1. Mở đầu

Tranh thuyền chiến thời Nguyễn do Nguyễn Thứ, họa sỹ cung đình triều Nguyễn vẽ
Tranh thuyền chiến thời Nguyễn do Nguyễn Thứ, họa sỹ cung đình triều Nguyễn vẽ
Triều Nguyễn được thành lập trong bối cảnh các nước tư bản phương Tây đang tìm cách gia tăng sự hiện diện và sức ảnh hưởng ở các quốc gia phương Đông, trong đó có Việt Nam. Trước xu thế đó, triều đình nhà Nguyễn không hoàn toàn “làm ngơ” mà đã có những sự chủ động trong việc tiếp nhận những ảnh hưởng từ phương Tây, đặc biệt là trên lĩnh vực quân sự. Trong nửa đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn đã đạt được một số thành tựu trong hoạt động tiếp thu tri thức, áp dụng kĩ thuật phương Tây trong lĩnh vực quân sự:: Triều đình nhà Nguyễn trong nửa đầu thế kỉ XIX đã tích cực mua sắm các vũ khí từ thương nhân phương Tây đồng thời cải tiến thêm nhiều loại vũ khí mới có sức công phá cao hơn nguyên bản phương Tây như Xung tiêu, Chấn hải, Điểu sang...; Các loại thuyền bọc đồng, thuyền hơi nước, thuyền sam bản được nhà Nguyễn học hỏi từ phương Tây và được sử dụng trong nhiều hoạt động của nhà nước như công cán nước ngoài, vận tải, tuần tiễu...; Việt Nam đã có một hệ thống gồm ít nhất 32 thành trì trên khắp nước được xây dựng theo kiểu kiến trúc Vauban từ Pháp. Các kĩ sư Việt Nam đã nhanh chóng tiếp thu kĩ thuật xây dựng và dần làm chủ về kĩ thuật trong xây dựng mà không cần đến sự hỗ trợ của người Pháp như giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, các công trình như Thành Hà Nội, kinh đô Huế đều hoàn toàn do người Việt Nam xây dựng. Những tiếp thu về khoa học kĩ thuật quân sự dưới triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỉ XIX tạo nên nhiều đặc điểm riêng của thời kỳ này cũng như tác động đến các mặt khác nhau của đời sống kinh tế xã hội Việt Nam thời bấy giờ.

2. Đặc điểm của quá trình tiếp thu khoa học - kĩ thuật quân sự dưới triều Nguyễn

Thứ nhất, các tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự phương Tây được du nhập vào Việt Nam không hoàn toàn tiếp nhận nguyên bản mà đã có sự thích ứng, thậm chí có yếu tố sáng tạo với các yếu tố khoa học, kỹ thuật bản địa nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn ở Việt Nam. Đây là nét đặc sắc riêng biệt của Việt Nam trong việc du nhập, học hỏi các tri thức khoa học, kỹ thuật quân sự phương Tây.
Trong lĩnh vực chế tạo vũ khí, nhà Nguyễn đã tỏ ra rất thức thời trong việc chế tạo thêm nhiều loại vũ khí mới, có sự cải tiến so với nguyên bản. Dưới triều Minh Mạng, nhà vua đã cho mua thiết bị phương Tây về lắp ráp với thân súng tự chế trong nước. Năm 1835, Minh Mạng đã ra lệnh cho: “Vũ khố trích lấy hơn 3000 cái thân súng Điểu Sang mới làm, rồi sức cho thợ, theo đúng mẫu, lắp hơn 3000 bộ máy thạch cơ (cò súng) do phái viên đã mua của Tây dương”. Từ đó, một lượng lớn súng tay kiểu phương Tây đã được sản xuất, với hơn 30.000 khẩu đã được chế tạo chỉ riêng dưới thời vua Minh Mạng. Trên cơ sở này, nhà Nguyễn tiếp tục chế ra nhiều loại vũ khí mới có sức công phá mạnh mẽ. Công việc này hoàn toàn do người Việt đảm nhận trên cơ sở học hỏi tri thức từ phương Tây và sáng tạo từ cơ sở sẵn có. Năm 1831, pháo thủ Nguyễn Cửu Nghị đã chế ra đạn hỏa cầu [có hỏa cầu nghìn hạt châu, hỏa cầu trăm mắt, hỏa cầu sấm sét, hỏa cầu đạn lửa].
