Sự sụp đổ và hồi sinh của dân tộc Israel (Phần 2)
3. Sự Tuyệt Diệt Của Vương Quốc Samaria: ...
PHẦN HAI: KHÓI LỬA VÀ ĐIÊU TÀN
3. Sự Tuyệt Diệt Của Vương Quốc Samaria:
Dưới sức ép cực lớn từ bên ngoài của Assyria, tình hình chính trị của Samaria bắt đầu có dấu hiệu mục ruỗng với những cuộc đảo chính cung đình liên tiếp xảy ra. Năm 745 TCN, Salum đã giết vị vua cuối cùng của nhà Jehu để lên ngôi, nhưng ông bị Menahem ám sát và chiếm ngôi vào cùng năm. Sau đó, con của Menahem là vua Pekahiah lại bị Pekah tiếp vị vào năm 736 TCN. Cờ đến tay phải phất, vua Pekah (737 TCN – 732 TCN) đã cố gắng chứng tỏ cho Assyria thấy Samaria không phải là một con giun muốn xéo thế nào thì xéo. Năm 738 TCN, các vua Syria, Samaria, Philistine, Ammon, Moab, Edom và các bộ tộc Arabia đã thành lập liên minh Syro - Ephraimite, mà hai nhà lãnh đạo chính của nó là vua Rezin của Damascus và vua Pekah của Samaria, nhằm chống lại đế chế Assyria. Dù bị ép buộc nhưng vua Ahaz của Judah đã từ chối tham gia liên minh này.
Vào năm 734 TCN, hoàng đế Tiglath - Pileser III đã đập tan liên minh đó, chiếm Damascus, giết chết vua Rezin và sát nhập Syrya vào hệ thống các tỉnh của đế chế. Hoàng đế Tiglath - Pileser III còn chinh phục cả đồng bằng Philistine và hành quân xa mãi đến tận “suối của Ai Cập”. Tại Samaria, sau khi liên minh Syro - Ephraimite tan rã, các thành phần ủng hộ Assyria đã hạ bệ vua Pekah và lập Hoshea (732 TCN – 724 TCN), một người dễ bị uốn nắn, lên làm vua. Ở phía bắc, miền Galilee của Samaria bị biến thành một tỉnh của đế chế Assyria khiến vương quốc Samaria chỉ còn lại một vùng nhỏ ở khu vực đồi núi trung tâm, lúc đó cũng đang bị vây trong vòng ba năm.
Vương quốc Samaria sau chiến bại toàn diện trước Assyria đã lay lắt kéo dài nền tự trị mong manh của nó thêm một thời gian ngắn nữa. Đến năm 721 TCN, Samaria bị thôn tính hoàn toàn bởi hoàng đế Sargon II (721 BC – 705 TCN) của Assyria. Trong một bi kí, hoàng đế Sargon II tuyên bố là đã chiếm Samaria trong năm đầu tiên ông làm hoàng đế và đã đưa 27000 dân Israel đi đày. Sau đó, ông đã cho xây lại thành Samaria to rộng hơn trước rồi đưa những dân tộc ở các miền đất khác trong đế chế vào đó, đồng thời tái tổ chức hệ thống cai trị trong cả vùng dưới quyền một viên tổng trấn Assyria. Đám dân ô hợp tứ xứ mà hoàng đế Sargon II cho quy tập ở Samaria sẽ là một chướng ngại lớn cho nỗ lực phục hưng vương quốc của người Israel sau này.
4. Lạc Lối Trong Bàn Cờ Của Các Bá Cường:
Vào khoảng thế kỉ 9 TCN, bàn cờ địa chính trị trong khu vực có nhiều chuyển biến. Đầu tiên là việc đế chế Assyria rơi vào một cơn suy thoái nhẹ do những vấn đề về kinh tế và quản trị đế chế cũng như sự đe dọa của vương quốc Urartu ở mặt bắc. Cùng với đó là sự tái xuất hiện của người Babylon, với đà phát triển mạnh về dân số và sức mạnh, sẵn sàng thế vào lổ hổng quyền lực đang xuất hiện ở Lưỡng Hà. Dù đã suy yếu nhiều, nhưng với bản chất hiếu chiến, đế chế Assyria vẫn khuấy động những cuộc can qua rút cuộc sẽ dìm chết chính họ.
Năm 705 TCN, hoàng đế Sargon II băng hà, đế chế Assyria chìm trong khói lửa nổi loạn. Phía đông, tỉnh Babylon nổi dậy, còn ở phía tây đế chế Assyria lại nổi lên một liên minh chống đối của các vua Judah, Phoenicia, Philisstine, và vùng bên kia sông Jordan. Liên minh này bị ngôn sứ Isaiah phê phán là hành động khinh suất và liều lĩnh. Tuy nhiên, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, bất chấp lời khuyến cáo của ngôn sứ Isaiah, vua Hezekiah của Judah vẫn gia nhập liên minh, thậm chí còn trở thành kẻ cầm đầu liên minh. Vua Hezekiah sai người qua Ai Cập để thương thảo hiệp ước, rồi tất bật lo tăng cường các công trình phòng thủ cho kinh thành Jerusalem: xây thêm các pháo đài, đào kênh Siloam để dẫn nước từ suối Gihon vào trong thành.
