Năm 1997, giới khoa học thế giới chấn động khi nghe thông tin loài voọc chà vá chân xám tái xuất hiện ở Việt Nam. Bởi loài voọc này được cho là đã tuyệt chủng.
En 1997, Les scientifiques du monde ont choqué lorsqu’ils entendent que Les Langurs à pattes gris étaient réapparus au Vietnam. Car on pense qu’ils sont déjà exterminés. 
Những con vọoc
Những con vọoc

Voọc hồi sinh - La ressurection des Vọoc

Là một người tham gia nhóm nghiên cứu voọc chà vá chân xám ở Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh (Gia Lai) từ 16 năm trước, anh Nguyễn Ái Tâm, kể: “Ngày xưa, rừng Kon Ka Kinh là vương quốc của voọc chà vá chân xám. Khi đó, vào rừng là có thể gặp chúng. Nhưng do tình trạng săn bắn vô tội vạ, số lượng đàn voọc quý ngày càng ít đi. Những năm cuối thế kỷ 20, đi vào bất cứ nhà nào trong các ngôi làng dưới chân núi Kon Ka Kinh, cũng có thể thấy những bộ xương thú treo trong nhà, nhìn qua là nhận ra những chiếc sọ của voọc chà vá chân xám.
M. Nguyễn Ái Tâm, un participant du groupe de la recherche des langurs à pattes gris dans le parc national Kon Ka Kinh (Gia Lai) depuis 16 ans, raconte: “ À l'époque, la forêt Kon Ka Kinh est déjà le royaume des langurs à pattes gris. À ce moment-là, on peut les y rencontrer. Mais à cause de la chasse aveugle, le nombre des langurs précieux est de plus en plus en baisse. Pendant les années à la fin du 20 siècle, si on visite n’importe quelle famille dans les villages au pied du mont Kon Ka Kinh, on pourrait y trouver les os des animaux. Par un coup d’oeil, ça reconnu les crânes des langurs à pieds gris
La chasse aveugle: săn bắn bừa bãi
La crâne: sọ
Rất may mắn là năm 2003, rừng Kon Ka Kinh đã được Chính phủ quyết định đóng cửa bảo tồn, và trở thành vườn quốc gia. Khi đó, vào rừng đã không còn thấy bóng dáng của voọc chà vá chân xám, cư tưởng chúng đã tuyệt chủng rồi.
Heureusement, en 2003, le Gouvernement a décidé de fermer la forêt Kon Ka Kinh pour la préserver, elle devient un parc national. Alors, on ne trouve jamais les langurs à pieds gris, on pense qu’ils sont exterminés. 
Nhưng chỉ sau vài năm rừng Kon Ka Kinh trở thành vườn quốc gia, chúng tôi bất ngờ thấy chúng xuất hiện trở lại. Rồi vài năm sau nữa, bắt đầu bắt gặp hình ảnh những chú voọc con bấu chặt bụng mẹ, tập chuyền cành, hay những bà mẹ voọc đang mang thai, bụng lặc lè”.
Mais seulement quelques années après que la forêt de Kon Ka Kinh soit devenue un parc national, nous avons été très surprises de les revoir. Et après encore quelques années, nous avons trouvé des langurs bébés qui sont en train d’embrasser leurs mères, s’entraîner à mouver par les branches, ou les mères langurs qui ont un bébé dans le ventre.     
rừng quốc gia Kon Ka Kinh
rừng quốc gia Kon Ka Kinh
Một điều đáng mừng khác nữa khi rừng Kon Ka Kinh hồi sinh, đó là rất nhiều người dân bản xứ từ chỗ là “sát thủ” của thú rừng, nay trở thành người bảo vệ chúng.
Une autre bonne nouvelle de la forêt Kon Ka Kinh de la résurrection, de nombreux habitants de “tueurs” les animaux sauvages deviennent ses protecteurs.   
Anh Đinh Dương ở xã Đắc Jo Ta, huyện Mang Yang, là một người như thế. Theo lời anh Dương tâm sự, ngày xưa rừng chưa cấm nên việc vào rừng săn bắt là lẽ thường tình, ai cũng vậy. Đinh Dương theo dân làng, người nhà vào rừng săn thú từ nhỏ, nên không nhớ đã giết bao nhiêu con thú. Voọc chà vá chân xám là một trong số những loài bị giết nhiều nhất, vì dễ săn hơn các loài khác.