Thêm vào đó, triều đình nhà Nguyễn cũng tỏ ra khéo léo khi kết hợp các tri thức khoa học kĩ thuật phương Tây hiện đại với tri thức khoa học kĩ thuật phương Đông truyền thống. Sau khi thắng Tây Sơn hoàn toàn, vua Gia Long đã sử dụng tất cả các vật bằng đồng chiếm được của Tây Sơn đúc thành chín khẩu thần công. Chín khẩu thần công này được đúc ra để đại diện cho bốn mùa và Ngũ hành được nhân hóa bằng chức tước thống lãnh quân đội, uy dũng ngang hàng với thần linh: khẩu đầu là Xuân nặng 17.700 cân; khẩu thứ hai là Hạ nặng 17.200 cân, khẩu thứ ba là Thu 18.400 cân; khẩu thứ tư là Đông nặng 17.800 cân; khẩu thứ năm là Mộc nặng 17.100 cân; khẩu thứ 6 là Hỏa nặng 17.200 cân; khẩu thứ 7 là Thổ nặng 17.800 cân; khẩu thứ tám là Kim nặng 17.600 cân; khẩu thứ 9 là Thủy nặng 17.200 cân. Đôi khi, các khẩu thần công này được xem như vị thần bảo hộ cho triều đại nhà Nguyễn và có sức mạnh siêu nhiên. Thậm chí, “nhiều kẻ lâm bệnh đã đến và cúng rượu, trầu và giấy vàng bạc khấn lạy nhờ ơn cửu vị cứu sống. Bệnh tật chắc sẽ qua nếu không quên buộc ở họng súng chùm hoa vàng và khi đã hoàn toàn khỏi bệnh thì người ta đến tạ thần công bằng cúng cơm thịt gà, giò chuối. Chín khẩu thần công còn có nhiều mầu nhiệm khác. Cửu vị có thể hòa giải cho các gia đình ly hôn và những người giữ gìn súng khấn vái hai lần trong tháng để cho an khang vạn hộ gia đình”. Rõ ràng là, việc học hỏi và đúc những loại súng theo thiết kế châu Âu vẫn tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh trong thế kỷ XIX dưới vương triều Nguyễn. Điều đáng nói ở đây là mặc dù có học tập cách đúc ra những khẩu súng theo kiểu phương Tây, nhưng khi vào môi trường văn hóa Việt Nam, việc đúc những khẩu súng mang phong cách châu Âu đã được tích hợp với văn hóa phương Đông mà cụ thể là văn hóa của người Việt bản địa.
Trong lĩnh vực đóng tàu thuyền, từ cuối thế kỷ XVIII, Việt Nam là một trong những quốc gia sớm quan tâm đến việc tiếp thu đến các các kỹ thuật hàng hải tiên tiến nhất của phương Tây. Việc học hỏi các kỹ thuật đóng thuyền phương Tây ở đây không phải là “mục tiêu nhất thời” của riêng một vị hoàng đế để phục vụ chiến tranh mà đó là “một chính sách thường trực” trong suốt thời trị vì của các vị vua nhà Nguyễn trong nửa đầu thế kỉ XIX.
Trong cuộc chiến với hải quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã đạt được một lợi thế thực sự khi sử dụng hỗn hợp các chiến thuyền lớn chạy bằng sức gió kiểu Âu châu (với một ưu thế đáng kể về pháo binh) và các thuyền buồm sàn thấp cổ truyền (chạy vừa bằng buồm vừa bằng tay chèo). Nói về sự pha trộn các kỹ thuật địa phương với các kỹ thuật phương Tây trong chế tạo thuyền chiến, theo Roberts – sứ giả của Công ty Đông Ấn Anh đến Huế năm 1804 cho rằng: “có vẻ vài loại thuyền đã có hiện diện, ít nhiều đều có liên hệ mật thiết với các kiểu mẫu nguyên thủy của Âu châu hay Trung Hoa”. Trong quan điểm của Roberts, các loại thuyền này “nguyên thủy được đóng như một chiếc thuyền buồm [kiểu Trung Hoa] nhưng [với] các bộ phận bên trên được hoàn tất theo kiểu Âu và chạy bằng cách thả buồm như một con tàu. Nhà vua có 17 chiếc thuyền buồm hay Tows [tàu] tương tự như các thuyền đó. Bản thân các nhà thương nhân châu Âu khi đến Huế trong những năm 1790 – 1802 đều dành sự tán dương cao độ đối với kỹ năng đóng tàu tại xưởng đóng tàu của Nguyễn Ánh. Những người nước ngoài khác đến Huế năm 1819 cũng ca ngợi xưởng đóng tàu của Nguyễn Ánh “ngang bằng với bất kỳ nhà máy đóng tàu nào tại Châu Âu”. Trong năm 1819, từ những xưởng đóng tàu ở Gia Định, nhà Nguyễn đã có thêm 200 chiếc thuyền được đóng, mỗi chiếc thuyền buồm có mái chèo, được thiết kế theo phong cách châu Âu. Điểm đặc biệt là thân thuyền hoàn toàn giống với thuyền châu Âu, nhưng mái chèo là sự kết hợp giữa phong cách châu Âu và An Nam.
