung Quốc qua tuyến đường sắt Trung Đông.

Việc Hoa Kỳ thành công mở rộng tại Viễn Đông đã khiến Nga vô cùng ghen tị, và Nga lầm tưởng rằng Anh chỉ là một cường quốc mạnh bên ngoài nhưng yếu bên trong, không muốn can thiệp vào các vấn đề của Viễn Đông. Năm 1900, Nga đã lợi dụng cơ hội khi quân đội Liên quân tám nước tiến vào Trung Quốc để chiếm đóng vùng Đông Bắc Trung Quốc với 200.000 quân.
Về cách xử lý vấn đề Đông Bắc Trung Quốc, nội bộ Nga chia thành hai phe:
- Phe ôn hòa, do Bộ trưởng Tài chính Sergei Witte đại diện, đề xuất chiến lược "tằm ăn dâu", tức là thông qua việc xây dựng đường sắt và di dân từ từ đến Đông Bắc Trung Quốc, dần dần chiếm lĩnh khu vực này mà không kích động các cường quốc khác.
- Phe cứng rắn, do quân đội Nga đại diện, lại chủ trương thôn tính trực tiếp Đông Bắc Trung Quốc, biến khu vực này thành một tỉnh của Nga. Phe này cho rằng Viễn Đông không phải là lợi ích cốt lõi của Anh, và việc mở rộng của Nga ở Đông Bắc sẽ không gây ra sự can thiệp từ Anh. Không chỉ vậy, họ còn muốn đẩy biên giới Nga đến tận khu vực Vạn Lý Trường Thành.
Cuối cùng, Sa hoàng Nga đã chọn kế hoạch của phe cứng rắn, quyết định thôn tính Đông Bắc bằng vũ lực, vì tin rằng Anh sẽ không can thiệp. Tuy nhiên, Sa hoàng đã tính toán sai lầm. Đến lúc này, Anh đã thoát khỏi vũng lầy của cuộc Chiến tranh Boer và quyết định can thiệp quân sự vào việc mở rộng của Nga. Anh đã lôi kéo Hoa Kỳ, quốc gia cũng lo sợ sự bành trướng của Nga, và đồng thời hỗ trợ mạnh mẽ cho Nhật Bản, dẫn đến việc sắp đặt Chiến tranh Nga-Nhật.
Cuộc chiến này đã làm Nga mất hết phong trào quốc gia, và trong hai thập kỷ sau đó, Nga không có cơ hội phục hồi.
Bức tranh châm biếm "The Senate Under the Control of Capitalists "
Bức tranh châm biếm "The Senate Under the Control of Capitalists "
Cuộc chạy đua vũ trang ở châu Âu vào đầu thế kỷ 20 là một thảm họa địa chính trị đối với Nga, nhưng lại mở ra cơ hội cho sự trỗi dậy của Hoa Kỳ. Do mối đe dọa từ các cường quốc châu Âu giảm bớt, Hoa Kỳ có thể chuyển trọng tâm chiến lược vào phát triển trong nước. Vào cuối thời kỳ "Thời đại mạ vàng", mặc dù Hoa Kỳ đã trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, nhưng vấn đề phân hóa giàu nghèo trong nước ngày càng gay gắt. Liên minh các tập đoàn độc quyền, do các tập đoàn tài phiệt hình thành, gần như kiểm soát hoàn toàn chính trường Mỹ, với nhiều nghị sĩ bị mua chuộc bằng tiền bạc. Những tổng thống không tuân theo ý muốn của các tài phiệt có thể đối mặt với nguy cơ bị ám sát. Các tập đoàn độc quyền này lấy lý do "quá lớn để sụp đổ" để ràng buộc chính phủ và xã hội Mỹ, trở thành những "ký sinh trùng kinh tế" đè nặng lên người dân.
