Sử Dark: cuộc diệt chủng Miomori
Tóm tắt về cuộc diệt chủng Moriori - góc khuất lịch sử bi thảm của người Maori nói riêng và New Zealand nói chung
Chào mọi người, bọn em xin góp bài đầu tiên cho cộng đồng. Nội dung thì có chăng hơi xa lạ với nhiều người, vả lại nguồn tìm hiểu cũng không phong phú gì lắm ngoài nghe Podcast và Youtube, nên không tránh khỏi lỗ hổng. Có gì nhờ mọi người bồi thêm
1/ Musket War (chiến tranh hỏa mai)
Nên có một chút lược qua về cuộc chiến lớn hơn này trước khi vào vấn đề chính.
Musket War (cuộc chiến hỏa mai) là cách mà nhiều nhà sử học dùng để gọi giai đoạn thay đổi đột biến giữa các bộ lạc người Maori ở New Zealand đầu thế kỷ 19. Điều thú vị là cuộc chiến này có nhiều tên gọi khác.
Đúng ra phải gọi chúng là "cuộc chiến súng trường" do lúc này hỏa mai thực sự đã lỗi thời. Và cũng nhiều nhà sử học khác có thể gọi là "cuộc chiến khoai tây". Nghe tên gọi kỳ lạ và phức tạp, nhưng thực ra nó đều quy về "cải tiến đột biến về công nghệ và kỹ thuật, làm thay đổi đột ngột cuộc sống và mối quan hệ giữa các bộ lạc bản địa".
Nếu trước đây, các bộ lạc New Zealand canh tác với những loại khoai lang nhỏ và năng suất kém, chiến đấu với nhau bằng các loại vũ khí lạc hậu,... thì sự thâm nhập của khoai tây, khoai lang Mỹ và súng trường đã khiến dân số các bộ lạc tăng nhanh, lương thực dự trữ cho một chuyến đi dư dả hơn, và dĩ nhiên quan trọng nhất - vũ khí mạnh hơn. Tất cả những điều đó khiến cho các bộ lạc ngày càng hăng máu hơn, lao vào nhau chiến đấu khốc liệt hơn.
Cuối cùng, nhiều bộ lạc nhỏ yếu của người Maori đã không thể chống lại bánh xe lịch sử, bị tiêu diệt hoàn toàn, hoặc may mắn hơn - phải di dời tới nơi ở mới - nơi những bộ lạc nguyên thủy hơn đang cư ngụ.
2/ Sơ lược về người Moriori ở quần đảo Chatham
Có một quần đảo tên là Chatham, cách đất liền New Zealand 800km. Nghe xa xôi vậy nhưng thực ra không phải trở ngại quá lớn, thậm chí là còn dễ với những cư dân bản địa Polynesia.
Ở trên quần đảo đó, có một bộ lạc dân tộc bản địa tên là Moriori. Những dân tộc này được mô tả trong ghi chép của người châu Âu, là có nước da sẫm hơn và lối sống nguyên thủy, lạc hậu hơn rất nhiều so với cư dân Maori trên các đảo chính của New Zealand đương thời. Khí hậu của quần đảo Chatham cũng được mô tả là không thể trồng trọt các loại cây như trên các đảo chính.
Tình trạng tài nguyên và điều kiện sống hạn chế đã khiến người Moriori phải thực thi nhiều biện pháp đôi khi là cực đoan để kiềm chế dân số. Theo các nguồn tài liệu tìm hiểu, nó bao gồm luật cấm đánh nhau, cấm gi.ết hại và ăn th.it đồng loại - những hận thù thường được giải quyết bằng cách làm chảy máu đối thủ mà thôi. Ngoài ra, nhiều bé trai cũng được thi.ến khi còn rất trẻ.
Những điều luật đấy được người Moriori truyền miệng nhiều đời, gọi là "Luật Nunuku-whenua". Chẳng hạn một số đoạn trích của luật này có nói rằng:
...khi người ta tức giận và cảm thấy rằng họ có thể đánh người khác trong cơn tức giận, họ có thể làm điều này, nhưng chỉ bằng một cây gậy không dày hơn ngón tay cái và không dài hơn một cánh tay. Cuộc chiến kết thúc khi da bị rách hoặc xuất hiện một giọt máu, khi đó mọi người nên coi như danh dự của mình đã được thỏa mãn...
...từ nay trở đi và mãi mãi, cầu mong không bao giờ có chiến tranh! Có thể bụng của bạn sẽ thối rữa vào ngày bạn dám không vâng lời!
Ai biết được rằng, những điều đó khiến người Moriori chịu một số phận bi thảm!
3/ Số phận bi thảm của người Moriori
Trong cuộc Musket War đề cập ở phần 1, có 2 bộ lạc Maori thất thế đã buộc phải chạy khỏi quê hương - đó là bộ lạc Ngati-Mutunga và Ngati-Tama.
Sự việc bắt đầu vào ngày 19/11/1835, đợt chiến binh đầu tiên gồm 500 người Maori đi theo một tàu của Anh, đã đổ bộ lên quần đảo Chatham. Người Moriori vốn tuân thủ lối sống bất bạo động suốt hàng trăm năm, không có ý định chống cự, và tự biến bản thân mình thành nạn nhân của một cuộc tấn công tàn bạo chưa từng nghĩ tới. Đáng buồn là nhiều thanh niên Moriori đã đề xuất bãi bỏ luật Bất bạo động để chống lại, nhưng các trưởng lão Moriori đã từ chối.
Sau khi dễ dàng đánh bại mọi sự kháng cự yếu ớt của người Moriori, người Maori đã tiến hành tàn sá.t có hệ thống một bộ phận dân số Moriori để đe dọa tinh thần họ. Không dừng lại ở đó, họ còn bắt phần lớn cư dân Moriori làm nô l.ệ, ngăn cấm sự kết hôn giữa người Moriori với nhau (người Moriori chỉ được kết hôn với người Maori). Và nhiều khi, người Maori còn bắt người Moriori nhục mạ các bức tượng và địa điểm linh thiêng của người Moriori, khiến nhiều người Moriori phải tự s.át vì nhục nhã và tuyệt vọng ("kongenge")
Cho tới khi cuộc "diệt chủng" này được chính quyền thuộc địa châu Âu ở New Zealand biết tới và ngăn chặn vào năm 1862, con số người Moriori bản địa sống sót chỉ còn có... 101 người. Trong khi con số ban đầu của người Moriori theo các tài liệu có khoảng 2.000 người, thuộc 9 bộ lạc
4/ Tình trạng hiện tại
Sau khoảng thời gian đó, tới những năm 1860s, chính quyền thuộc địa ở New Zealand mới ra lệnh người Maori giải phóng người Moriori bản địa khỏi chế độ nô l.ệ. Nhưng đồng thời, chính quyền cũng công nhận "quyền bản địa" và "sở hữu đất đai" cho người Maori trên quần đảo Chatham, nơi cha ông họ xâm chiếm.
Tới thời điểm đó, người Moriori thuần chủng gần như không còn. Người Moriori thuần chủng cuối cùng tên là Tommy Solomon được xác nhận qua đời năm 1933. Tất cả những "người Moriori" còn lại là những người sinh ra từ sự hôn nhân ép buộc giữa người Maori và người Moriori sau chinh phục.
Cộng đồng những người đó hiện nay khoảng 700 người, nhưng hầu hết đã sống trên các đảo lớn của New Zealand. Ngày nay họ vẫn có những nỗ lực đấu tranh nhằm đòi lại "quyền bản địa" vốn dĩ của tổ tiên họ với quần đảo Chatham, đã được chính quyền trao cho người Maori do chưa hiểu rõ tình hình lịch sử. Điều này đôi khi dẫn đến những tranh cãi, gây rối trong quốc hội New Zealand, chủ yếu đến từ những đại biểu người Maori phản đối việc tước đi những quyền lợi của họ - thực chất là những thứ họ lấy đi của các bộ lạc khác!
Như gần đây có 1 video viral về một bà nghị sĩ New Zealand người Maori la hét, xé giấy trong Quốc hội!
--------Hết-------
Nguyễn Vũ Thành Long
Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này