Bên cạnh đó, nhà Nguyễn không ngừng cải tiến các loại thuyền hạng lớn như thuyền bọc đồng, thuyền hơi nước. Thuyền bọc đồng thời Nguyễn thường được làm bằng gỗ tốt, sau đó bọc đồng bên ngoài, cánh lái cũng bằng đồng, có nhiều dây neo và có từ 2 đến 3 cột buồm. Với mong muốn xuất xưởng những chiếc thuyền đi biển kiến trúc nhẹ nhàng, vận động linh hoạt, trọng tải lớn, vua Minh Mạng đã cho nghiên cứu, cải tiến để tạo ra các mẫu thuyền bọc đồng cột buồm mới so với nguyên bản từ phương Tây. Theo lệnh của vua, các quan phụ trách về kĩ thuật phải nghiên cứu và cải tiến về trục để giương và hạ buồm cùng các loại dây, sao cho thuyền có thể vận hành dễ dàng hơn. Từ đó, thủy sư Hiệp lý Lê Văn Đức đã trình lên sơ đồ thuyền bọc đồng nhiều dây cải tiến. Những cải tiến này đã được vận dụng để đóng thuyền Thái Loan, được vua Thiệu Trị ngợi khen: “Cách thức thuyền này, so với các thuyền đồng chưa có thuyền nào bằng, từ trước đến giờ, các ngươi làm việc cũng là đáng khen”. Thuyền máy hơi nước cũng được nhà Nguyễn quan tâm nghiên cứu các kĩ thuật từ phương Tây. Năm Mậu Tuất (1838), nhận thấy sự kì diệu của thuyền máy hơi nước, vua Minh Mạng cho mua một chiếc tàu máy hơi nước cũ và lệnh cho: “Vũ khố nghiên cứu theo đúng cách thức thuyền máy mua của Tây dương trước đây để tâu lên xin làm”. Sau khi thất bại trong lần thí nghiệm đầu tiên vào tháng 2 năm 1839 vì nồi hơi nước bị vỡ, tháng 4 năm đó, chiếc tàu máy hơi nước mới đã được đóng xong, khi đem thử nghiệm trên sông Nhị Hà thì: “máy móc linh động, chạy đi nhanh nhẹ”. Trong quá trình đóng thuyền, các thợ nhà Nguyễn đã có nhiều tiến bộ trong việc tiếp thu, tìm tòi nghiên cứu để có thể tự đóng mới và sửa chữa các tàu máy hơi nước như trường hợp của tàu Yên Phi. Khi mới được mua về năm 1840, máy móc của tàu Yên Phi nhiều chỗ han gỉ, nồi sắt cũng rò nước, chạy thử chưa được nhanh lẹ. Vua Minh Mạng đã sai thợ: “tháo ra xem xét, mài giũa từng cái, sửa chữa chỉnh đốn, lại lắp vào như cũ”. Sau khi đã sửa chữa xong, thuyền Yên Phi được đem ra chạy thử cùng thuyền hiệu Bình Hải (thuyền Bình Hải vẫn có tiếng là nhanh lẹ). Kết quả là trên quãng đường từ cửa biển Thuận An đến đồn Đà Nẵng, đi về 2 lần, tàu chạy máy hơi nước đều chạy nhanh hơn. Tiếp đó, vua Minh Mạng đã cho đóng mô phỏng theo và đã đóng thành công thêm hai tàu máy hơi nước, lần lượt đặt tên chúng là Vũ Phi, Hương Phi. Việc đóng thử nghiệm thành công các tàu máy hơi nước chứng tỏ thợ thủ công Việt Nam lúc bấy giờ đã có thể tiếp cận và làm chủ kỹ thuật đóng tàu cơ khí của phương Tây. Đây là một tiến bộ đáng kể trong ngành đóng tàu thuyền Việt Nam thời Nguyễn.
Về kĩ thuật xây dựng thành lũy, nghệ thuật xây dựng các công trình phòng thủ đã có từ rất lâu đời tại Việt Nam. Trước khi áp dụng kỹ thuật xây dựng thành lũy theo kiểu phương Tây (Vauban) thì nghệ thuật xây dựng thành trì ở Việt Nam chính yếu dựa trên tiêu chuẩn Trung Hoa. Hình dáng thường thấy ở các công trình xây dựng đó thường có hình vuông hay hình chữ nhật (thành Cổ Loa, thành nhà Hồ, thành Đông Kinh...). Từ giai đoạn thập niên sau cùng của thế kỷ XVIII kéo dài sang tận thế kỷ XIX, dưới thời kì trị vì của các vua Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị, kỹ thuật xây dựng đồn lũy theo kiểu Vauban từ châu Âu được tiếp nhận vào Việt Nam, tạo ra một cuộc cách mạng trong xây dựng thành lũy. Kết quả là đã có 32 tòa thành được xây dựng trải dọc đất nước Việt Nam.
Trong giai đoạn đầu của việc xây dựng thành Sài Gòn và thành Diên Khánh, chúng ta dựa vào họa đồ được thiết kế bởi các sĩ quan xây dựng người Pháp và người Pháp cũng trực tiếp giám sát việc thi công các công trình này. Tuy nhiên, trong thế kỷ XIX, hầu hết các thành Việt Nam theo thiết kế Vauban chủ yếu lại được xây dựng dưới đội ngũ các kỹ sư Việt Nam được giáo dục bởi các sĩ quan Pháp và các tri thức mới về kỹ thuật xây thành Vauban liên tục được cập nhật thông qua các tài liệu và bản vẽ về thiết kế này được dịch ra tiếng Việt.