Khi Theodore Roosevelt, một người theo chủ nghĩa tiến bộ, lên nắm quyền, ông quyết tâm cải cách vấn đề các tập đoàn độc quyền đang hoành hành tại Mỹ. Ông đã sử dụng truyền thông để phơi bày các góc khuất của giới tài phiệt, từ đó nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của người dân, giúp ông có đủ sức mạnh chính trị để thúc đẩy chính sách “chống độc quyền”. Hàng loạt các doanh nghiệp độc quyền bị chia tách, và thậm chí tập đoàn Standard Oil của John D. Rockefeller cũng bị chia nhỏ. Môi trường kinh doanh tại Mỹ được cải thiện, và các doanh nghiệp vừa và nhỏ mọc lên nhanh chóng như nấm sau mưa. Để đối phó với nạn tham nhũng của quan chức, báo chí Mỹ đã khởi xướng phong trào “lật tẩy”, vạch trần nhiều góc khuất trong chính trường và thương trường, từ đó khôi phục niềm tin của người dân vào chính phủ.
Mặt khác, để theo đuổi lợi nhuận cao, các nhà tư bản Mỹ ép buộc công nhân làm việc quá sức, với thời gian làm việc hàng ngày lên đến 10 giờ. Điều này đã khiến người dân Mỹ không thể chịu đựng thêm, họ liên kết nhau khởi xướng các cuộc đình công lớn. Để giảm bớt căng thẳng xã hội, Roosevelt, vốn là thành viên của Đảng Cộng hòa, đã đứng về phía công nhân, yêu cầu các doanh nghiệp rút ngắn giờ làm việc và thực thi chế độ làm việc tám giờ một ngày, đồng thời tăng lương cho công nhân. Những động thái này đã giúp Roosevelt nhận được nhiều sự ủng hộ từ tầng lớp lao động.
img_6
Chính sách chống độc quyền của Theodore Roosevelt có vai trò quan trọng đối với sự trỗi dậy của Mỹ. Nếu vào thời điểm đó, xu hướng độc quyền không được kiềm chế, nền kinh tế Mỹ có thể sẽ dần trở nên "Latinh hóa", tức là sự giàu có bị nắm giữ bởi một số ít người, dẫn đến sự trì trệ kinh tế và sự bùng phát của chủ nghĩa dân túy. Chính trị sẽ dao động liên tục giữa cực tả và cực hữu. Do đó, Roosevelt cùng với những nhân vật như George Washington, Thomas Jefferson và Abraham Lincoln từng được coi là những người vĩ đại nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ, số phận của Mỹ và Nga – hai cường quốc tiềm năng – đã có sự đảo ngược. Việc eo biển Bosphorus bị phong tỏa khiến hoạt động thương mại của Nga bị cắt đứt, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng vật tư dân dụng, và cuối cùng đã dẫn đến cuộc cách mạng toàn quốc. Ngược lại, Mỹ lại giàu lên nhờ chiến tranh, từ quốc gia mắc nợ lớn nhất thế giới trở thành quốc gia chủ nợ lớn nhất. Mỹ đã tận dụng cơ hội này để nhập khẩu công nghệ tiên tiến từ châu Âu với chi phí rất thấp và thu hút nhiều người nhập cư có trình độ cao tránh chiến tranh. Sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, Mỹ đã vươn lên trở thành đối thủ ngang tầm với Anh. Khi đó, Anh đã không còn đủ khả năng để kiềm chế sự trỗi dậy của Mỹ.
Năm 1921, Anh, Mỹ, Nhật Bản và các quốc gia khác tổ chức "Hội nghị Washington" để thảo luận về việc phân chia lợi ích giữa các cường quốc. Mỹ đã thành công trong việc làm tan rã Liên minh Anh-Nhật, đẩy Nhật Bản vào tình trạng cô lập tại Viễn Đông. Hơn nữa, Hiệp ước Hải quân Năm nước (gồm Anh, Mỹ, Nhật, Pháp và Ý) được ký kết, quy định trọng tải tàu chiến của các nước theo tỷ lệ 5:5:3:1,75:1,75. Hiệp ước này không chỉ mang lại cho Mỹ ưu thế hải quân so với Nhật Bản, mà còn đánh dấu việc Anh chính thức công nhận vị thế ngang bằng của Mỹ. Điều này hình thành nên cục diện thế giới song trụ G2 với sự đồng trị của Anh và Mỹ. Mỹ đã thành công trong việc vượt qua Anh bằng một cách tương đối hòa bình, tạo nền tảng cho sự thay đổi quyền bá chủ giữa hai quốc gia.