Năm 701 TCN, sau khi xử lý xong cuộc bạo loạn của tỉnh Babylon ở miền đông, hoàng đế Sennacherib (704 TCN - 681 TCN) quay sang phía tây. Tiến quân từ phía bắc xuống dọc theo con đường ven Địa Trung Hải – Via Maris, ông đè bẹp cuộc nổi loạn của các vương quốc Tyre, Byblos, Ascalon. Sau đó, bằng một loạt chiến thắng áp đảo, ông khuất phục các vương quốc dọc theo Vương Lộ là Ammon, Moab và Edom. Sau đó, hoàng đế Sennacherib tiến lên bao vây 46 thành có tường lũy bao quanh và vô số các làng mạc không có tường bao quanh của Judah, cùng bắt đi 200150 người làm chiến lợi phẩm, theo một bi kí của Assyria ghi lại. Ông đã đích thân dẫn quân bao vây Jerusalem và nhốt vua Hezekiah tại đó “như một con chim trong lồng”. Khi biết tin Ai Cập không thể tới tương trợ và thấy mình lâm vào thế phải chiến đấu hoàn toàn đơn độc với đoàn quân đông đảo của Assyria, biết rằng nước xa không thể cứu được lửa gần, vua Hezekiah đã dự tính đầu hàng hoàng đế Sennacherib. Trong thời điểm tưởng chừng như mọi hi vọng đã tiêu tan, thì ngôn sứ Isaiah lại loan báo về việc Thiên Chúa sẽ ra tay cứu thoát con dân của Người. Quả vậy, Jerusalem bị vây nhưng được giải thoát vào phút cuối cùng bởi những nguyên nhân mà cho đến nay vẫn còn chìm trong màn sương bí ẩn. Điều này nếu căn cứ vào bản văn Kinh Thánh “Chính đêm ấy, thiên sứ của ĐỨC CHÚA ra đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Assyria. Ban sáng, khi người ta thức dậy, thì kìa, toàn là thây ma xác chết” phần lớn quân đội Assyria đã bị thiên sứ của Thiên Chúa tiêu diệt, nhưng trong sử biên của Assyria không hề nhắc đến sự kiện nào như vậy. Một vài học giả ước đoán rằng đã có một thiên tai hay ôn dịch nào đó trong đội quân Assyria đang vây thành, hoặc hoàng đế Sennacherib phải rút quân vì ở miền đông đế chế có một sự kiện đặc biệt cần đến sự can thiệp trực tiếp của ông: Marduk - apla - iddina II lại tự tuyên bố là vua Babylon. Với việc hoàng đế Sennacherib bị các con trai của ông ta giết chết trong lúc ông đang tế lễ trong đền thờ thần Nimrud năm 681 TCN, đế chế Assyria bắt đầu xuống dốc nhanh chóng. Quả thật, chiến đấu trên hai mặt trận không bao giờ là điều dễ dàng. Bộ máy chiến tranh ngỡ là bất khả chiến bại của Napoleon đã kiệt sức do thất bại của Đại
Quân ở Mặt trận chống Nga phía đông và sự đau đớn mà “Cái ung bướu Tây Ban Nha” gây ra ở phía nam. Còn người Đức, dù cực kì thiện chiến và tàn nhẫn, cũng không sao khắc phục được trận thế Hai Mặt Trận trong hai cuộc thế chiến.
Tiếp tục bị đánh bại một lần nữa tại Ai Cập vào năm 660 TCN, đế chế Assyria bắt đầu tan rã. Sau khi hoàng đế Ashurbanipal băng hà năm 627 TCN, đế chế Assyria rơi vào hỗn loạn do một loạt các cuộc nội chiến. Cuối cùng, dưới sự lãnh đạo của Nabopolassar, Babylon và các lãnh thổ phía đông đã lợi dụng tình trạng gần như vô chính phủ của đế chế Assyria để tự giải phóng. Đáng ra phải tận dụng thời cơ toàn cục đang biến động mạnh để tự tạo lập vị thế mới thuận lợi cho mình, thế nhưng do một sai lầm trí mạng trong tính toán cán cân địa chính trị, Judah để mình mắc kẹt trong cuộc long tranh hổ đấu giữa Assyria và Babylon, và đã phải lãnh nhận những hậu quả khốc liệt.