Nét độc đáo chính là ở chỗ các kỹ sư Việt Nam đã thích ứng các kỹ thuật xây thành châu Âu với các kỹ thuật truyền thống của địa phương. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng công trình Kinh đô Huế. Khi vua Gia Long bắt đầu xây dựng các tòa thành khác sau khi lên ngôi, chỉ có 4 người Pháp đã từng phục vụ Gia Long trước đây là còn ở lại Việt Nam (một bác sĩ y khoa và ba sĩ quan hải quân) và những người này “không có bằng cớ nào cho thấy họ có thể dính líu đến sự xây dựng các thành lũy”. John Crawfurd (một người Anh có dịp đến Huế năm 1822) đã ghi lại trong nhật kí của mình về kĩ thuật xây dựng thành Huế và về khả năng của vua Gia Long như sau: “Chính vị vua vừa qua đời đã tự tay ông vẽ họa đồ dựa theo lời chỉ dẫn của các viên sĩ quan Pháp phục vụ ông; nhưng khi bắt đầu công cuộc xây dựng vào năm 1805 thì ông không còn có sự giúp đỡ của họ nữa. Con người đáng chú ý ấy tỏ ra không tầm thường trong ngành khoa học quân sự của người Âu, vì công cuộc xây dựng, như chúng tôi xét thấy, đều được hoạch định và thực hiện theo những nguyên tắc kĩ thuật, và vật liệu xây dựng cũng như công trình kiến trúc đều không thua sút hơn họa đồ tí nào cả”.
Sự làm chủ kĩ thuật xây dựng thành lũy theo kiến trúc Vauban của người Việt còn được thể hiện rõ nét qua quá trình xây dựng thành Hà Nội. Năm 1805, triều đình nhà Nguyễn bắt đầu cho xây dựng một tòa thành mang phong cách mới, hiện đại, áp dụng kĩ thuật xây dựng thành lũy kiểu Vauban của Pháp trên đất Thăng Long. Thành Hà Nội được xây theo kiểu hình vuông là hình thể bất lợi nhất theo thiết kế Vauban. Để khắc phục nhược điểm này, các kiến trúc sư người Việt đã gia tăng độ khúc khuỷu của tường thành, nó cũng là một trong những “tường thành đặc biệt nhất của kiểu pháo đài Vauban ở xứ Đông Dương..., là chứng tích cho sự hợp tác Pháp – Nam đầu tiên trong những năm đầu thế kỉ XIX”. Điều này tạo ra những lợi thế đối với quân phòng thủ đồng thời gia tăng sự khó khăn cho đối phương. Với kiến trúc theo kĩ thuật mới của phương Tây, cùng với những sự sửa đổi cho phù hợp với điều kiện Việt Nam, thành Hà Nội “thực sự là một công trình lớn, không thể đánh chiếm nếu nó được bảo vệ bởi những đạo quân đông đảo và có vũ trang”. Những ví dụ kể trên cho thấy người Việt đã làm chủ về mặt kĩ nghệ và tự đảm nhận quá trình xây cất các tòa thành theo kiểu phương Tây mà không cần đến sự trợ giúp của người ngoại quốc. Điều đó chứng tỏ rằng, trong thế kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn đã chủ động tiếp nhận và liên tục có những điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Vì thế mà các thành được xây dựng trong thời gian này được thừa nhận là độc đáo tại châu Á, kể cả đối với các thuộc địa của châu Âu.
Thứ hai, các tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự phương Tây được du nhập vào Việt Nam chủ yếu phục vụ tầng lớp quý tộc và không mang giá trị thương mại, nhân dân không được hưởng những thành tựu này.
Sự thay đổi trong nhận thức tư tưởng của người Việt trước quá trình du nhập các tri thức khoa học, kỹ thuật quân sự phương Tây diễn ra một cách chậm chạp và không tạo ra sự biến đổi về chất. Bởi lẽ, trong nền tảng kinh tế - xã hội Việt Nam, bộ phận kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm giữ vai trò quan trọng, nông dân vẫn là giai tầng có số lượng đông đảo nhất và phần đông những người trong số họ đều mù chữ. Bộ phận tầng lớp trí thức có khả năng tiếp nhận khoa học, kỹ thuật phương Tây chủ yếu tập trung vào số ít các giai tầng trên như nhà vua, quan lại trong nền tảng giáo dục Nho giáo. Việc tư tưởng Nho giáo ăn sâu vào tầng lớp lãnh đạo cũng tạo ra trở ngại lớn trong quá trình tiếp thu các tri thức khoa học – kĩ thuật quân sự phương Tây.
Thêm vào đó, không gian và phạm vi tiếp nhận các tri thức khoa học – kĩ thuật quân sự cũng bó hẹp, không mang tính chất toàn diện. Sự tiếp nhận và ảnh hưởng các tri thức khoa học - kĩ thuật quân sự chủ yếu diễn ra ở khu vực quan trọng, nặng tính chất phòng thủ như: khu vực biên giới, vùng duyên hải, kinh thành - nơi tọa lạc của chính quyền quân chủ mà không có sự xâm nhập sâu vào đời sống nhân dân. Chính vì điều đó đã khiến cho các tri thức khoa học, kỹ thuật được du nhập vào Việt Nam chỉ phát triển trong một số giai tầng và khu vực nhất định, không thể tạo ra làn sóng tiếp thu tri thức phương Tây đồng đều trên cả nước.
