Sự tích hình thành sắc tộc Kinh (Kinh ethnic group)
Chịu ảnh hưởng mang tính chi phối, dẫn đạo của CNDT (nationalism) - và cũng không hiểu một cách khoa học về Chủ nghĩa này, người Kinh...
Chịu ảnh hưởng mang tính chi phối, dẫn đạo của CNDT (nationalism) - và cũng không hiểu một cách khoa học về Chủ nghĩa này, người Kinh sáng tạo ra tiến trình 4000 năm lịch sử. Lịch sử các tộc người tại châu thổ sông Hồng đã được quy về Kinh.
Sắc tộc này nói thứ ngôn ngữ mà được học giới cho rằng là Vietic - nhánh Đông của ngữ chi Mon - Khmer. Trước đó có một số quan điểm cho rằng Kinh nói ngữ hệ Hán Tạng, một số ít hơn cho rằng Kinh nói ngữ hệ Tai - Kadai.
Cũng phải nói rõ ràng rằng chiểu theo các tiêu chí về dân tộc (nation), sắc tộc (ethnic) Kinh là một sắc tộc trong dân tộc Việt Nam hoặc ta có thể mở rộng thành Kinh ethnic group là bởi Kinh tự bản thân mang trong đó rất nhiều sắc tộc đã bị Kinh hóa.
Những bóng tối mịt mù
Chịu ảnh hưởng mang tính chi phối, dẫn đạo của CNDT (nationalism) - và cũng không hiểu một cách khoa học về Chủ nghĩa này, người Kinh định hướng ra tiến trình 4000 năm lịch sử. Quá trình hình thành các tộc người tại Việt Nam đã được quy về Kinh.
Hệ quả là ta có chuỗi tiến trình lịch sử - văn hóa của người Kinh như sau: Hòa Bình - Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn - Bắc thuộc - Đại Việt - Việt Nam.
Cá biệt có những người đẩy lên tới 20 ngàn năm (từ thời văn hóa Hạ Long, Hòa Bình). Một số người khác cho rằng người Kinh hay Việt tộc là chủ nhân của Lương Chử văn hóa (hơn 4000 năm trước).
Tuy nhiên gen người Hòa Bình, gen người Phùng Nguyên không phải là gen Kinh. Gen của người Lương Chử cũng không phải gen Kinh Việt hiện đại.
Các chỉ dấu về văn hóa Đông Sơn bao gồm cả các danh xưng như Phù Đạo, Lạc (Lạc hầu, Lạc tướng, Lạc Vương), Bố Chính, Mị Nương... trỏ về Tai - Kadai nhiều hơn là trỏ về ngữ chi Vietic.
Các chỉ dấu về kinh tế nông nghiệp lúa nước, cấu trúc nhà cửa (nhà sàn) cho thấy cư dân Đông Sơn thiên về Tai - Kadai hơn là Vietic nương rẫy.
Các chỉ dấu về khảo cổ học cho thấy cư dân Đông Sơn - sông Hồng có sự hiện diện của tệp người từ Thanh Hóa kéo ra, từ Ngô Việt kéo xuống, từ Điền và cả từ Thục.
Chỉ dấu về di truyền học cho thấy người Tai Kadai đã tiến xuống tới tận Núi Nấp Thanh Hóa. Gen người Việt Nam thời đại đồ Đồng, Tai Kadai chiếm vai trò chủ đạo.
Về dữ kiện lịch sử: Cực kỳ oái oăm là ở chỗ, các ghi chép Hán Đường về nhóm cư dân Vietic lại rất hiếm hoi (hoặc có thể do tôi chưa đọc được). Có chăng chỉ có một chút ghi chép về Cửu Chân với Nhâm Diên trị lý. Ở đây, Hán gặp nhóm người đốt nương, bắn thú với đầu mũi tên bằng xương, săn bắt trăn, hươu nai... Cuộc cạnh tranh sinh tồn tại vùng Giao Châu (Annam) lại là cuộc cạnh tranh giữa Lí - Lão (Kam - Tai) chứ tuyệt nhiên không thấy bóng dáng Vietic đâu cả.
Truy vết Vietic trong thời đại Đông Sơn, Hán Đường thật sự là gian khổ. Đúng kiểu "sừng thỏ, lông rùa". Mờ mịt như “mò trăng đáy nước, cột gió đầu cây". Những người nói tiếng Vietic ít được nhắc tới có lẽ do họ không có xung đột với Hán – Đường và cũng ít tạo ra những dấu ấn văn hóa sâu sắc chăng?