Trong lịch sử cận đại, Mỹ là trường hợp duy nhất tránh được cái bẫy Thucydides [.] và vươn lên trở thành bá chủ thế giới. Vào thập niên 1860, Mỹ và Nga gần như đồng thời trỗi dậy. Tuy nhiên, nhờ kỹ năng ngoại giao xuất sắc và những đánh giá chiến lược chính xác, Mỹ đã kéo dài thời kỳ phát triển chiến lược của mình lên tới 56 năm, cho đến khi Anh từ bỏ ý định kiềm chế Mỹ và chuyển sang chia sẻ quyền lực với Mỹ.
Nga thì ngược lại, bị cuốn vào các cuộc xung đột quy mô lớn quá sớm, chỉ duy trì thời kỳ phát triển hòa bình trong 43 năm, và thất bại ngay khi sắp hoàn thành hiện đại hóa. Nếu Nga có thêm 10 năm phát triển hòa bình, có lẽ Nga đã trở thành nền kinh tế lớn nhất châu Âu, khi đó Anh và Đức đều không thể ngăn chặn sự trỗi dậy của Nga.
Hãy tưởng tượng một kịch bản:
Nếu như Mỹ bị Anh can thiệp trong cuộc chiến với Tây Ban Nha và cuối cùng thất bại, dẫn đến khủng hoảng chính trị và sự xói mòn của chế độ dân chủ, nước Mỹ có thể sớm rơi vào tranh chấp đảng phái và suy thoái kinh tế.
Còn Nga, nếu tránh được cuộc Chiến tranh Nga-Nhật và tập trung vào xây dựng trong nước, cải cách của Stolypin có thể đã thành công rực rỡ, và Nga có thể chuyển đổi thành một quốc gia hiện đại hóa với chế độ quân chủ lập hiến.
Nếu điều này xảy ra, cục diện địa chính trị toàn cầu ngày nay sẽ hoàn toàn khác, với Mỹ có thể trở thành một quốc gia hỗn loạn như Brazil, bị kiểm soát bởi các tập đoàn và những tay buôn ma túy, thường xuyên nổ ra nội chiến và đảo chính. Nga, với dân số 600 triệu, có thể là nền kinh tế lớn nhất thế giới, kiểm soát một phần lớn Đông Âu, và phát triển mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực từ nông nghiệp, thương mại, văn hóa đến khoa học kỹ thuật. Trong tình huống đó, trụ sở Liên Hợp Quốc có lẽ sẽ được đặt tại Moscow thay vì New York.
Đối với một quốc gia lớn, thời gian hòa bình để phát triển là rất quan trọng. 50 năm là cột mốc quan trọng trong vận mệnh quốc gia, những quốc gia không đạt được ngưỡng này thường thất bại trong việc trỗi dậy, trong khi những quốc gia vượt qua ngưỡng này có thể thành công.

Quá trình vươn lên của Trung Quốc và cách Mỹ kìm hãm Trung Quốc để duy trì vị thế

Với Trung Quốc hiện tại, nếu lấy năm 1980 làm mốc bắt đầu cho sự trỗi dậy hòa bình, đến nay thời kỳ phát triển chiến lược của Trung Quốc đã kéo dài 45 năm. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm lịch sử, một cường quốc cần ít nhất 50 năm hòa bình để phát huy toàn bộ tiềm năng kinh tế và thực sự trỗi dậy. Điều này có nghĩa là nhiệm vụ quan trọng nhất của Trung Quốc hiện tại là kéo dài thời gian phát triển hòa bình, đạt đủ thời gian chiến lược để hoàn tất quá trình hiện đại hóa để đủ sức cạnh tranh với Hoa Kỳ.

Sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc chủ yếu phụ thuộc vào môi trường địa chính trị bên ngoài

Thực tế là, từ khi cải cách mở cửa, việc Trung Quốc có thể duy trì sự trỗi dậy hòa bình chủ yếu phụ thuộc vào môi trường địa chính trị bên ngoài, đặc biệt là quan hệ Trung-Mỹ. Miễn là quan hệ Trung-Mỹ ổn định, cân bằng các rủi ro bên ngoài sẽ trong tầm kiểm soát, thì Trung Quốc có thể tập trung phát triển kinh tế. Ngược lại, nếu quan hệ Trung-Mỹ xấu đi, tình hình bên ngoài sẽ trở nên bất ổn, buộc Trung Quốc phải chuyển một phần nguồn lực sang lĩnh vực an ninh để đối phó với các rủi ro.
Trong những năm 1980, yếu tố "neo giữ" trong quan hệ Trung-Mỹ là mối đe dọa từ Liên Xô. Để đối phó với người khổng lồ đỏ này, Hoa Kỳ thậm chí coi Trung Quốc như một "đồng minh quân sự tạm thời".
Những năm 1990, yếu tố cân bằng là thương mại. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Trung Quốc nhanh chóng thực hiện cải cách thị trường. Dưới sự vận động hành lang của các nhà tư bản Mỹ, chính sách của Clinton đối với Trung Quốc đã chuyển từ đối đầu sang hợp tác.
Những năm 2000, yếu tố cân bằng là cuộc chiến chống khủng bố. Sau khi George W. Bush lên nắm quyền, ông từng có ý định sử dụng biện pháp quân sự để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhưng sự kiện 11/9 đã thay đổi tiến trình này. Để thu hút sự ủng hộ của cử tri đối với cuộc chiến chống khủng bố, chính quyền Bush đã chuyển trọng tâm chiến lược từ Đông Á sang Trung Đông, mang lại cho Trung Quốc cơ hội chiến lược quý giá.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, quan hệ Trung-Mỹ được "neo giữ" bởi việc hợp tác cứu thị trường. Dưới thời Obama, cả hai nước đã phối hợp hành động về tài chính và tiền tệ, sử dụng đòn bẩy để đưa nền kinh tế toàn cầu thoát khỏi bẫy giảm phát. Vì Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất của Mỹ, Obama đã nhiều lần từ chối cáo buộc Trung Quốc là "kẻ thao túng tiền tệ".
Mãi đến khi cuộc chiến thương mại nổ ra vào năm 2018, quan hệ Trung-Mỹ mới chính thức tan vỡ. Dù vậy, ít nhất trong thời kỳ đầu của Trump, do chính sách biệt lập của Hoa Kỳ, áp lực địa chính trị đối với Trung Quốc không lớn. Ngược lại, Trung Quốc đã tận dụng cơ hội quan hệ xa cách giữa Hoa Kỳ và các đồng minh, đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do Trung Âu và thúc đẩy RCEP với Nhật Bản, xu hướng "Đông thăng Tây trầm" diễn ra, và thời gian trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc một lần nữa được kéo dài.
Nhìn chung, từ năm 1980 đến 2019 có thể coi là "thời kỳ hoàng kim" của sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Kể từ năm 1980, thời gian Trung Quốc được hưởng lợi từ sự trỗi dậy hòa bình đã kéo dài hơn 40 năm. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm lịch sử, một cường quốc cần ít nhất 50 năm hòa bình để phát huy toàn bộ tiềm năng kinh tế và thực sự trỗi dậy. Điều này có nghĩa là Trung Quốc cần ít nhất 5-10 năm phát triển chiến lược nữa để có đủ khả năng cạnh tranh với Mỹ.