Năm 609 TCN, Pharaoh Necho II (610 TCN - 595 TCN, thuộc triều đại thứ 21), một đồng minh của Assyria, đã đưa quân lên miền bắc hội sư với quân Assyria tại Carchemish, một địa điểm bờ tây bắc sông Euphrates, để chống lại Babylon. Nhưng vua Judah là Josiah (640 TCN – 609 TCN), vì một liên minh kí kết trước đó với Babylon, đã can dự vào chiến cuộc bằng cách đưa quân chặn đường Pharaoh Necho II tại Megiddo, và đã mất mạng tại chiến địa nổi danh này. Sự kiện này được tường thuật lại trong Kinh Thánh: “Vào thời vua Josiah, vua Ai Cập là Pharaoh Necho lên gặp vua Ashur bên bờ sông Euphrates. Vua Josiah
đi đón vua Necho, nhưng vua Necho giết vua Josiah ở Megiddo, khi vừa thấy vua này”. Tuy nhiên, sự tác động của vua Josiah cũng đã làm Ai Cập mất thăng bằng, và một cách gián tiếp đã góp phần vào chiến thắng của Babylon tại Carchemish năm 609 TCN. Nhưng quả thật, về phía người Israel, cái chết vô vị của một vị minh quân như Josiah sau này được nhìn nhận như là thảm họa mở đầu cho sự sụp đổ của Jerusalem và Judah. Quả là, trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết.
5. Sự Sụp Đổ Của Vương Quốc Judah:
Quan sát những động thái quân sự hướng thẳng về phía tây sau khi tận diệt Assyria của đế chế Babylon, Judah đã sực tỉnh để nhận ra gã đồng minh Babylon ngày nào của họ nay đã trở thành gã bạo chúa tham lam và tàn bạo mới của miền đất “Mảnh Trăng Màu Mỡ”, nhưng đã muộn. Hoàng đế Nabuchodonosor II (630 TCN - 562 TCN) tấn công Ai Cập vào năm 601 TCN nhưng không thể khuất phục được nó, chủ yếu là do một loạt các cuộc phá rối phía sau của Judah, Phoenicia và Aram. Trận chiến giữa hoàng đế Nabuchodonosor II và Ai Cập khiến cả hai bị tổn thất nặng nề. Vào năm 598 TCN, bất chấp sự ngăn cản của ngôn sứ Jeremias, vua Jehoiakim của Judah cho rằng trong hai cường quốc đang tranh chấp thì Ai Cập mạnh hơn, nên quyết định ngả theo Ai Cập. Đáng tiếc, đây lại là một sai lầm trí mạng khác của các vị vua Judah. Ngay trong chính năm đó, hoàng đế Nabuchodonosor II đã thân chinh tiến công Judah. Vua Jehoiakim băng hà khi Jerusalem đang bị bao vây, và con ông là Jehoiachin lên nối ngôi. Thành Jerusalem thất thủ vào tháng 3 năm 597 TCN, nhưng Đền Thờ vẫn chưa bị phá hủy.
Hoàng đế Nabuchodonosor II bắt được vua Jehoiachin, đem ông và hoàng tộc đi đày ở Babylon, đồng thời đặt Zedekiah lên ngôi vua. Không từ bỏ ý định thoát khỏi sự kiểm soát của Babylon, vua Zedekiah lại đưa Judah về phe với Ai Cập. Hoàng đế Naboukhodonosor II đã quyết định trả đũa quyết liệt và nhanh chóng, ông cho bao vây Jerusalem vào ngày 15 – 1 – 587 TCN, và triệt hạ thành vào ngày 19 - 1 - 586 TCN. Vị tướng của Nabuchodonosor II là Nebudaradan đã cho quân bình địa hoàn toàn Jerusalem. Cuộc tàn sát kinh hoàng và man rợ của quân Babylon cùng khung cảnh khói lửa thê lương của thành đô Jerusalem đã đóng một dấu sắt cháy bỏng đầy đau đớn lên ký ức tập thể của người dân Judah. Bằng chứng từ khoa khảo cổ gợi ý rằng dân số của Judah thời đó đã giảm sút từ 250000 trong thế kỉ 8 TCN xuống còn chỉ khoảng một nửa sau sự sụp đổ của Jerusalem. Judah cố gắng khởi nghĩa giành lại nền độc lập vào năm 582 TCN, nhưng đã bị tướng Nebudaradan đè bẹp nhanh chóng.
Như vậy, hai vương quốc của người Israel đã sụp đổ hoàn toàn dưới sức ép quân sự khủng khiếp của các đế chế trong khu vực. Nhưng theo Kinh Thánh, sự thất bại của họ phải truy nguyên về những sự kiện thuộc chiều kích đức tin. Theo đó, họ bị lâm cảnh lầm than do đã bất chính trong đời sống và giả hình trong phụng tự. Họ bị tan hoang cửa nhà do đã phớt lờ các lề luật của ĐỨC CHÚA mà thẳng tay bóc lột bần dân trong xứ sở. Họ bị ngoại bang đánh bại do đã bỏ rơi ĐỨC CHÚA của họ để chạy theo các ngẫu tượng của các dân tộc lân cận, những thứ đã không thể cho họ một sự cứu giúp nào trong cơn bĩ cực. Biến cố hai vương quốc sụp đổ là một bài học không thể nào quên của dân tộc Israel. Thế nhưng, kì diệu thay, việc nghiền ngẫm những biến cố đau thương đó trong những năm tháng lưu đày tại Babylon, dưới sự trợ lực của ánh sáng đức tin do các ngôn sứ rao giảng, cuối cùng lại đưa đến sự hồi sinh đầy ngỡ ngàng của dân tộc Israel.
Science2vn
/science2vn
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất