Bể bơi bốn mùa ở Bursa.
Tóm tắt ngắn gọn đọc trong 2 phút.
Nguồn trong ảnh. Mình chỉ việt hóa thôi.
- Quyền riêng tư như chúng ta hiểu mới chỉ khoảng 150 năm tuổi
- Con người khao khát quyền được riêng tư từ bản năng sâu thẳm nhất. Tuy nhiên qua 3000 năm phát triển, các nền văn hóa luôn ưu tiên sự tiện nghi và giàu sang hơn sự riêng tư.
Phần II sẽ kể cho bạn nghe về chuyện xã hội hiện đại bắt nhân dân chọn giữa một cái chết tốn kém và một thế giới chẳng có tí riêng tư nào. Theo xu hướng của lịch sử, kết quả là chúng ta sẽ lại bỏ qua sự riêng tư cá nhân và quay lại với truyền thống.

Phần I:

Sự riêng tư cá nhân được phát triển trong 3.000 năm ra sao

Quyền riêng tư có thể là một điều bất thường
- Vinton Cerf, người đồng sáng tạo ra các giao thức Internet cho quân đội và là nhà điều hành Google.
Theo những gì mà Federal Trade Commission thu thập được vào năm 2013, chúng ta phải công nhận rằng Cerf đã đúng.
Quyền riêng tư (privacy) theo nghĩa thường được hiểu mới chỉ tồn tại trong 150 năm trở lại đây. Hầu hết mọi người sống trên đời đều chẳng có khái niệm về quyền riêng tư trong cộng đồng bé tí của họ. Chịch choạc, cho con bú, tắm rửa đều được làm công khai không có chút xấu hổ ngay trước mắt bạn bè và người thân.
Những bài học trong suốt 3000 năm qua dạy chúng ta rằng quyền riêng tư là thứ được ưu tiên thấp nhất. Loài người thường chọn giữa tiền bạc, địa vị và tiện nghi khi phải lựa chọn giữa chúng với sự riêng tư.

Đời sống bộ lạc ( 200.000 năm TCN đến 6.000 năm TCN)

rly n*gguh?
Làm gì có sự riêng tư nào ở đây, thời đại săn bắt hái lượm này trẻ con ngủ với bố mẹ, chung giường hoặc chung lều. Trẻ con xem người lớn "choạc" nhau. Ở quần đảo Trobriand, Malinowski được kể là cha mẹ chẳng  làm gì để cấm bọn trẻ con xem live sex. Họ chỉ  quát mắng mấy câu và bảo chúng nó lấy chăn mà che đầu." - Jared Diamond - UCLA.
Trong xã hội bộ lạc nguyên thủy, chỉ có một số rất ít nơi có quyền riêng tư. Một số dấu vết chỉ ra rằng loài người thích làm tình ở nơi vắng người. (9 trên 12 cộng đồng người xây nhà có phòng riêng thích làm tình trong nhà. Những nền văn hóa không có phòng riêng thì người ta thích làm chuyện đó ngoài trời.)

Tuy nhiên trong thực tế thì vấn đề sinh tồn còn quan trọng hơn nhiều so với sự riêng tư.  Ví dụ như các bộ lạc người Utku ở Bắc Mĩ cho rằng việc đòi không gian riêng là một điều vô cùng thô lỗ.
Gia đình người Inuit. Nguồn Wikipedia.
Việc bị bỏ rơi giữa hoang dã còn đáng sợ hơn việc mất đi sự riêng tư ~ nhà nhân chủng học Jean Briggs,  bị tẩy chay bởi một gia đình Utku cho anh ở nhờ, sau khi dám đi khám phá vùng đất hoang dã một mình.
Câu hỏi lớn: Nếu riêng tư không phải một chuẩn mực ngay từ đầu, thì nó xuất phát từ đâu? Hãy cùng bắt đầu với những thành phố đầu tiên trong lịch sử.

Các thành phố cổ đại (thế kỉ thứ 6 TCN - thế kỉ thứ 4 SCN)

Nhân dân La Mã tụ họp buôn chuyện với nhau trong WC công cộng. 
Giống như tổ tiên ở các bộ lạc, người Hy Lạp cũng thể hiện một chút gì đó về quyền riêng tư. Theo giáo sư Samantha Burke ở đại học Leicester, người Hy Lạp sử dụng tài năng về hình học của mình để tạo ra các ngôi nhà kín đáo nhưng vẫn tận dụng được tối đa nguồn sáng tự nhiên.
Sơ đồ tầm nhìn tối đa từ phố vào nhà.
However, Athenians penchant for solitude was not without its influential critics:
“For where men conceal their ways from one another in darkness rather than light, there no man will ever rightly gain either his due honour or office or the justice that is befitting” ~ Socrates (đoạn này khó quá không biết dịch thế nào cho hay. Đại khái la thằng nào thích dấm dúi trong bóng tối thì hèn hơn mấy thằng ngoài sáng.)
Ở Rome thì nhà nào giàu mới có vườn cây ngoài trời và nếu vường có các vật trang trí như viện bảo tàng thì còn giàu hơn nữa.  Tuy nhiên thì đám nhà giàu này cũng biết mình phải đánh đổi cái gì để trông có vẻ giàu.

"Những người giàu thường thích khoe của, không giấu giếm cái gì, ví dụ như các hoàng tử mở cửa cả phòng ngủ lẫn những lối đi bí mật, phơi bày những điều riêng tư nhất. ~ Trưởng lão Pliny, "The Natural History", circa năm 77 SCN.
Phần đông người dân La Mã sống ở các khu tập thể với tường mỏng đến mức nghe được mọi tiếng ồn. Trong cuốn sách "Một ngày ở La Mã cổ đại", Angela Alberto viết: "Thành Rome là một khu cắm trại khổng lồ."
Và, phải nhờ vào sự ủng hộ việc làm tình nơi công cộng cùng có ít , người ta càng có ít động lực biến nó thành một thứ cấm kị, 

Đầu thời kì Trung Cổ (thế kỉ 4 SCN - năm 1200 SCN): sự riêng tư biến thành cô độc


Những vị thánh của Thiên Chúa giáo đi tiên phong trong việc định nghĩa riêng tư thành ẩn cmn dật. Kinh Thánh tuyên truyền tư tưởng rằng chỉ cần một ý nghĩ về việc ác thôi, chưa cần tạo ra nó cũng gây hủy hoại đạo đức. Và điều này dẫn tới việc các tín đồ tự loại bỏ mình ra khỏi xã hội và tập trung vào việc trấn áp con quỷ dữ khỏi những cám dỗ của xã hội.
Giống như cá thiếu nước thì chết, những tu sĩ bộc lộ quá nhiều hay dành thời gian cho con người sẽ bị mất đi  sự thanh thản tâm hồn. Vậy hãy học theo loài cá hướng về biển cả, chúng ta phải nhanh chóng quay trở lại nơi mình ở ẩn, vì sợ rằng nếu trì hoãn quá lâu ở bên ngoài, chúng ta sẽ mất đi sự sáng suốt bên trong."
~ thánh Antony của Ai Cập.
Thiên hạ đồn rằng ở hòn đảo tu hành Nitria, một tu sĩ chết và 4 ngày sau người ta mới phát hiện ra. Các vị ấy ngồi cô độc trong các lều dựng bằng đá, được gọi là "lều Tổ ong".
Ảnh từ Wikipedia.
Ngay trước sự sụp đổ của La Mã cổ đại, loài người vẫn còn rất quê mùa.
Một bản vẽ nhà rông theo phong cách LOTR (được ưa chuộng trong khoảng 1000 năm) cho thấy người và gia súc ngủ chung một phòng, bởi vì cả căn nhà chỉ có một phòng duy nhất.
Ảnh của Georges Duby.
Thời kì cuối Trung Cổ, đầu Phục Hưng (1300-1600) - Nền móng đầu tiên của quyền riêng tư cá nhân ra đời.

Sự riêng tư - thành tựu tối cao của thời kì Phục Hưng" - Sử gia Peter Smith.
Vào năm 1215, Công Đồng Lateran IV tuyên bố rằng việc xưng tội là quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người. Cú chốt đầy sức mạnh này của nhà thờ đã mở rộng thêm khái niệm về đạo đức cá nhân trên hầu hết lãnh thổ châu Âu.
Việc điều chỉnh các hành vi đạo đức đã chuyển từ ngoài xã hội vào một không gian riên tư hơn, nơi chẳng liên quan tí gì đến cộng đồng ngoài kia."

Thật may cho nhà thờ là một vài công nghệ mới đã giúp việc suy tư trong yên lặng trở nên bớt tốn kém hơn: Kĩ thuật in của Guttenberg.

Sau chiếu cáo của Đại Công đồng, việc đọc sách của mỗi cá nhân phát triển cực nhanh. Nhà thơ, họa sĩ và nhà thần học được tiếp thêm sức mạnh trong hành trình rời bỏ thế giới thực tại để trái tim mỗi người được gần hơn với Chúa.

Cho tới tận thế kỉ thứ 18, việc đọc sách nơi công cộng vẫn là một thói quen, một truyền thống cho tới khi toàn thể mọi người đều có sách. Việc đọc, học và nghiên cứu vẫn là một thứ xa xỉ ngay cả với tầng lớp tinh hoa trong nhiều thế kỉ.
Đọc cho nhau nghe.

