[Song ngữ] Đồng bào người Mông - Les peuples Mong
Dân tộc H’mông có trên 779.000 người, cư trú tập trung ở miền núi cao thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu,...
Dân tộc H’mông có trên 779.000 người, cư trú tập trung ở miền núi cao thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An. Người H’mông còn có những tên gọi khác như: Mẹo, Mèo, Miếu Ha, Mán Trắng. Các nhóm địa phương còn có tên riêng như: H’mông Trắng, H’mông Hoa, H’mông Đỏ, H’mông Đen, H’mông Xanh, Na Miẻo. Ngôn ngữ H’mông thuộc nhóm ngôn ngữ H’mông-Dao.
Il existe plus de 779.000 peuples Mong, ils habitent sur les hautes montagnes dans les provinces Ha Giang, Tuyen Quang, Lao Cai, Yen Bai, Lai Chau, Son La, Cao Bang, Nghe An. Les peuples Mong ont également d'autres noms comme: Mẹo, Mèo, Mieu Ha, Man Trang. Les groupes locaux ont des noms propres comme: Mong blanc, Mong fleur, Mong touge, Mong noir, Mong vert, Na Mieo. La langue Mong se classe dans le groupe des langues Mong - Dao.
Nguồn sống chính của người H’mông là nương rẫy, trồng ngô, theo phương thức du canh. Một vài nơi cũng làm lúa nước trên những thửa ruộng bậc thang. Cây lương thực chính là ngô và lúa nương, lúa mạch. Ngoài ra còn trồng cây ý dĩ, lạc, vừng, đậu, và trồng cây lanh lấy sợi dệt vải. Chiếc cày của người H’mông rất bền và rất có hiệu quả. Chăn nuôi chủ yếu là trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất hiệu quả cùng với chiếc gùi đan có hai quai. Các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên ngựa, đồ gỗ, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc.
La principe de vie des Mong est les terres cultivées, les champs de maïs selon l’agriculture nomade. Dans quelques régions, on fait de la riziculture sur les rizières en terrasse. Ses plantes alimentaires principales sont le maïs et du riz, du blé. De plus, on plante également des herbes à chapelets, des cacahuètes, des haricots et du lin pour faire le tissage. Le charrue des Mong est très durable et efficace. Ses principaux élevages principaux sont le buffle, le bœuf, le cochon, la poule et le cheval. Les chevaux à transporter sont efficaces avec un panier qui a 2 anses du panier. Les artisans sont la vannerie, le forgeron, la fabrication du selle, la fabrication d'objets en bois, des papiers d’offrandes, des bijoux en argent.
La principe de vie: nguồn sống
La terre cultivée: nương rẫy
L’agriculture nomade: du canh du cư
Les herbes à chapelet: cây ý dĩ
Le charrue: cái cày
L’anse: quai giỏ
La vannerie: nghề đan sọt
Bữa ăn của người H’mông thường có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm. Phụ nữ khéo làm các loại bánh từ bột ngô, gạo vào những ngày lễ tết. Người H’mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút điếu cày. Trước kia, nhiều người hút thuốc phiện.
Le repas des Mong a souvent de la farine de maïs Mèn Mén ou du riz. Les femmes font bien des gâteaux qui viennent de farine de maïs ou de riz pendant les fêtes. Les Mong ont l'habitude de prendre de l’alcool du maïs, l’alcool du riz, de fumer le pipe. Avant, il y a de nombreux gens qui prennent du drogue.
Trang phục của người H’mông đa dạng, khác nhau giữa các nhóm. Phụ nữ H’mông Trắng trồng lanh dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau, đội khăn rộng vành.
Il y a plusieurs types de vêtements des Mong, c’est différent entre des groupes. Les femmes Mong blanc fabriquent des tissus en lin, elles ont la robe blanche et la chemise qui a l’encolure en V, brodé les motifs sur les bras, le tablier en arrière, et elles portent un foulard traditionnel à large bordure.