Nếu Trung Quốc có thể tránh được các rủi ro địa chính trị trong 5-10 năm tới và tập trung vào việc xây dựng trong nước, giải quyết các vấn đề về bất động sản và nợ địa phương, đồng thời thúc đẩy các ngành công nghệ cao như năng lượng mới, chất bán dẫn và hàng không vũ trụ làm động lực cho tăng trưởng kinh tế, Trung Quốc có thể tiến tới giai đoạn phát triển ổn định. Đến năm 2030, Trung Quốc có thể trở thành quốc gia phát triển và có ảnh hưởng kinh tế ngang tầm với Mỹ. Khi đó, Mỹ sẽ không còn đủ khả năng thực hiện chính sách tách rời với Trung Quốc, vì phần lớn các quốc gia phương Tây sẽ không chịu nổi cái giá phải trả khi cắt đứt quan hệ với Trung Quốc.

Cách Mỹ kìm hãm Trung Quốc dưới thời Biden

Tuy nhiên, sau khi tổng thống Biden lên nắm quyền, tình hình thế giới đã xấu đi nhanh chóng. Cuộc chiến Nga-Ukraine năm 2022 được coi là sự kiện quốc tế quan trọng nhất sau Chiến tranh Lạnh, trật tự cũ quốc tế đang trên bờ vực sụp đổ.
Vào năm 2017, khi Tổng thống Donald Trump nhậm chức nhiệm kì đầu, mặc dù Mỹ và Trung Quốc bùng nổ chiến tranh thương mại, nhưng tình hình eo biển Đài Loan vẫn tương đối ổn định. Trump, với tư duy của thương nhân, coi Hồng Kông và Đài Loan là những quân cờ có thể giao dịch; chỉ cần Trung Quốc nhượng bộ trong vấn đề thương mại, ông sẵn sàng kiềm chế trong các vấn đề liên quan đến Hồng Kông và Đài Loan.
Tuy nhiên, rủi ro tại eo biển Đài Loan thực sự được thổi phồng sau khi Tổng thống Joe Biden nhậm chức. Trong chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương của Biden, Đài Loan là một mắt xích then chốt. Chỉ khi tình hình eo biển Đài Loan xấu đi, mới có thể khiến vốn đầu tư nước ngoài rút khỏi Trung Quốc.
Trên thực tế, trước chiến tranh Nga - Ukraine, 90% các công ty đa quốc gia tin rằng trong thời gian dài sẽ không xảy ra chiến tranh tại eo biển Đài Loan, và Mỹ - Trung cũng sẽ không đối đầu quân sự, do đó khi đầu tư vào Trung Quốc, họ hiếm khi cân nhắc rủi ro địa chính trị. Sau chiến tranh Nga - Ukraine, tỷ lệ này giảm xuống còn 40%. Không chỉ vậy, khi chiến tranh Nga - Ukraine kéo dài, châu Âu cũng bắt đầu thực hiện chính sách "giảm rủi ro" đối với Trung Quốc, lấy danh nghĩa an toàn chuỗi cung ứng để chuyển một phần ngành công nghiệp ra khỏi Trung Quốc. Trong các biện pháp trừng phạt thương mại đối với Trung Quốc, Mỹ chủ yếu nhắm vào ngành bán dẫn, còn Liên minh châu Âu tập trung vào năng lượng tái tạo.
Trước chiến tranh Nga - Ukraine, châu Âu đóng vai trò là chất bôi trơn trong quan hệ Mỹ - Trung. Sau khi Mỹ tăng cường các biện pháp trừng phạt công nghệ đối với Trung Quốc vào năm 2018, châu Âu trở thành cửa sổ kỹ thuật lớn nhất của Trung Quốc, giúp Trung Quốc tiếp tục quá trình nâng cấp công nghiệp. Chính vì sự tồn tại của châu Âu, chính sách phong tỏa Trung Quốc của Mỹ mới có nhiều lỗ hổng, Trung Quốc vẫn có thể hấp thụ công nghệ và vốn tiên tiến từ châu Âu.
Tuy nhiên, sau khi chiến tranh Nga - Ukraine bùng nổ, châu Âu coi Trung Quốc và Nga là cùng một phe, Liên minh châu Âu bắt đầu xây dựng chiến lược "giảm rủi ro" đối với Trung Quốc, cố gắng tách rời có giới hạn với Trung Quốc.
Trên thực tế, lý do quan trọng khiến thế giới sau Chiến tranh Lạnh có thể hình thành hệ thống “cân bằng quyền lực” là nhờ vào khả năng tự chủ chiến lược của Liên minh châu Âu (EU). Mặc dù EU cùng với Mỹ và Anh lập ra NATO – liên minh quân sự lớn nhất thế giới, nhưng EU vẫn duy trì quan hệ hợp tác kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc và Nga, ở một mức độ nhất định đã giúp cân bằng áp lực quân sự mà NATO gây ra đối với Trung – Nga.
Kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và EU lên tới 8000 tỷ USD, trong bối cảnh Trung – Mỹ tách rời, thương mại Trung – Âu trở thành “hòn đá tảng” giữ vững toàn cầu hóa. Chỉ cần Trung – Âu không tách rời, cánh cửa mở cửa đối ngoại của Trung Quốc sẽ luôn rộng mở. Mặt khác, trước khi chiến tranh Nga – Ukraine bùng nổ, thương mại giữa EU và Nga đạt gần 300 tỷ USD. Nguồn năng lượng giá rẻ từ Nga giúp hạ thấp chi phí sản xuất công nghiệp của EU, giúp EU duy trì năng lực cạnh tranh xuất khẩu cao dù cường độ lao động thấp. Ngược lại, thiết bị máy móc tiên tiến từ châu Âu cũng giúp nâng cao năng lực công nghiệp của Nga, cho phép Nga duy trì hệ thống công nghiệp hoàn chỉnh ngay cả khi thiếu hụt nhân lực.
Nói cách khác, trước chiến tranh Nga – Ukraine, thế giới có thể chia làm hai nhóm lớn:
- Một là liên minh quân sự gồm Mỹ, Anh và EU;
- Hai là liên minh kinh tế gồm Trung Quốc, Nga và EU.
Mỹ luôn cố gắng viện cớ an ninh để chia rẽ lục địa Á – Âu, trong khi Trung Quốc và EU lại tìm cách tăng cường kết nối nội bộ lục địa Á – Âu bằng các phương thức kinh tế.
Trong một thế giới lấy an ninh làm tối thượng, toàn cầu sẽ bị chia rẽ thành hai khối Đông – Tây đối đầu, tách biệt hoàn toàn.
Ngược lại, trong một thế giới đặt phát triển lên hàng đầu, lục địa Á – Âu sẽ tiến tới hội nhập kinh tế sâu rộng, các nhà lãnh đạo các nước sẽ quan tâm nhiều hơn đến vấn đề việc làm thay vì xung đột địa chính trị.
Có thể thấy rằng, EU đóng vai trò như chất bôi trơn giữa khối Anh – Mỹ và khối Trung – Nga, chính sự tồn tại của EU đã làm giảm mức độ đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ. Trung Quốc và châu Âu đều là những bên hưởng lợi lớn nhất từ toàn cầu hóa, đều không mong muốn lục địa Á – Âu bị chia rẽ bởi đối đầu, do đó họ có nhu cầu chung về một môi trường quốc tế hòa bình và phát triển. Tuy nhiên, đối với Mỹ, việc Á – Âu hội nhập là một thảm họa, bởi vì yếu tố khoảng cách địa lý sẽ khiến nước Mỹ nằm ngoài cuộc, từ đó thúc đẩy xu hướng phi đô la hóa toàn cầu.