Kiến trúc của sự riêng tư

Giường cá nhân là một phát minh hiện đại. Được coi như một trong các vật dụng đắt đỏ nhất trong nhà, một chiếc giường lớn trở thành nơi để giao lưu, tụ họp, nơi mà khách, chủ nhà và cả người hầu ngủ chung với nhau.

Nhưng lối sống bẩn thỉu của thị dân châu Âu đã nhanh chóng phải trả giá bằng các bệnh dịch,  xóa sổ rất nhiều thành phố đông đúc. Chỉ riêng Cái chết Đen đã lấy đi sinh mạng của 100 triệu người.

Chính nhờ các đại dịch mà họ đã thay đổi thói quen tắm vệ sinh, đặc biệt là trong các bệnh viện nơi mà các bệnh nhận phải nằm cạnh nhau ở cùng một phòng.

Trẻ con, cả trai lẫn gái nằm chung một cái giường mà các bệnh nhân mắc dịch khác đã chết trên đó, bởi vì hồi đó người ta chưa có tiêu chuẩn cách li, cũng chẳng có giường riêng cho trẻ. 6,7,8,9,10 đứa trẻ nằm so le với nhau trên độc một cái giường" ~ theo ghi chép của một y tá."

Mặc dù sau đó giường riêng trong bệnh viện trở thành "mốt", việc làm tình vẫn chẳng có được chút riêng tư nào. Chứng kiến lễ động phòng hoa chúc trong các đám cưới là điều thông thường với những lí do thiêng liêng:
Cặp vợ chồng son trèo lên giường trước cặp mắt của gia đình và người thân, và ngày sau đó họ vào chiêm ngưỡng tấm nệm trải giường như một sự chứng minh hai người đã động phòng" ~ Georges Duby.
Rất ít người có nhu cầu đòi sự riêng tư khi ngủ bởi vì giường riêng không phải vấn đề duy nhất. Hầu hết các căn nhà chỉ có mỗi một phòng. Các nhà sử học kiến trúc cho rằng việc xây tường ngăn bên trong ngôi nhà là nhu cầu sưởi ấm chứ không phải để tách biệt.
Dưới đây là một cảnh Hollywood mô phỏng các cặp đôi ngủ với ngau quanh một bếp lửa trong phim Beowulf (trans: Beowulf viết đúng chưa nhỉ). Đó là một minh chứng cho kiểu kiến trúc một sảnh lớn trước khi tường và vách ngăn ra đời vào khoảng thế kỉ 13.
Để việc truyền nhiệt có hiệu quả mà không làm người trong nhà ngạt thở, các kiến trúc dạng ống khói đã được xây xung quanh bếp lửa trung tâm để đưa khói ra ngoài. Bên dưới là hình ảnh một căn nhà "đang trong quá trình chuyển giao" vào thế kỉ 16 khi thiết kế lò sưởi giáp lưng đã phá vỡ kiểu nhà một sảnh lớn truyền thống.
Nguồn: Housing Culture.
"Một thay đổi sâu sắc trong bản thiết kế các không gian sống" ~ sử gia Sarti Raffaella, khi nói về ống khói.

Thời kì tiền cách mạng công nghiệp (1600-1840) - Khi nhà trở nên riêng tư, mặc dù nó chưa riêng tư cho lắm


Cuốn nhật kí đầu tiên được ghi lại trong sử sách được viết bởi Quý bà Margaret Hoby người sống vào thế kỉ thứ 17. Vào 4/2/1600, bà viết rằng bà lui "về nkà riêg, nơy Tôy cầu nguyện và viết j` đó cho chính tâm tư của mjnk`" 
(nguyên văn: she writes that she retired “to my Closit, wher I praid and Writt some thinge for mine owne priuat Conscience’s”.)
Hồng Y giáo chủ Albrecht xứ Branderburg trong khu nghiên cứu của mình.
Ở thời kì Phục Hưng, rất ít người giàu sống xa nhà. Kể cả với những người đủ tiền mua nhà riêng, họ vẫn thích sống chung với người hầu và gia đình.
Là phục vụ cho quý ngài Marquis Francesco Albergarti trong thời gian 11 năm, có thể nói rằng tôi chỉ nhìn thấy 3 đến 4 lần thấy ngài ấy rời khỏi giường với một con trym đang "chào cờ" hoàn cmn hảo ~ 1751, người hầu của Albergati Capacelli làm chứng trong một phiên toàn rằng ông chủ của anh ta không bị bệnh tiểu tiện không tự chủ - lí do li hôn của người vợ.
Phần tiếp theo: Luật pháp ra đời và cái chết của sự riêng tư cá nhân. Dài quá để mai dịch nốt.
Bài dịch từ Medium, các bạn có thể bấm vào để đọc bài gốc.