Tuy nhiên, chí ít ta cũng biết được rằng có một nhóm cư dân như vậy thật sự tồn tại. Họ ở đâu đó quãng vùng núi Nam sông Hồng, khu vực Thanh Nghệ, kéo xuống đến Quảng Bình, một ít ở Trung Lào.
Họ đã sớm tiếp xúc Hán thông qua việc Hán bảo thủ cảng biển vùng Thanh Nghệ trên con đường thương mại biển Đông. Việc xuất hiện các từ gốc Hán như “Đăng”, “Gươm” trong nhóm người Chứt củng cố thêm giả thuyết này. Các ghi chép của người Trung Quốc về châu Đường Lâm, châu Phúc Lộc (Hà Tĩnh) cũng cho thấy đây là địa bàn của người có phong tục giống với người ở Cửu Chân.
Thông qua việc bị (được) Hán cai trị, qua quan hệ kinh tế, hôn phối, phần đa họ đã Hán hóa đến nỗi sau này Nguyễn triều tự xưng là Hán nhân, gọi dân Kinh là Hán nhân. John Phan cho rằng đó là Vietic siêu Hán Hóa. Keith Taylor cho rằng đây là khu vực văn hóa Trại.
Hậu quả của quá trình này sẽ còn di chứng rất sâu bền cho thế hệ đi sau tìm nguồn gốc người Kinh.
Theo phân vùng văn hóa (khu biệt văn hóa – xứ) ta lại có Kinh ở Trại và Kinh Lộ. Việc phân chia như vậy tạo thành nhát chém sâu sắc vào người Việt – nationalism – về tính thống nhất của quốc gia dân tộc.
Dailaian – Người ở Đại La proto Kinh Lộ
Thật ra thì chả có thuật ngữ nào là Dailaian cả. Đó là khái niệm do tôi tự đặt ra cho nhóm cư dân sống tại Đại La từ khi Cao Biền xây đắp đến lúc Lý Tổ thiên đô, tôi cho rằng nhóm cư dân này là Proto Kinh Lộ, tức là gốc đầu tiên của sắc tộc Kinh (Kinh ethnic group).
Cuộc chiến Nam Chiếu và Man với Đại Đường (860 – 866), theo chính sử thì đã cuốn đi (chết, bắt, phiêu tán) khoảng 200 ngàn tới 250 ngàn người. Lưu ý là năm 807 cả Giao Châu chỉ có khoảng 40,5k hộ mà Đường có thể đánh thuế được. Có khá nhiều Li hộ chỉ phải thu số thuế bằng ½ số thuế mà công dân Đại Đường đế quốc phải đóng.
Trọng điểm của cuộc chiến Nam Chiếu và Man với Đại Đường là khu vực thành Giao Chỉ, khu vực Phong Châu. Nam Chiếu trong các năm 860 – 863 hai lần hạ thành Giao Chỉ đã bắt giết mất khoảng 15 vạn người.
Hệ quả là cư dân châu thổ sông Hồng gần như đã trống trơn. Lớp cư dân mới được thay thế vào. Họ là Đường nhân theo tiếng gọi Cao Biền mà tới. Lớp cư dân này đã nhanh chóng lấp đầy chỗ trống mà Hán Đường type 1 hay Li, Lao đã bỏ lại.
Trong “Lược sử cư dân thời Tiền Đại Việt”, Nguyễn Thị Xuân cho biết: “dân số ở vùng đồng bằng sông Hồng (Giao Chỉ) tăng ba lần, một phần lớn là do sự gia tăng của dân di cư từ phương Bắc”.
Sách Lĩnh ngoại đại đáp chép rằng: dân số Giao Châu hết sức đông đúc, nhưng người bản xứ rất ít mà quá nửa trong số đó là từ Quảng Đông, Quảng Châu”. Khu vực Đại Lai – hạ châu thổ sông Hồng vẫ lưu giữ cốt cách Hán Annam trong phong tục, tập quán (đặc biệt lễ tết, cưới xin), âm vực. Đặc biệt sau này ta còn chứng kiến sự trỗi dậy của người xứ Đông khi đám học trò mặt trắng muốn thay đổi phong tục theo cấu trúc nhà Minh.
Trong dòng di cư theo hấp lực Đại La có Lý, tức là gia tộc của Lý Tổ người sau này sẽ khai sáng Thăng Long. Có những gia tộc, thương nhân, nhà quyền quý ở đất Mân – sau này được Lý triều đặc biệt trọng đãi. Quá nửa số sứ quân tại Châu thổ sông Hồng là những ông Hán Annam (hay Tầu dạt), họ Khúc ở Hồng Châu cũng là nguyên cả bộ khúc từ bản thổ Đại Đường di cư sang.
Đại La nhanh chóng bành trướng thế lực kinh tế. Họ suýt thì hất văng thế lực Trại (Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ). Sau này, triều đình Hoa Lư (Lê Hoàn) đã phải phái tới 5 vị hoàng tử trấn thủ quanh khu vực Đại La và đưa Lý Công Uẩn về Hoa Lư làm con rể.
Người từ phương bắc di cư xuống, chiếm hữu thành thị, cảng biển, ven các con lộ, vùng cận kinh thành thế cho nên mới gọi là Kinh Lộ (京路). Lớp người ấy tuyệt nhiên không phải là Tai, cũng chẳng phái là Vietic quen với núi rừng. Chắc chắn đó phải là cộng động Hán Annam những người mà sau này đã mở rộng hệ thống đê điều, quai đê lấn biển, buôn bán và trị thủy.
Không có Đại La thì làm gì ra có kinh thành Thăng Long và tất nhiên chẳng có Kinh (京) nốt. Như vậy thì cái Kinh Lộ hay proto Kinh chính là Hán Annam vậy. Gọi nôm na là Tầu dạt cho dễ hiểu.
Một vùng Giao và mấy phong tục lạ đời
Đại La hình thành, sau đó là Thăng Long, nhưng thời Lý Trần, Kinh chưa bành trướng được nhiều. Đó như tòa thành Hán nhân giữa thế giới Đông Nam Á. Trên vùng Lô Thao vẫn còn “Tục tạp Nhiễm Bàng kiêm Bặc Bắc”. Tại Trường Châu vẫn còn “Phong tục Liêu Di như thái cổ”. Không xa kinh thành lắm vẫn có thôn Bà Già của người Cham (Cham tù binh được Đại Việt cho nhận bộ khúc – người cùng xóm làng – lập lại làng xóm theo tên gọi gốc).
Bất giác, tại Thượng Châu thổ, chỗ là thành Đại La – Thăng Long hóa ra vùng Giao. Tòa thành này nằm trong những dòng chảy đan xen giữa Hán Annam, Tai, Vietic siêu Hán hóa. Và chắc rằng trong hành trình bắc phạt của hai họ Dương, Ngô những chiến binh xứ Trại cũng đem theo ra không ít gia quyến và “cắm sào” định cư lại.
Hậu quả của Giao là đến tận thời Lý, Trần vẫn có cảnh phu nhân đa tình, đang đêm mở cửa cho trai lạ vào phòng làm cái việc mà ai cũng biết. Nhà vua biết tình thế ấy cũng chỉ cám cảnh mà ra một cái chiếu chỉ vuốt đuôi đại khái: Bắt thông dâm phải bắt tận giường, lúc nó đang hành sự. Thế thì người trai bị đánh chết.
Nhưng mà bà vợ lại không bị gì.
Còn nhỡ nó chạy mất thì đành phải thôi, ông chủ khéo lại chả ngậm ngùi nuôi con người? Lại có mấy chuyện thác thân đầu thai sinh ra Càn Đức, Dương Hoán. Khéo lại tình nghi là từ những việc như thế chăng?
Dư lại xứ Đông vốn là vùng đất mới của Châu thổ, đất trũng lắm đầm lầy. Đất ấy cần một động lực mới những người giỏi trị thủy đắp đê, những người vừa giỏi hải hành lại thiện nghề nông. Ấy là khối dân Ngô Việt ngữ. Tống diệt vong, người Tống di cư xuống An Nam (Đại Việt) ngày càng nhiều, họ cập bến xứ Đông (chưa kể lớp người di cư từ thời Ngũ đại thập quốc).
Với vốn văn minh sẵn có họ nhanh chóng dấy lên nền văn hiến Nho học. Có lẽ không hề đương nhiên mà sau 1279 giới nho sinh tham chính lại bùng phát mạnh như vậy. Từ Phạm Sư Mạnh, Đoàn Nhữ Hải, Nguyễn Phi Khanh thậm chí là cả Chu Văn An cũng tình nghi là dòng di cư mới tới với Đại Việt.
Lại là Vietic và sao Kinh là Vietic? Giả thiết từ giữ kiện lịch sử
Xã hội Đại Việt thời Lý Trần với những Hán Annam đắp nền và là cốt lõi làm nên Kinh Lộ (tức là Dailaian). Nhưng đó là một xã hội đa nguyên ít nhất về mặt ngôn ngữ. Ở đó mọi thứ tiếng đều có thể vận hành như nhau. John Phan có cho rằng đó là vùng Giao.
Nhưng mọi thứ không bình yên mãi thế. Đại Ngu mất nước, họ Hồ bị bắt. Năm 1428, tập đoàn Trại dưới sự thống lãnh của họ Lê (mà nguyên ủy mấy đời vẫn còn dấu tích du canh du cư) đã kéo ra Thăng Long, phát Đại Cáo Bình Ngô.
Họ đã tàn sát thành Xương Giang năm vạn người – Có chiến thắng nào mà không đầy máu? Họ đem những người Ngô, người lấy chồng vợ Ngô làm “nô lệ nhà nước”, số phận khắc nghiệt này còn dành cho cả người Lão, người Cham. Chiếu chỉ vua ban bắt con cháu những người ấy phải ra trình diện.
Và có ông Ngô – Việt ngữ nào đọc Đại Cáo mà không tim đập chân run? Sợ đến độ mồ cha sống dậy?
Đòn thứ 2 mà nhà Lê nhắm vào những ông Hán Annam, triệt tiêu việc đa ngôn ngữ tại Châu thổ sông Hồng là chiếu chỉ cấm nói Ngô ngữ, Lạo ngữ vì lý loạn phong tục. Kèm theo đó là sắc chỉ bắt những lang đạo, thủ lãnh Tai – Kadai và các tộc khác không được vào vùng Kinh thành.
Đòn thứ 3 mang tính truyền thông chính trị cao cấp ấy là việc Hoàng đế Hồng Đức lập Hội Tao Đàn nhị thập bát tú. Giờ đây mấy ông Hán Annam, hoặc người Kinh Lộ thảy đều sẽ làm thơ Quốc Âm kiểu người Trại.
Tập đoàn Trại (mà tôi ngờ rằng những người Vietic siêu Hán hóa - tức là Hán đến mất cả mầu gốc Vietic Nam Á) thống trị châu thổ sông Hồng họ đem theo mấy vạn ưu binh (sau này thành Kiêu Binh) chưa kể tới vợ con họ hàng; gia tộc quan chức, sau này còn là Nho sĩ xứ Nghệ.
400 năm lớp trước lớp sau Thanh – Nghệ kéo ra sông Hồng đời đời là quý tộc, đời đời là Ưu binh. Hán Annam phần bỏ trốn phần thành nô lệ nhà nước, phần tuân phục những ông chủ mới.
Đến giờ vẫn đúng, người Thanh Nghệ ra Hà Nội coi đó như … Khu kinh tế mới vậy.
Có lẽ 400 năm dưới sự pháp luật hà khắc về mặt ngôn ngữ của nhà Lê (sau này là Lê Trung Hưng), bị tổn thất qua việc Mạc cố dành lại quyền lực Kinh Lộ, mọi sự đã đổi khác. Người Kinh Lộ gốc Hán Annam đã thành Vietic mà sự đời trớ trêu Trại lại tự gọi mình là Kinh.
Han Annam oái oăm thay khi thịnh vượng thì đắp Đại La thành, hiệu xưng Thăng Long, dựng Đại Việt quốc. Nam xâm lăng Chiêm Thành, bắc vượt biên đánh Tống. Lúc mạt vận thì thành nô lệ, bị cấm nói tiếng của mình và vọc vạch làm thơ Vietic để hải lòng người chủ mới.
Rồi đó, đến thời Hiện đại trên đất Lao, Li tức là Phong Châu (Tục tạp Nhiễm Bàng kiêm Bặc Bắc) bỗng dưng lại có… Quốc tổ. Một ký ức Tân tạo nhanh chóng loan truyền và người Kinh thảy đều hốt nhiên, mặc định nhận ra mình bỗng có một ông Tổ.
Tự hào lắm thay!


Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này