Dưới góc độ của chính quyền tổng thống Biden “cân bằng quyền lực” đồng nghĩa với hòa bình – mà hòa bình chính là điều Trung Quốc cần nhất.

Cách Mỹ kìm hãm Trung Quốc dưới thời Trump

Dưới nhiệm kì thứ 2 của Tổng thống Donald Trump, chiến lược của Mỹ với Trung Quốc chuyển từ kỳ vọng cải cách sang đối đầu trực diện.
Ban đầu, ngoài chiến lược chiến tranh thương mại, chiến lược mà nhóm của Trump muốn thúc đẩy là “liên Nga chống Trung”. Dù không thể lôi kéo Nga thì ít nhất cũng khiến Nga đứng trung lập trong cạnh tranh Mỹ - Trung, từ đó Mỹ có thể rút lực khỏi châu Âu và Trung Đông để dồn tài nguyên cho Ấn Độ - Thái Bình Dương.
Chiến lược này có sức sát thương còn lớn hơn cả lệnh cấm vận công nghệ thời Biden. Tuy nhiên, để lôi kéo Nga, Mỹ cần sự phối hợp của cánh hữu cực đoan ở châu Âu, đặc biệt là tại Đức. Đây cũng là lý do vì sao Elon Musk và J.D. Vance tích cực can thiệp vào bầu cử Đức và ủng hộ đảng Lựa Chọn cho nước Đức (AfD). Tuy nhiên, sau bầu cử Đức, cực hữu chỉ giành được 20% phiếu, hy vọng vào chính phủ tan thành mây khói. Thủ tướng Ý Giorgia Meloni cũng từ chối lời mời gọi của Trump và vẫn duy trì đường lối ngoại giao thống nhất với EU.
Sau khi bầu cử Đức kết thúc, những năm tới EU vẫn nằm trong tay phe thiết chế truyền thống. Điều này đồng nghĩa rằng việc Trump muốn dựa vào phe cực hữu châu Âu để thực hiện “liên Nga chống Trung” sẽ rất khó thành công. Nếu Đức do liên minh CDU + SPD cầm quyền thì họ sẽ không từ bỏ viện trợ Ukraine và cũng không dễ dàng nối lại thương mại với Nga. Một khi Ukraine sụp đổ, Liên minh châu Âu sẽ đứng bên bờ tan rã. Mặc dù châu Âu có nền kinh tế phát triển, nhưng khả năng chịu đựng của người dân lại cực kỳ yếu, tư tưởng phản chiến rất phổ biến. Tây Âu giàu có chỉ lo tự bảo vệ mình, không muốn gánh trách nhiệm an ninh cho Đông Âu.
EU được xây dựng trên nền tảng các giá trị chung, nếu nền tảng này bị phá vỡ thì EU rất có thể sẽ tan biến. Nếu châu Âu suy yếu hoặc phân rã, kẻ hưởng lợi lớn nhất chính là Mỹ và Nga. Phần lớn ngành công nghiệp và nhân tài Tây Âu sẽ chảy về Mỹ, không chỉ vì khoảng cách gần mà còn vì tương đồng ngôn ngữ, văn hóa. Về phần Nga, họ sẽ kiểm soát Đông Âu, thống nhất 300 triệu người Slav.
Theo kế hoạch của Đảng Cộng hòa, Mỹ rất mong muốn tái lập trật tự Yalta mới, tức là chia đôi thế giới với Nga giống như sau Thế chiến thứ hai – nhường lợi ích Đông Âu cho Nga.
Sau khi kiểm soát được Đông Âu, Nga sẽ không dừng lại. Mục tiêu tiếp theo của Nga sẽ là kiểm soát Trung Á và tìm kiếm cửa ngõ ra biển ở Viễn Đông (ví dụ như Triều Tiên), để giành lại phạm vi ảnh hưởng thời Liên Xô. Điều này hoàn toàn không có lợi cho Trung Quốc.