Thứ ba, các tri thức khoa học, kỹ thuật phương Tây được truyền bá vào Việt Nam trong thời gian này vẫn mang nhiều yếu tố thực dụng, chưa toàn diện và triệt để.
Bước sang thế kỷ XIX, quá trình du nhập khoa học, kỹ thuật phương Tây mới thực sự được diễn ra một cách mạnh mẽ, nhưng việc du nhập lại mang nhiều yếu tố thực dụng. Chính quyền phong kiến chủ động du nhập các tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự nhằm phục vụ cho mục đích bảo vệ an ninh đất nước trong khi đó các tri thức khoa học nhân văn khác (văn học, địa lý, ngôn ngữ...) lại không được chú trọng tiếp nhận. Điều này có thể dễ dàng lí giải bởi trong bối cảnh các nước tư bản Âu, Mỹ tăng cường chiến tranh xâm lược thị trường, trong khi đó, nhiều quốc gia trong khu vực trở thành đối tượng nhòm ngó và nằm trong mục tiêu xâm lược của thực dân đế quốc phương Tây, trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy mà việc du nhập các tri thức khoa học, kỹ thuật quân sự phục vụ cho vấn đề đảm bảo an ninh là vấn đề được chú trọng hơn bao giờ hết.
Bên cạnh đó, việc tiếp thu và áp dụng những tri thức khoa học, kĩ thuật quân sự phương Tây thời Nguyễn chủ yếu thông qua kinh nghiệm thực tế chứ không dựa trên việc tìm hiểu, nghiên cứu những nguyên lí khoa học đã tạo nên chúng. Những chiếc tàu máy hơi nước được chế tạo trong thời vua Minh Mạng là một minh chứng. Người Việt đã đóng được những chiếc tàu máy hơi nước, nhưng không thể coi đây là sự tiếp thu trình độ kĩ thuật phương Tây một cách có hệ thống mà là sự bắt chước hoàn hảo nhất có thể. Nó chứng tỏ sự khéo léo của người Việt Nam, nhưng lại không tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ đối với nền khoa học kĩ thuật nước ta đương thời. Việc tiếp cận với tri thức khoa học – kĩ thuật quân sự một cách gián tiếp, khía cạnh kĩ thuật tỏ ra vượt trội so với yếu tố khoa học nên về tổng thể quá trình tiếp thu tri thức khoa học không ngang bằng với quá trình áp dụng kĩ thuật, mang tính chắp vá. Ở một tầm nhìn rộng hơn, với phương thức tiếp nhận như trên, việc hiện đại hóa nền quân sự quốc phòng theo mô hình phương Tây không thể diễn ra và trên thực tế đất nước đã bị xâm lược vào năm 1858.

3. Tác động của quá trình tiếp thu khoa học - kĩ thuật quân sự dưới triều Nguyễn

Quá trình du nhập các tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự phương Tây cũng đồng thời là quá trình thay đổi về mặt nhận thức, tư tưởng đối với các vị vua đầu triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỉ XIX. Nó đánh dấu bắt đầu bằng sự thay đổi thế giới quan trong cách nhìn nhận một thế giới hoàn toàn khác so với trước đây rằng thế giới không chỉ có một đất nước Trung Hoa rộng lớn mà còn nhiều quốc gia có nền văn hóa, văn minh khác biệt.
Các vị vua triều Nguyễn cũng bắt đầu nhận thấy tính ưu việt của khoa học – kĩ thuật quân sự phương Tây so với các quốc gia ở châu Á nói chung (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Thái Lan…). Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau này) được xem là người tiên phong trong quá trình thúc đẩy các tri thức khoa học – kĩ thuật quân sự phương Tây vào Việt Nam một cách chủ động, không còn dừng lại ở “trí tò mò” như trong thế kỉ XVI-XVIII nữa. Trong cuộc chiến khốc liệt với quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh khi bị đẩy lui vào bước đường cùng đã tin tưởng vào sự giúp đỡ của người Pháp và từ đó giành lại vị thế chính trị đã mất. Chính vì vậy, vấn đề du nhập các kỹ thuật quân sự trong giai đoạn này được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Thậm chí, kể sau khi lật đổ Tây Sơn, lập lại hòa bình, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục giành mối quan tâm đến việc đắc thụ các tri thức về kỹ thuật quân sự.