M. Đinh Dương à la commune dac Jo Ta, district Mang Yang est un gens comme ça. Selon sa confession, À l'époque, on n’interdit pas encore la chasse, donc c’est normal quand tout le monde tue les animaux. Đinh Dương a appris les villageois et sa famille, il est venu dans la forêt depuis qu’il est petit, ainsi qu’il ne rappelle qu’il a tué combien d’animaux. Le langur à pied gris est l’un des animaux qui est tué le plus, car c’est plus facile à chasser que les autres. 
Khi thú trong rừng bắt đầu cạn kiệt, cũng là lúc cánh cửa rừng khép lại, những người thợ săn hụt hẫng rời cây súng, cây cung săn. Thời gian đầu, nhiều thợ săn không quen với sự cấm đoán này, vẫn liều lĩnh băng rừng đi săn thú. Nhưng rồi có người đã bị bắt, bị phạt, và họ bắt đầu sợ, chùn bước. Điều quan trọng hơn cả vấn đề pháp luật, đó là họ nhận thức được rừng là máu thịt, nhưng nếu cứ vào rừng săn bắn, chặt cây như thế, thì một ngày không xa, con cháu họ sẽ chẳng biết rừng là gì, chẳng còn gì để dựa vào nữa.
Lorsque les animaux dans la forêt sont disparus, c’est aussi le moment où sa porte est fermée, les chasseurs sont ennuyés quand ils doivent quitter les pistolets et les arcs. D’abord, ils n’ont pas d’habitude avec cet interdit, donc ils continuent à parcourir imprudemment la forêt pour chasser les animaux. Mais il y a quelqu’un a été arrêté avec une punition, et ils commencent à avoir peur. Le plus important que la problème de la loi, c’est qu’on a compris que la forêt est une partie importante, si on vient à la forêt pour chasser et couper les arbres tous les jours, donc en un jour, ses enfants ne reconnaissent pas les forêts, rien de chose basé. 
Parcourir: băng qua
Imprudemment: liều lĩnh
Basé: dựa
Anh Dương nhận thức được những chân lý ấy từ nhóm người chẳng biết từ đâu đến, hàng ngày họ xuyên rừng, lội suối, chăm sóc từng con thú rừng bị thương. Rồi họ bảo, những con voọc anh đã từng bắn là loài thú rất quý hiếm, chỉ ở rừng Việt Nam mình mới có.
M. Dương a compris cette vérité qui vient des gens inconnus. Chaque jour, ils parcourent la forêt en traversant les rivières, ils soignent les animaux qui sont blessés. Et on dit que les langurs que Dương a chassé, ils se trouvent seulement au Vietnam. 
Vérité: chân lý
Những con vọoc yêu thương nhau
Những con vọoc yêu thương nhau
Chứng kiến những hình ảnh đó, lòng Dương lay động, rồi sau đó, anh quả quyết giao nộp súng săn cho xã, tình nguyện đi theo nhóm nghiên cứu để hỗ trợ họ. Sau mỗi chuyến đi trở về, anh lại kể hết những gì tận mắt thấy cho bà con nghe. Giờ đây, không còn ai vào rừng săn thú nữa, nhằm vào loài voọc quý hiếm thì lại càng không.
Grâce à ces images, Dương est tombé en émotion, et après, il a décidé de donner le pistolet à la comité et il a suivi volontairement la groupe de recherche pour l’aide. Après chaque excursion, il raconte au villageois tout ce qu’il a vu. Actuellement, personne ne vient à la forêt pour chasser, notamment les langurs.  
Giống Đinh Dương, anh Hjun, ở xã Đắk Tơ Ve, huyện Mang Yang cũng từng có quá khứ là một thợ săn lão luyện, thông thuộc Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh như lòng bàn tay. Sau khi được cán bộ vườn quốc gia và thành viên nhóm nghiên cứu chiêu mộ, huấn luyện đã trở thành một trong những tay “săn tin” voọc chà vá chân xám siêu đẳng. Chỉ cần nghe tiếng voọc hót, Hjun có thể phân biệt được tiếng con đực, con cái, độ tuổi voọc. Rồi anh có thể đếm âm thanh voọc hót để ước lượng đàn voọc có bao nhiêu con… mỗi khi vào rừng, chỉ cần nghe vài âm thanh lao xao trong các tán cây, dù không nhìn thấy, nhưng Hjun biết, đang có những cặp mắt dò xét của đàn voọc dõi theo mình.
Comme M. Dương, M. Hjun à la commune Dak To Ve, district Mang Yang a déjà une histoire d’un chasseur professionnel, il comprend bien le parc national Kon Ka Kinh. Après être recruté et entraîné par les chefs du parc et les membres du groupe de recherche, il devient l’un des journalistes extrêmes sur les langurs à pieds gris. Par seulement un chant, Hjun peut classer la voix du mâle ou de la femelle et son âge. Et il peut compter les chants pour estimer le nombre du groupe des langurs. Quand il vient dans la forêt, il entend juste la voix des feuilles quoiqu’il ne voit rien, mais il sait, il y a des yeux des langurs qui le suivent.
Một đặc điểm thú vị, không giống bất kỳ loài nào khác của voọc chà vá chân xám, được anh Nguyễn Ái Tâm chia sẻ, đó là chúng không bao giờ uống nước, nước cung cấp cho cơ thể được lấy từ các loại lá, trái cây chúng ăn. Do không uống nước nên chúng sống hoàn toàn trên cây, không xuống mặt đất bao giờ.
En particulier, pas comme les autres espèces. Selon M. Nguyen Ai Tam, les langurs ne boivent jamais de l’eau, ils en prennent seulement par les feuilles ou les fruits. Parce qu’ils ne boivent pas d’eau, ils vivent entièrement dans les arbres, sans jamais toucher le sol.  

Những tập tính thú vị - Les comportement intéressant

Gắn bó với nhóm nghiên cứu voọc chà vá chân xám từ năm 2006, thuộc nằm lòng các đặc điểm, tập tính sinh hoạt của loài voọc này, chị Nguyễn Thị Tịnh, thành viên nhóm cho biết: “Chà vá chân xám mới được phát hiện vào năm 1991, nhưng lúc đó, chúng chỉ được coi như một phân loài của chà vá chân đỏ (Pygathrix nemaeus). Đến năm 1997, nhà linh trưởng học người Đức Tilo Nadler mới có kết luận, khẳng định voọc chà vá chân xám là một loài riêng với tên khoa học là Pygathrix cinerea.
En liant avec le groupe recherche des langurs à pied gris depuis 2006, Mme Nguyen Thi Tinh, une membre, elle comprend mieux ses caractéristiques et ses comportements d’activité, a montré: “ Les langurs à pieds gris a été découverts vers 1991, mais à ce moment là, ils sont reconnus une espèce des langurs à pieds rouges ( Pygathrix nemaeus). Jusqu'en 1997, Tilo Nadler, un primatologue allemand a conclu et a affirmé que les langurs à pieds gris sont une autre espèce avec un nom scientifique Pygathrix cinerea.
Comportement: tập tính
Primatologue: nhà sinh vật học
Conclure: kết luận 
Voọc chà vá chân xám còn được người địa phương gọi là voọc ngũ sắc. Bởi "tấm áo" chúng khoác trên mình có tới 5 màu, chủ đạo là màu xám, xen trắng, đen, đỏ và cam. Trên đầu là chiếc mũ lông xám, viền đen trước trán. Khuôn mặt nổi bật với đôi mắt xếch lanh lợi và bộ râu quai nón dài, trắng rất đẹp, phía dưới là bộ vòng cổ màu cam, hung đỏ. Một bộ phận nổi bật khác trên cơ thể chúng chính là chiếc đuôi dài hơn thân, màu trắng, vô cùng đẹp mắt.
Grâce à “sa chemise” 5 couleurs, principalement le gris, alternant le blanc, le noir, le rouge et l'orange, le langur à pied gris est reconnu également le langur à 5 couleurs. Sur sa tête, c’est un chapeau de poil gris avec un border noir au front. Son visage est brillé avec les yeux malins et les barbes longs et blancs très beaux, au-dessous, c’est un collier orange et brun. Il a une autre partie, c’est une queue blanche plus longue que le corps très magnifique. 
Alternant: xen kẽ
Border: viền
Front: trán
Một cặp vọoc
Một cặp vọoc
Về tập tính sinh hoạt của voọc chà vá chân xám, chị Tịnh cho biết, chúng sống theo kiểu gia đình, hay còn gọi là đàn cơ sở. Mỗi đàn cơ sở có một con đực duy nhất cùng với 5 - 6 con cái trưởng thành và các con của chúng. Kiểu tổ chức tổ chức đàn như vậy được gọi là đàn đơn đực. Những con đực bị tách ra khỏi đàn cơ sở có thể sống cùng nhau hoặc sống đơn độc. Đôi khi có những đàn cơ sở nhập lại thành đàn lớn, từ 20 - 40 cá thể.