Đối với Trump, để “Làm nước Mỹ vĩ đại trở lại”, cách tốt nhất là đưa nước Mỹ trở lại trạng thái Chiến tranh Lạnh – thời kỳ được xem là “thời hoàng kim” trong mắt những người da trắng vùng nông thôn Mỹ.
Sự sụp đổ của Liên Xô đã giúp châu Âu bước vào thời kỳ tự chủ chiến lược, dẫn đến sự thống nhất của nước Đức, sự ra đời của đồng Euro, và việc EU trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc – cùng chia sẻ áp lực địa chính trị từ Mỹ và Nga.
Trong 30 năm qua, thế giới dần trở nên đa cực và toàn cầu hóa. Người Trung Quốc và cư dân ven biển Mỹ (các bang Dân chủ) trở thành nhóm hưởng lợi lớn nhất, còn Nga và cư dân nội địa Mỹ (các bang Cộng hòa) lại là nhóm chịu thiệt hại nặng nề nhất.
Nga thiếu cảng nước ấm, lại lỡ mất cuộc cách mạng công nghệ thông tin, vị thế quốc tế tụt dốc. Mỹ dù tích lũy được tài sản thông qua tài chính và công nghệ, nhưng phải trả giá bằng việc ngành sản xuất chảy ra nước ngoài, dẫn đến nền kinh tế “rỗng ruột”. Những người ủng hộ Trump thất nghiệp hàng loạt, sống dựa vào trợ cấp.
Vì vậy, phong trào MAGA và Nga có sự đồng thuận trong việc chống toàn cầu hóa và tái cấu trúc trật tự quốc tế. Nếu quay lại trật tự Yalta, dựng hàng rào thuế quan, thúc đẩy đối đầu phe phái, thay thế toàn cầu hóa bằng khu vực hóa, thay thế đa cực bằng lưỡng cực, thì tình hình của MAGA và Nga đều có thể được cải thiện. Cả Mỹ và Nga đều là cường quốc tài nguyên, có thể “đóng cửa mà sống” hoặc bắt tay nhau để độc quyền trục lợi.
Trái lại, Trung Quốc và châu Âu tuy công nghiệp phát triển nhưng tài nguyên lại hạn chế, nếu quay lại cục diện Chiến tranh Lạnh thì lợi ích sẽ bị tổn hại nghiêm trọng.
Trump muốn chống toàn cầu hóa, chỉ một mình thì chưa đủ, còn cần cả sự phối hợp từ Nga. Nếu Mỹ và Nga bắt tay, Mỹ sẽ siết chặt các tuyến thương mại đường biển Á – Âu, Nga sẽ hạn chế các tuyến đường bộ Á – Âu. Bức tường địa chính trị hữu hình kết hợp với bức tường thuế quan vô hình đủ sức khiến hai đầu lục địa Á – Âu bị tách rời.
Nếu Ukraine thất bại, hiệu ứng domino sẽ lan rộng. Châu Âu có thể bị chia rẽ hoặc bị Mỹ – Nga phân chia. Khi đó, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với một nước Mỹ mạnh hơn và một Liên Xô hồi sinh – hậu quả sẽ khôn lường.
Đối với Trung Quốc nếu có thể tránh được các rủi ro địa chính trị trong 5-10 năm tới và tập trung vào việc xây dựng các vấn đề trong nước, giải quyết các vấn đề về bất động sản và nợ địa phương, đồng thời thúc đẩy các ngành công nghệ cao như năng lượng mới, chất bán dẫn và hàng không vũ trụ làm động lực cho tăng trưởng kinh tế, Trung Quốc có thể tiến tới giai đoạn phát triển ổn định. Đến năm 2030, Trung Quốc có thể vươn mình để trở thành quốc gia phát triển và có ảnh hưởng kinh tế ngang tầm với Mỹ. Tuy nhiên Trung Quốc cũng đối mặt rủi ro bên ngoài, trong đó rủi ro lớn nhất là vấn đề eo biển Đài Loan.