Dưới triều vua Minh Mạng và Thiệu Trị xu hướng tập trung phát triển quân sự học hỏi phương Tây vẫn tiếp tục được duy trì. Thực tế cho thấy, việc quan tâm tới xây dựng thành lũy kiểu Vauban, duy trì, củng cố sức mạnh hải quân bằng việc đóng thêm nhiều thuyền nguyên bản hoặc có cải tiến ít nhiều từ phương Tây (thuyền bọc đồng, thuyền sam bản, thuyền hơi nước,…) cũng như các loại súng lớn nhỏ (súng Đại bác, súng Xung tiêu, súng Điểu sang,...) cho thấy các vị vua kế nghiệp Gia Long đã tỏ ra một sự quan tâm thường trực đến việc đắc thụ các kỹ thuật châu Âu. Không chỉ dừng lại ở việc du nhập các thành tựu khoa học, kỹ thuật châu Âu mà các ông vua nhà Nguyễn đã tiến hành cải tiến kỹ thuật và hòa trộn chúng vào với kỹ thuật bản địa nhằm vừa đảm bảo yếu tố sức mạnh mà vẫn có nét riêng của Việt Nam. Các thương nhân phương Tây có mặt ở Việt Nam đã nhiều lần đánh giá cao sức sáng tạo của người Việt trên cơ sở du nhập kỹ thuật Âu châu. Không chỉ các kỹ thuật ngoại quốc đã không bị khước từ, mà trong thực tế đã được chấp nhận một cách rộng rãi ở Việt Nam đương thời trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX (ít nhất là phổ biến trong tầng lớp thống trị).
Tuy nhiên, một điểm tiêu biểu trong tư tưởng, nhận thức của chính quyền nhà Nguyễn trong quá trình tiếp nhận tri thức khoa học – kĩ thuật quân sự phương Tây là sự lưỡng lự, lo ngại. Điều này thể hiện rất rõ trong cách ứng đối của triều đình nhà Nguyễn đối với người Pháp – những người có vai trò đưa các tri thức khoa học, kỹ thuật châu Âu đến Việt Nam và có vai trò vô cùng to lớn ngay từ buổi đầu. Không thể phủ nhận những nhân vật người Pháp như Vannier hay Chaigneau đã đóng góp công sức lớn trong công cuộc giành lại chính quyền cho nhà Nguyễn từ nhà Tây Sơn, sau đó ở lại phục vụ triều đình nhà Nguyễn. Salles trong một khảo cứu về những người Pháp phục vụ triều đình nhà Nguyễn đã viết về thái độ nghi ngờ của vua Minh Mạng kể cả khi họ mong muốn đưa các tri thức khoa học - kỹ thuật hiện đại đến Việt Nam như sau: “Minh Mạng là ông vua không tin người ngoại quốc nên kỷ niệm về những việc tốt của cha d’Adran trong quá khứ bị phai mờ và hoàn cảnh không thuận lợi như trước. Tiếp xúc lần đầu, Chaigneau thấy ngay cái chống đối âm ỉ của triều đình. Dù sao ông cố gắng hết sức để lội ngược dòng nước. Ông cố gắng chứng minh ích lợi trong sự hợp tác với người Pháp bằng cách mang thuốc tiêm chủng, đề nghị mở đồn điền cà phê và đồn điền trồng cây tràm để cho người bản xứ thấy được tại chỗ các sản phẩm của người Âu nhưng chỉ mất công mà thôi”.
Qua đó cũng có thể thấy thái độ và chính sách của chính quyền nhà Nguyễn mang hai khuynh hướng đối lập, vừa muốn được tiếp nhận các tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự phương Tây lại vừa muốn bảo vệ đất nước khỏi hệ lụy của sự xâm lược của các nước đế quốc thực dân như các quốc gia khác trong khu vực. Chính điều đó đã dẫn đến những hành xử đôi khi thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, khiến quá trình tiếp nhận các tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự hiện đại phương Tây vào Việt Nam bị hạn chế, làm cho đất nước mất đi một cơ hội tiếp nhận các tri thức khoa học, kỹ thuật tiến bộ của nhân loại, đồng thời đẩy đất nước rơi vào tình trạng suy yếu và nhanh chóng thất bại trước sự tấn công chủ nghĩa thực dân Pháp trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX.
Quá trình du nhập các tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự phương Tây nửa đầu thế kỉ XIX diễn ra trong bối cảnh xã hội Việt Nam vẫn trong nền tảng của một nền khoa học - kỹ thuật quân sự truyền thống phương Đông. Chúng ta đã có những tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự cũng như những thành tựu nhất định nhưng khi các tri thức phương Tây được truyền bá vào Việt Nam chủ yếu thông qua con đường thương mại đã bước đầu phá vỡ, tái cấu trúc lại các thành tố khoa học, kỹ thuật của người Việt bản địa.
Theo lý thuyết hệ thống cấu trúc, quá trình tái cấu trúc luôn diễn ra theo ba giai đoạn: Phá vỡ cấu trúc vốn có của các hệ thống cũ, các hệ thống mới được hội nhập với nhau để hình thành hệ thống mới => Tái cấu trúc: Tổ chức lại nhưng tái lập hệ thống cũ mà hình thành các yếu tố của hệ thống mới => Tiếp biến văn hóa: Giai đoạn hệ thống mới tồn tại bền vững từ sự tích hợp các hệ thống hợp thành và thực hiện tiến trình phát triển mới. Quá trình phá vỡ, tái cấu trúc lại các thành tố khoa học - kỹ thuật quân sự của người Việt sau khi có sự du nhập các yếu tố phương Tây cũng diễn ra theo quy trình đó.
Trong các thế kỷ trước, nền khoa học - kỹ thuật quân sự của người Việt phần nhiều chịu sự ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa, lúc này, sự du nhập của khoa học, kỹ thuật phương Tây vào Việt Nam đã đưa đến sự tồn tại của hai yếu tố khoa học, kỹ thuật Trung Hoa và châu Âu trong tình hình khoa học, kỹ thuật Việt Nam. Thậm chí sự xuất hiện của yếu tố từ bên ngoài còn dung hòa và tiếp biến một cách nhanh chóng với những yếu tố cũ để tạo ra những biến đổi và là chất xúc tác đề hình thành nên những yếu tố mới. Hay nói một cách khác quá trình đó đã bổ sung những nhược điểm và bổ trợ thêm những ưu điểm của các tri thức khoa học, kỹ thuật truyền thống, đồng thời bổ sung mới và du nhập thêm các tri thức khoa học, kỹ thuật mà người Việt chưa có.
Quá trình tái cấu trúc đã góp phần đưa các ngành khoa học quân sự Việt Nam chủ yếu thiên về kinh nghiệm dân gian được phát triển lên thành những ngành khoa học, cụ thể bằng việc triều đình nhà Nguyễn đã nhiều lần mua các cuốn sách về khoa học quân sự (chế tạo vũ khí, thuyền lớn,… ) từ phương Tây để dịch và phổ biến trong bộ máy quản lý của triều đình. Từ đây, bước sang giai đoạn tiếp biến văn hóa đã định hình rõ sự ra đời của một bộ phận tầng lớp mới có khả năng tiếp nhận những ngành nghề đòi hỏi trình độ cao này. Đó là những kiến trúc sư, những người thợ thủ công nghiệp làm việc trong ngành đúc súng, đóng thuyền... Sự ra đời của một bộ phận nhỏ các tầng lớp mới có khả năng thích ứng với khoa học - kỹ thuật quân sự phương Tây đã gián tiếp tạo ra một quá trình thay đổi từ từ trong lòng xã hội Việt Nam. Đó là sự chuẩn bị bước đầu cho sự thay đổi của một nền khoa học và công nghệ lạc hậu nằm trong nền tảng của xã hội nông nghiệp quân chủ chuyên chế dần dần chuyển lên một nền khoa học và công nghệ chịu sự tác động bước đầu của khoa học - kỹ thuật phương Tây nói chung.
Trong các lĩnh vực khoa học – kĩ thuật quân sự phương Tây du nhập vào Việt Nam, việc tiếp thu và cải tiến kĩ thuật đóng tàu thuyền là lĩnh vực tạo ra nhiều biến đổi không chỉ đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng mà còn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế và hoạt động ngoại giao với khu vực.
Nhờ những con thuyền đóng theo kiểu phương Tây mà trong thế kỷ XIX triều đình nhà Nguyễn đã nhiều lần tổ chức các chuyến đi mua bán và trao đổi hàng hóa ở nước ngoài. Trong tác phẩm: “Nhật Bản, Đông Dương” của tác giả Dubois de Jancy viết vào năm 1850 đã cho ta những tư liệu chính xác về việc thương mại với các quốc gia bên ngoài lãnh thổ An Nam vào giữa thế kỷ XIX. Tác giả đã đưa ra đánh giá: “Trong những năm trước khi có phái đoàn Crawful đến Huế, đã có khoảng 4000 tấn hàng mỗi năm được sử dụng để buôn bán giữa Singapore và Nam Kỳ… Trong các năm gần đây, nhà vua đã đài thọ và ra lệnh những chuyến đi đó”. Việc xuất và nhập cảng giữa Nam Kỳ và Singapore phát triển mạnh từ khoảng những năm 1820 đến 1841. Năm 1839, xuất và nhập cảng gộp lại đạt con số 1.888.423 phrăng. Năm 1841, lên đến 2.906.310 phrăng”. Nhận xét về thương mại quan phương dưới triều Minh Mạng, Natalis Rondot cho rằng: “Việc buôn bán của đức vua chỉ dùng các thuyền được lắp ráp và trang bị buồm lái theo cách Tây phương cũng như được vũ trang theo cách thuyền chiến cỡ trung bình. Các thuyền này từ 300 đến 600 tấn, mang hàng của vua đến Singapore, Batavia, Quảng Đông, Bangkok và cả Calcutta. Các chuyến đi đến Singapore và Batavia được thực hiện mỗi năm; các chuyến đi đến các cửa biển khác được thực hiện với khoảng thời gian tùy nghi thay đổi. Khoảng 10 chiếc thuyền lớn hải hành theo lệnh của vua và mua bán cho vua”. Từ những con số trên cho thấy, nhờ những con thuyền đóng theo kiểu phương Tây mà trong giai đoạn thế kỷ XIX triều đình nhà Nguyễn đã có thể dễ dàng tiến hành các hoạt động buôn bán ở nước ngoài. Tất nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng các chuyến tàu thương mại này chỉ phục vụ lợi ích cho triều đình bởi thời điểm nửa đầu thế kỉ XIX, triều Nguyễn quy định tất cả người Việt không được phép tự do dong thuyền đi buôn bán ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, triều Nguyễn còn sử dụng các loại thuyền bọc đồng hạng lớn trong các hoạt động ngoại giao quan trọng khác. Trong giai đoạn từ năm 1790 – 1802, Nguyễn Ánh đã tổ chức đưa người bị nạn Trung Quốc về nước bằng thuyền và cử một phái đoàn sang Trung Hoa xin tấn phong từ Hoàng đế nhà Thanh đã đi bằng đường biển chứ không phải đi qua biên giới trên đất liền ở phía Bắc như đã từng xảy ra trong nhiều thế kỷ trước. Dưới triều Minh Mạng, triều đình cũng sử dụng các thuyền bọc đồng cỡ lớn trong các chuyến đi công cán nước ngoài. Theo vua Minh Mạng, các chuyến đi đó không chỉ hoàn toàn vì mục đích thương mại mà còn là nhằm để tranh thủ cơ hội cho Việt Nam nắm bắt thông tin ở khu vực cũng như tiếp cận và học tập các thành tựu khoa học - kỹ thuật khác của phương Tây. Các hoạt động đưa người bị nạn nước ngoài về nước bằng thuyền, tuần tiễu thường xuyên trên biển cũng được tiến hành thường xuyên nhờ các thành tựu trong việc áp dụng thành công tri thức khoa học – kĩ thuật phương Tây trong ngành đóng tàu thuyền. Có thể khẳng định rằng, khoa học - kỹ thuật quân sự phương Tây với sức mạnh và tính đại diện của nền văn minh công nghiệp khi xâm nhập vào Việt Nam đã làm cho xã hội Việt Nam bị ảnh hưởng và biến động mạnh trên hầu hết các phương diện, từ nhận thức tư tưởng đến nội tại tình hình khoa học - kỹ thuật bản địa và sự tác động đến các lĩnh vực khác như kinh tế, xã hội, ngoại giao. Chính điều đó đã tạo tiền đề chuẩn bị bước đầu cho việc tiếp nhận văn minh phương Tây trong giai đoạn sau này.

4. Kết luận

Sự biến chuyển của tình hình thế giới và khu vực cùng với sự vận động nội tại đã chi phối và trở thành nhân tố quyết định dẫn đến quá trình du nhập các tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự châu Âu vào Việt Nam. Đến đầu thế kỉ XIX, quá trình tiếp nhận tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự đã phát triển một cách chủ động. Quá trình này diễn ra trong bối cảnh xã hội Việt Nam vẫn trong nền tảng của một nền khoa học - kỹ thuật quân sự truyền thống, phần nhiều các thành tựu trong số đó chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa rất sâu sắc. Quá trình các tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự mới đến từ phương Tây du nhập vào Việt Nam không những không bị đào thải, triệt tiêu mà nó được dung hòa, tiếp biến với các tri thức khoa học, kỹ thuật bản địa một cách sáng tạo. Hay nói một cách khác, quá trình đó đã bổ sung những nhược điểm và bổ trợ thêm những ưu điểm của các tri thức khoa học, kỹ thuật truyền thống, đồng thời bổ sung mới và du nhập thêm các tri thức khoa học, kỹ thuật mà người Việt chưa có.
Bên cạnh những mặt tích cực, quá trình tiếp thu các tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự mới đến từ phương Tây cũng tạo ra những hạn chế và hệ quả không mong muốn. Mục tiêu du nhập các tri thức khoa học, kỹ thuật phương Tây của nhà Nguyễn chứa đựng nhiều yếu tố thực dụng, chủ yếu phục vụ cho lợi ích của triều đình cũng như mang nặng tư tưởng đảm bảo an ninh quốc gia. Phạm vi tiếp nhận các yếu tố quân sự kiểu phương Tây cũng chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp, chủ yếu đối với tầng lớp thống trị, không được phổ biến rộng rãi trong quần chúng nhân dân và cũng chỉ diễn ra ở những không gian nhỏ, mang nặng tính phòng thủ như kinh đô, vùng biên viễn, vùng duyên hải.
Mặt khác, đánh giá thái độ của triều đình nhà Nguyễn trong quá trình du nhập khoa học - kỹ thuật quân sự phương Tây vào Việt Nam thì nhìn chung các vị vua đầu triều Nguyễn đều thực thi chính sách không nhất quán trong việc tiếp nhận các tri thức này. Thái độ vừa mong muốn tiếp nhận các tri thức nhưng lại vừa e dè trong quan hệ, tiếp xúc với người phương Tây để bảo vệ ý thức hệ chính thể Nho giáo đã dẫn dến những hành xử đôi khi thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, gây nên những ảnh hưởng tiêu cực. Đứng trước bối cảnh phức tạp của thế giới và khu vực, các vua nhà Nguyễn đã không đủ thời gian, điều kiện, cơ sở xã hội và quyết tâm tiếp nhận các giá trị mới mà thời đại đem lại. Tuy nhiên, cũng không thể hoàn toàn phủ nhận vai trò của triều đình trong việc tiếp nhận các tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự trong thế kỷ này. Đây chính là tiền đề, nền tảng tạo ra tâm thế ứng đối và việc thích ứng, thích nghi với các tri thức khoa học - kỹ thuật quân sự cao hơn trong các giai đoạn tiếp theo.