En termes des comportements d’activité des langurs à pieds gris, Mme Tinh montre qu’ils vivent en famille ou en groupe. Chaque groupe a un mâle unique avec 5-6 femelles adultes et ses enfants. C’est une organisation qui a seulement un mâle. Les mâles qui quittent le groupe peuvent vivre ensemble ou tout seul. Parfois, il y a des groupes sont intégrés et deviennent un grand groupe avec de 20-40 individus.     
Individu: cá thể 
Thức ăn ưa thích của voọc chà vá là lá non và quả xanh. Do lá non dễ tiêu hóa và chứa nhiều protein hơn lá già; còn quả chín chứa lượng đường rất dễ gây ra trong quá trình lên men.
Les langurs aiment bien les jeunes feuilles et les fruits verts parce qu’ils sont facilement à gérer avec de plusieurs protéines que les vieilles feuilles; et les fruits mûrs contiennent une grande quantité de sucre, ça fait une dilatation pendant la processus de fermentation. 
Dilatation: chướng bụng   
Khi di chuyển, voọc chà vá chân xám dùng cả 4 chi hoặc chỉ di chuyển bằng 2 chi trước, rất hiếm thấy chúng di chuyển bằng 2 chi sau. Động tác di chuyển bằng 4 chi hoặc dùng 2 chi trước để di chuyển từ cây này sang cây khác rất linh hoạt.
Quand ils font les mouvements, ils utilisent tous les 4 membres ou seulement 2 membres devant, c’est rare de trouver qu’ils marchent avec 2 membres arrière. Ses mouvements avec 4 membres ou 2 membres devant pour parcourir dans les arbres plus dynamiques. 
Một bầy vọoc
Một bầy vọoc
Voọc chà vá chân xám rất tinh khôn. Với đặc tính luôn ở trên cây cao, có con đầu đàn cảnh giới. Chúng có thể phát hiện ra mối nguy hiểm từ khoảng cách xa cả trăm mét. Cho nên, việc tiếp cận để ghi nhận thông tin về chúng không hề dễ dàng. Tuy nhiên, chúng lại là loài dễ bị tổn thương bởi tình trạng săn bắt, và chúng còn được gọi bằng 1 cái tên khác là “dấu đầu hở đuôi”. Khi phát hiện mối đe dọa, chúng thường không bỏ chạy xa mà leo lên các cành cây cao, rậm rạp để ẩn nấp. Nhưng do đuôi của loài này rất dài, lại có màu trắng, luôn buông thẳng nên rất dễ bị phát hiện.
Les langurs à pieds gris sont très intelligents. Grâce à sa vie toujours restée sur les arbres plus grands, le chef du groupe est toujours en attention. Ils peuvent trouver les dangers à une distance de centaine mètres. Donc, c’est pas facile de les toucher pour rechercher ses informations. Pourtant, ils sont une espèce vulnérable à cause de la chasse aveugle, et ils ont un autre nom “caché la tête mais montré la queue”. Quand ils trouvent les menaces, ils ne se sauvent pas mais ils remontent sur les grands arbres plus denses pour se cacher. Mais à cause d'une queue plus longue et blanche toujours retombée, ils sont très facilement à retrouver. 
Vulnérable: dễ bị tổn thương
Se sauver: chạy trốn
Kể từ khi được phát hiện là một loài mới, các nhà khoa học đã tiến hành điều tra vùng phân bố và số lượng quần thể chà vá chân xám ngoài tự nhiên. Kết quả cho thấy, loài linh trưởng này chỉ phân bố hẹp trên lãnh thổ Việt Nam ở khu vực Nam Trung bộ và Tây Nguyên (từ Quảng Nam đến Gia Lai), ngoài ra không khu vực nào khác trên thế giới có loài voọc này sinh sống.
Depuis leur découverte en tant que nouvelle espèce, les scientifiques ont recherché la répartition et la population du langur à pattes grises à l'état sauvage. Selon les rapports, cette espèce se trouve seulement dans la région Vietnam au sud et Tây Nguyên ( de Quang Nam à Gia Lai), de plus, Aucune autre région au monde où les langurs se trouvent. 
Répartition: phân bố