Le tablier: cái yếm
Le foulard à large bordure: khăn rộng vành ( bordure là cái vành khăn)
Phụ nữ H’mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đáp vải màu và thêu. Họ để tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Les femmes Mong fleur portent une robe du couleur d’indigo brodée de motifs en cire d’abeille, une chemise à emmanchure fendue avec un tissu coloré et brodé sur l'épaule et la poitrine. On a des cheveux longs, texturé avec des cheveux faux
Cire d’abeille: sáp ong
Texturer: vấn tóc
Phụ nữ H’mông Đen mặc váy chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Người H’mông ở nhà trệt, ba gian, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.
Les Mong habitent dans les maisons par sol, 3 pièces, il y a 2-3 portes. À la pièce au milieu, on met l’autel.
Mỗi bản người H’mông thường có nhiều họ, trong đó có một, hai họ giữ vị trí chủ chốt. Người đứng đầu bản điều hành mọi công việc quan hệ trong bản. Dân mỗi bản tự nguyện tuân thủ các quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi... Người H’mông coi trọng dòng họ gồm những người cùng tổ tiên. Đặc trưng riêng của mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời, qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt người cùng họ không được lấy nhau.
Chaque village de Mong a souvent de nombreux noms de famille, parmi lesquels un ou deux familles a un rôle important. Le chef du village contrôle tous les travaux sociaux dans le village. Les gens dans chaque village doivent suivre des règles générales du village en volontaire sur les domaines de production, d'élevage…. Les Mong respectent les familles qui ont les mêmes ancêtres. Le point particulier de chaque famille est montré dans les cérémonies de culte des ancêtres, de fantômes à la porte, de la fée bienveillante….. Même si les gens non même clan de familles ne se connaissent, même s'ils sont séparés par des générations, par leurs échanges uniques, on peut se reconnaître son clan de famille. Ils ont la culture d'interdire le mariage des même clan de famille.
Trong hôn nhân, người H’mông tự do kén chọn bạn đời. Gia đình theo chế độ phụ hệ. Cô dâu qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai coi như đã thuộc vào dòng họ chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi. Phổ biến có tục cướp vợ.
En termes de mariage, Les Mong peuvent choisir la partenaire en libre. La famille est en patrilinéaire. L’épouse doit passer la cérémonie d’entrée dans la famille, quand elle passe la porte de la famille du mari, elle devient une partie de son clan de famille. Les couples ont un lien spécial, toujours ensemble quand ils viennent au marché, au champ, à la visite d’une autre famille. Il y a une culture populaire de mariage, c’est “tirer l’épouse”.
La cérémonie d’entrée dans la famille: lễ nhập môn
Trong nhà có nhiều nơi dành cho việc thờ cúng, như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp… Những người biết làm thuốc, thầy mo còn lập bàn thờ cúng vị tổ sư nghề của mình.
Il y a plusieurs places dans la maison pour le culte, comme la place de culte des ancêtres, des fantômes de la maison, des fantômes de la porte, des fantômes de la cuisine….. Les médecins, les magiciens peuvent établir l’autel de leurs ancêtres maîtres.
Tết truyền thống của người H’mông bắt đầu từ tháng 12 âm lịch. Ngày tết dân làng thường ném còn, chơi đu, thổi khèn, ca hát... tổ chức ở bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là mồng 5 tháng 5 âm lịch.
La fête du Têt traditionnel des Mong commence en décembre lunaire. Pendant le Têt, les villageois jouent le jeu de lancer de javelot, jeu de balancement, ils chantent et jouent les khèn, ça organisé dans une grande place au village. La deuxième fête plus grande est le 5 mai lunaire.
Jeu de lancer de javelot: ném còn
Jeu de balancement: chơi đu
Nhạc cụ người H’mông có nhiều loại khèn, đàn môi. Sau một ngày lao động, thanh niên dùng khèn, đàn môi gọi bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp cuộc sống, quê hương.
Les Mong ont de nombreux instruments comme Khèn, harmonica. Après une journée de travails, les jeunes jouent le khèn et le harmonica pour charmer les copines, en montrant la beauté de la vie, le pays natal
Le pays natal: quê hương
Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất