Người ta nói rằng, thành phố nhộn nhịp, tất bật và đông đúc. Chật chội là thế, nhưng đó không phải là nơi dành cho những kẻ cô đơn.
Một tâm hồn đơn độc thì cần thứ gì? Đơn giản chỉ là một ai đó để sẻ chia.
Nhưng nhìn quanh, chẳng một ai có đủ thời giờ để nhìn vào một đôi mắt, để lắng nghe từng cái chớp mắt vang vọng thanh âm từ sâu thẳm trong tâm hồn muốn lên tiếng. Những gì người ta thấy là những đường kẻ vụt qua, những cái liếc mắt vội rồi xa nhau .
Có lẽ thứ âm thanh duy nhất mà người ta nghe được, là tiếng gió, không phải rù rì như thủ thỉ vào tai, mà chỉ là những tiếng xoẹt thoăn thoắt như cái cách người ta cứ đuổi theo một thứ hư vô mộng đời. Chẳng còn có tiếng nói như rót mật vào tai nào nữa, chẳng còn tiếng hát nào cho đời nữa, vì ta chẳng thể lắng nghe.
Một khi đã lắng nghe, ta phải đứng lại.
Đứng lại để thấy, để nhìn cái thứ mình cần lắng nghe.
Đứng lại để hiểu được vì sao mình cần phải lắng nghe.
Đứng lại để ngẫm, mình đã lắng nghe được những gì.
Nhưng kìa, người ta cứ chạy, chạy và chạy mãi.
Người ta chạy để tìm thấy nhau, nhưng rồi lại vụt qua nhau và mất nhau mãi mãi. Người ta chạy để tìm thấy được mình, nhưng đã quên mất việc dừng lại và lắng nghe xem mình là ai, ai mới thực sự là mình đây? Người ta chạy để có được tất cả, có được vinh quang ở cái đích xa tít tắp tận phương trời, để rồi sau tất cả, ta còn lại gì ngoài hư vô? Vì đôi chân cứ mệt nhoài với những bước chạy vô tận, ta quên mất có một thứ nếu vẫn còn tiếp tục cất bước, ta sẽ chẳng bao giờ tìm được câu trả lời.
Đó là sự lắng nghe và thấu cảm.
Chẳng khó khi biết rằng những kẻ cô đơn rồi một lúc nào đó cũng sẽ chết dần chết mòn từ cái nhấn chìm khi người ta đạp lên nhau để cất bước, cách tốt nhất cólẽ vẫn là trốn đi.
Nhưng trốn đi đâu?
Thị trấn có vẻ là câu trả lời tốt nhất, như thị trấn Nockfell chẳng hạn.
Khi Mặt Trời ngả lưng, Nockfell như khoác lên mình một cảm giác yên ắng của riêng nó. Tiếng bãi cỏ sột soạt nhưng dịu lắm, có thể là do cái sắc xanh hiền hòa của nó làm ta cũng chợt cảm thấy tươi mát trong lòng. Bước trên bãi cỏ, hít một hơi thật sâu, là quá đủ để một ngày dài mệt nhoài cũng tan vào hư vô vì trong ta bây giờ chỉ còn những khoảng không dành cho cảm giác thư thái, nhẹ nhàng.
Có một cụ già trải mình bao nhiêu năm ở thị trấn Nockfell này, dường như trong câu chuyện của cụ sẽ luôn có những câu đại loại như “Nockfell chẳng khác gì một người mẹ hiền”, “Ta không nhìn Nockfell như một thị trấn, ta nhìn nó như một con người”,…
Có vẻ như đúng là vậy đấy.
Nockfell rất thanh bình, điều đó là không thể phủ nhận. Nhưng đến khi hoàng hôn buông xuống, nó mới khiến cho người khác cảm thấy như đây là nơi mình thuộc về.
 Ta khó mà không thấy bản thân mình khi ở thị trấn này. Dù trời đã tối, nhưng nó cứ sáng lung linh trên bầu trời đêm kia, hàng vạn ngôi sao lấp lánh thành những dải rạng ngời nhưng nhẹ nhàng của buổi chiều tối. Chúng san sát nhau, nhưng không lẫn đi đâu mất. Dù ở gần nhau, vẫn có thể thấy chúng có một không gian riêng biệt, rằng một cái gì đó mà chỉ có riêng từng ngôi sao mới có thể toát lên được.
Chúng nhấp nháy, những nhịp điệu của riêng mình.
Những cái chớp mắt thật nhanh.
Những cái nhìn chậm rãi.
Những cái thẫn thờ, đăm chiêu.
Mỗi ngôi sao đều có thể cho ta mường tượng đến nhiều điều. Có những vì sao chớp thật nhanh, có những vì sao cứ “ưng ửng” sáng, một thứ ánh sáng dịu dàng. Một không gian bao la là bầu trời, nhưng cứ như thật nhỏ bé khi phải chứa đựng hàng triệu ngôi sao lớn nhỏ kia, nhưng chiều không gian nhỏ bé mà chúng phải “nằm gọn mình”, “chen lấn” với biết bao nhiêu ngôi sao kia, lại trở nên mênh mông rộng lớn khi chúng có thể phát ra thứ ánh sáng mà chúng biết rằng chỉ một mình bản thân chúng có thể tạo được. Chúng cho người khác thấy được chúng là ai, bản thân chúng xinh đẹp như thế nào, nhưng đồng thời thứ ánh sáng đó lại đan vào nhau tạo thành những dải sáng mượt mà như lụa, đủ sáng để người ta không đánh mất mình trong màn đêm.
Thế đấy, Nockfell như có một đôi tay ân cần ôm lấy ta, sẽ luôn có những vì sao nhắc nhở, chỉ lối cho ta rằng ta đặc biệt và đẹp đẽ lắm. Và, ta thấy lòng tựa như quên mất hoang mang vì cuối cùng ta cũng có thể nhìn thấy rõ chính mình với những vầng sáng yên bình và quá đỗi hiền hòa kia.
Tuy vậy nhưng không gian rộng lớn thênh thang như thế, để ta thấy rõ được con người mình, hay là ta sẽ bị nhấn chìm vào sự cô độc và lạc lõng đây?
Những cơn gió hiu quạnh ở thị trấn Nockfell rất lạnh. Khi trời đã hoàn toàn tối, sẽ chẳng bao giờ là ý hay để đi ra ngoài vì từng đợt gió thổi sẽ làm cóng từng thớ thịt, như chà sát vào từng mô xương, có điều thứ ma sát đó không làm ta ấm lên, bù lại chỉ có từng đợt rét chua chát như đay nghiến từng tế bào.
Đã là gió, thứ duy nhất khiến người ta nghĩ về chúng chỉ là những thứ lạnh lùng. Ở thành phố có những cơn gió vô tình ở con người với con người, thì ở những thị trấn vùng ngoại ô chính là những cơn gió của thiên nhiên, thứ vài phút trước có thể ấm áp điềm đạm với ta cũng có thể trở nên lạnh giá đến nhường nào.
Người cô đơn thì ghét những thứ lạnh lẽo lắm.
Hoặc có lẽ là không, cảm giác cứ mông lung mãi trong đầu, như cái cách mà Travis đang cảm thấy vậy.
Trời đã tối, bao nhiêu người đã thoải mái nằm nghỉ ngơi ở nhà, trên chiếc giường êm ấm cùng căn phòng thân thương, hoặc có thể là đang trò chuyện với người nhà về một ngày đã qua, san sẻ biết bao nhiêu câu chuyện cho nhau bên tiếng cười rộn rã của gia đình thì Travis, nó lại đang thập thò, thấp thỏm trong chính căn nhà của mình.
Tám giờ, bố của nó sẽ lên phòng để kiểm tra xem nó đang làm gì, như cái cách mà một phụ huynh nghĩ rằng đó là điều tốt cho con mình nhưng với nó, chẳng khác gì cực hình cả.
Bây giờ là sáu giờ rưỡi, nó sẽ có gần một tiếng rưỡi để chạy đến tu viện Phelps và chạy về nhà, một thời gian không quá ít nhưng chưa bao giờ là đủ với nó. Vì biết rằng mình không có nhiều thời gian, Travis ngừng nghĩ ngợi nhiều, đóng chặt và khóa trái cửa nhốt mình trong phòng, nhìn bên ngoài cửa sổ, chỉ thấy một bầu im lặng, nó liền cẩn thận đẩy cửa sổ lên, như thể một tiếng động nhỏ cũng không được phép phát ra từ cử chỉ đó. Nó leo qua lan can nhà ông Benett bằng chiếc cầu thang gỗ có thể gấp lại nó đã bí mật giấu trong phòng. Lan can của ông Benett bị khuất so với cửa chính bên dưới nhà, nên nếu nó đi xuống từ phía đó sẽ hạn chế gây chú ý hơn là trực tiếp đi xuống từ cửa sổ phòng nó, nếu không thì nó sẽ chết với bố của nó mất. Qua được lan can của người hàng xóm nọ, nó từ từ đu trèo xuống và tiếp đất với một tiếng xoạt từ bãi cỏ, nghe chỉ như tiếng gió hiu hiu thổi qua nếu nghe từ nhà nó. Ngước nhìn lại căn nhà của mình lần nữa, khi đã thấy đủ an toàn, Travis đi lùi vài bước rồi bắt đầu tăng tốc dần, sau đó quay lưng chạy về phía tu viện Phelps.
Mắt hơi nhuốm mờ vì cái chạy thục mạng vừa rồi, dù tu viện chỉ cách nhà vài căn, Travis vẫn thở hồng hộc và mồ hôi có hơi tuôn ra, nhưng nó vẫn đủ tỉnh táo để nhìn thấy trước mặt mình chính là cánh cửa to tướng của tu viện, phải cao hơn nó ít nhất hai thân người. Trên cánh cửa là chằng chịt những ổ khóa trông rất to và nặng, trông cũ kĩ và đầy gỉ sét như thế chúng đã ăn hằn vào đôi cánh cửa này tự thuở nào vậy.
Travis móc từ trong túi ra một chiếc chìa khóa vô cùng nhỏ bé, trông chẳng có một tí nào tương đồng với cái đống sắt nặng nề kia cả, bởi vì nó sẽ không đi vào bằng cánh cửa này.
Nó đang lén lút. Và việc đi vào từ cổng chính vì cái lén lút này, dù có suy nghĩ bao nhiêu, cũng chẳng thấy phù hợp một chút nào. Hơn nữa, nó từng theo bố thức dậy vào sáng sớm để đến tu viện, nó nhìn thấy bố của mình lục đục xem từng chiếc từ cái chùm chìa khóa lằng nhằng kia, để tra cho đúng ổ. Đến khi tất cả ổ khóa đều rơi xuống đất, một tiếng két kéo dài và đay nghiến vào lỗ tai của Travis, tựa như muốn cào rách từng dây thần kinh của nó vậy.
Cái tiếng đó lớn và kinh khủng lắm, và sẽ càng kinh khủng hơn nữa nếu nó phát ra vào ban tối như thế này.
 Nhà không cách xa tu viện là bao, chính vì thế Travis luôn thấp thỏm sợ hãi rằng mọi cử chỉ, tiếng động mà nó phát ra ở đây đều có thể bị nghe thấy từ căn nhà của nó. Dù vậy, đây vẫn là việc mà nó cần phải làm, nếu không muốn chết trong sầu khuất.
Từng bước chân loạt xoạt không tiến về cổng chính, Travis vòng qua bên hông nhà thờ, nơi có thể dẫn đế khu rừng trên đồi. Ở đó có một cánh cửa gỗ nhỏ, chằng chịt những vết cắt, có thể là từ gió thổi hoặc cũng có thể là do một ai đó muốn phá hoại, Travis không quan tâm. Nhìn thoáng qua bầu trời sao, cảm giác như có gì đó cứ vang vọng, ong ong vào hư không, chính là khoảng trời đêm mênh mông của Nockfell, một thứ quá rộng lớn để rồi nó cứ luôn tự hỏi, liệu một ngày nó sẽ chết chìm vào cái khoảng không vô định đó hay không. Tiếng dế kêu, cứ như vang xa lẫn vào màn đêm, nhưng rồi lại tan biến mất, rồi xuất hiện, nhưng rồi chẳng khác nào bị pha lẫn vào hư không.
Một thứ nào đó cứ vọng đi mãi, như một câu hỏi chẳng từ nơi đâu, và sẽ chẳng có nơi đâu thật sự có một tiếng đáp lại cho câu hỏi ấy.
Travis tra chìa khóa vào chiếc ổ khóa trên cánh cửa gỗ. Đây mới là chiếc ổ khóa dành cho cái chìa khóa mà Travis đã giấu trong túi quần. Một tiếng kin kít nhỏ nhưng đã bị nuốt chửng vào cái rộng lớn của không gian, làm cho Travis cảm thấy an toàn để bước vào dù tay nó vẫn còn run run đầy sợ hãi.
Bước vào trong, tiếng bước chân của Travis như vang vọng khắp một vùng trời, từng tiếng động một đều như tiếng hú vút xa âm ỉ khắp tu viện Phelps. Nhưng Travis nghĩ rằng bản thân nó không thấy lo sợ như khi nó đứng trước cửa tu viện, rằng một tiếng động nhỏ nhất cũng có thể làm nó thót tim. Nó mơ màng nhìn quanh, đăm chiêu nhưng không nhìn về một thứ gì cả. Mặt đất tối đen như mực, từng bước chân một của nó đều như lún sâu vào nơi thăm thẳm.
Bóng tối là trường tồn, nó không quan tâm đến một ai, và bởi thế, nó không quan tâm dù cơ thể của Travis có cao to thế nào, cái màu đen ấy đều chỉ chực chờ để nuốt chửng lấy nó, lấy cái thân hình đang run lên từng hồi vì lo sợ. Xung quanh thật thênh thang ngút ngàn, nhưng cũng chỉ như cái nhắm mắt của Travis, rằng chúng chỉ có một màu đen hun hút. Trong một chốc quá nhanh, cả không gian chỉ thu chặt lại dưới đôi mắt đang nhắm tịt của Travis, một đôi mắt đang chờ đợi sự dẫn lối, hay là đang chần chừ với việc tìm lối thoát cho riêng mình?
Đôi vai hao mòn của Travis run rẩy. Quá nhiều, quá nhiều so với cơ thể của nó. Nó nhắm mắt lại, để có thể bình tâm và ngừng lo lắng về ông bố của nó. Tuy vậy nhưng từng tiếng thét và tiếng hú rền vang trong đầu, có lẽ là những thứ đã xảy ra lại tìm đến và dằn vặt nó, hoặc là những câu mệnh lệnh đầy lạnh lùng và chua chát bắt nó phải làm gì đó, thế nhưng tất cả những thứ quái quỷ ấy cứ đan và va vào nhau một cách đầy điên cuồng. Chúng cắn xé nhau, lột rách từng mảng da của nhau, như những con thú háu đói nhưng cũng như những con quỷ mang đầy thù hận, chỉ muốn găm chặt từng móng vuốt của mình vào con mồi và phanh nát thây của chúng ra. Những tiếng gầm rừ nuốt vào từng ngụm nước bọt, hay là để trôi đi biển máu và từng ngụm mủ vàng, là tiếng cười vang khàn rách cổ họng vì cơn thỏa mãn đầy tởm lợm của chúng. Từng tiếng ken két chà sát vào dây thần kinh, bộ não của Travis như muốn nổ tung, một mớ hỗn độn chạy tông vào nhau đến đổ máu, chúng như nghìn mảnh thủy tinh vỡ cứa vào tiềm thức của Travis, đè chết từng tiếng thét tự sâu trong lòng của nó, để rồi tất cả những gì có thể nghe, chỉ là tiếng hú hiu quạnh của hư không.
Xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào xì xào…
 Travis thở dốc, tiếng thở như đứt quãng, hừ hừ. Đôi bàn tay từ bao giờ đã đẫm mồ hôi bấu chặt vào đầu của chính nó. Mọi thứ hỗn loạn và nhanh dần, như một cơn thủy triều ào ạt hòa lẫn với hàng vạn tiếng hét la điên cuồng, thống khổ. Nhanh dần, nhanh dần, đến độ Travis không còn cảm thấy được hơi thở của mình nữa. Một tiếng hét thất thanh trong đầu nó nhưng tưởng chừng như có thể phá đổ cả cái tu viện này, máu như có thể rỉ ra đẫm bàn tay của nó.
 Nhưng, chẳng có gì cả.
 Mọi thứ im bặt.
Tiếng thét dừng lại đột ngột, im ắng hẳn đi. Travis mở trừng đôi mắt, trốn chạy khỏi cái bóng tối đang ăn mòn từng thớ thịt của nó. Nó không nghĩ mình có thể chạy trốn, vì xung quanh cũng chỉ là bóng đêm, nhưng chí ít một điều gì đó đã khiến cho nó mở mắt dậy, xóa đi những ảo ảnh vẫn còn thều thào trong tâm trí nó.
Là Nockfell.
Một hơi ấm lan nhẹ trên bầu mắt của Travis. Từ cửa sổ. Travis nhìn lên bầu kính đầy ắp những hoa văn. Như có một hơi ấm ôm nó vào lòng, chẳng phải thứ gì khác ngoài vòng tay của Nockfell. Những vì sao kia đan lại thành tấm lụa đào soi sáng nhẹ nhàng lên cơ thể của Travis, một tâm hồn bé nhỏ đang mệt nhoài. Nockfell biết Travis đang khóc, những giọt nước mắt vô hình bởi những cảm xúc nó phải ép buộc bản thân mình giấu đi, để rồi nó cứ phân vân tự hỏi bản thân mình đang cảm thấy như thế nào, khi nó còn chẳng nhận ra được câu trả lời đang bị chôn vùi sâu tận đáy lòng.
Khó có thể không nhìn thấy mình ở Nockfell.
Bầu trời đêm kia sáng lên những tia dịu hiền, qua khung cửa kính, để Travis nhìn thấy xung quanh, thấy được mình, thấy được đôi bàn tay đang run lẩy bẩy của chính nó.
Hơi thở dần ổn định, Travis tiến lên bục, nơi đang treo một dây thánh giá trắng toát, dù đã nhuốm màu của thời gian. Nó nắm lấy rồi quay về ghế ngồi, hít một hơi thật sâu và im lặng.
Đôi mắt của Travis lại một lần nữa tối đen, chỉ là lần này nó không còn nghe thấy gì nữa. Một khoảng trống vô tận để nó có thể đằm mình trong suy nghĩ. Từng ngón tay sẫm màu của nó đan lại với nhau, có cảm giác lạnh lẽo từ chuỗi dây thánh giá nhưng rồi lại phủ đầy hơi ấm con người khi nó chống đôi bàn tay lên khuôn mặt của chính nó, thở ra một hơi thật dài.
Travis mím môi, đôi bàn tay vẫn giữ chặt lấy cây thánh giá và che khuất đi đôi mắt, nó lẩm bẩm:
“Con chào Ngài, lần xưng tội gần đây nhất của con là vào ngày hôm qua. Thưa Ngài, con là kẻ có tội. Ngày hôm nay, con đã đấm vào mặt Sal Fisher một cái đau điếng. Con không biết nữa, con nghĩ rằng con sẽ bắt đầu với cậu ta bằng những câu chào hỏi như cách con đã tự nhủ với lòng mình vào sáng sớm khi con mở mắt dậy. Nhưng trái lại với những gì con đã chuẩn bị, mỗi khi nhìn vào đôi mắt xanh biếc của cậu ta, con lại cảm thấy ghê tởm chính mình. Tại sao con lại cảm thấy điều gì đó khi ở gần cậu ta? Tại sao trong giờ kiểm tra toán lúc ấy, cái thân hình nhỏ bé đó luôn kéo đôi mắt của con hướng về? Con chẳng khác nào một thằng đồng bóng dơ bẩn, đúng không Ngài? Con căm hận chính mình, và con căm hận cậu ta. Mỗi giây phút con đối mặt với cậu ta, hàng vạn câu hỏi cứ xoay vòng trong đầu con, rằng cảm giác này là như thế nào? Con nghĩ, trước khi cậu ta kịp nhuốm bẩn con bởi những cảm xúc đó, con đã tự vấy bẩn chính mình. Tay con đã dính máu, những tia máu từ kẻ con chẳng biết rằng liệu cậu ta có cho con một câu trả lời chính đáng từ những cảm xúc mà con dành cho cậu ta hay không. Chúa ơi, con sợ lắm! Ngài có thể đáp lại những mòn mỏi nghĩ suy của con không? Liệu, Thiên Đàng vẫn sẽ sáng lên những bậc thang dẫn bước con chứ?…”
Xung quanh Travis sáng lên, nhưng lại mờ và mông lung đi. Đôi mắt của Travis, một đôi mắt tưởng chừng như xấu xí, với vết bầm vẫn còn in hằn chẳng phai đầy xấu hổ, nhưng nó ánh lên một tia ngây thơ lắm. Đó là đôi đồng tử của một thiên thần, đầy ngây ngô và trong sạch và sợ hãi những cạm bẫy vây quanh. Dù con ngươi của nó có đen thẫm cỡ nào, nó vẫn sáng lên một sự trong suốt, long lanh như ứ đọng những giọt sương nhưng đầy hao mòn, thống khổ. Travis nhíu mày, cố ép nước mắt chảy ra nhưng không phải, hai hàng nước mắt của nó đã lăn dài ửng lên hơi ấm trên gò má của nó tự lúc nào, xung quanh chỉ là những tia mờ mờ ảo ảo sau màn sương trên khóe mắt, với bầu trời đầy sao của thị trấn Nockfell phả vào, tu viện Phelps bây giờ tựa như đang có một thiên sứ đang lạc lối, quá đỗi trong sáng nhưng đã bị bao nhiêu mùi đời vùi dập.
Hàng mi của Travis nặng trĩu. Một mớ bồng bông lại bắt đầu dấy lên trong nó. Lau sơ đi hàng nước mắt, nó nhìn quanh tu viện. Một không gian mênh mông, như trái tim của nó vậy. Nó luôn nghe thấy một giọng nói, nhỏ bé, thủ thỉ một điều gì đó. Nhưng đôi khi nó quên mất, đó không phải là tiếng thì thầm, đó là những tiếng gào thét tự đáy lòng, gào thật lớn để mong có một ai đó nghe thấy và thấu hiểu nó. Mà, kết quả cũng chỉ như tu viện Phelps lúc này đây, chẳng có một ai, ngoại trừ chính nó. Đôi khi thấm mệt và tuyệt vọng, giọng nói ấy không còn vang lên nữa, chỉ là tiếng hú trong hư vô vọng về.
Travis có riêng một không gian rộng lớn để thấy mình là ai, bởi vì nó luôn một mình. Nó có hẳn một khuôn viên tu viện thênh thang để vang vọng tiếng nói của nó, nhưng bởi vì nó chỉ có một mình, những điều đó có còn là nghĩa lý gì đâu?
Đau khổ làm sao, người ta sợ đánh mất mình ở chốn bộn bề, rộn rã. Nhưng ở đây, một tâm hồn thấy rõ chính mình, thế mà lại chẳng có một ai để san sẻ cùng. Travis thấy bản thân của nó chạy, chạy trốn mãi khỏi cảm giác cô độc, một đường chạy dài và vô tận, mà đích đến ở đằng kia kìa, một thứ hư không. Nó chừa trống rất nhiều chỗ trong trái tim của nó, để có một ai đó, hoặc nhiều người có thể lắp đầy, rót những mật ngọt làm ấm cho một linh hồn chờ đợi đến mòn mỏi. Vậy mà, cuối cùng thứ đầy ắp đến ứ nghẹn lồng ngực của nó, chỉ là cảm giác trống trải và đơn độc. Đôi khi, nó muốn đánh mất mình, để ít nhất được hòa vào dòng người vội vã kia, vì ít nhất người ta còn va vào nhau, còn có thể liếc những đôi mắt nhìn nhau dù là một chút, còn có cái ấm áp từ cơ thể va chạm vào nhau. Nó thì có gì cơ chứ? Có những lúc, nó cảm giác như không gian này chỉ là những thứ mà nó vẽ lên, bởi thậm chí nó còn chẳng tồn tại. Nếu nó có tồn tại, vì sao khi nó hét lên từng tiếng mong có ai đáp trả, lại chẳng có ai?
Sal Fisher đã từng chửi nó, Ashley Campell đã từng chửi nó, thậm chí Larry Johnson còn có những lời đay nghiến nhục mạ nó. Họ thấy nó, nên họ mới quyết định chửi. Dù có đau, nhưng nó vẫn thấy mừng rỡ.
Trước khi nó khóc thật nhiều.
Không phải, cái thứ họ chửi, có phải là Travis nó đâu? Đó chỉ là bản tính khốn nạn mà nó được mài giũa vì cái đời chó má này, rằng cảm xúc là một cái gì đó quá yếu đuối cho một thằng con trai. Và việc những thằng con trai có cảm giác đặc biệt với nhau lại càng là một thứ gì đó quá đỗi dơ bẩn, trái lại Thiên Chúa hoặc ít nhất trái lại những gì bố nó đã dạy. Có lẽ ông thật sự muốn uốn nắn nó thành một thằng đàn ông thật sự, bằng những đòn roi, quật thắt lưng hoặc đấm nó, đánh nó. Ông từng thụt một cú chí mạng vào bụng nó bằng báng súng của cây shotgun khi biết nó trốn ra tu viện vào giờ chiều tối, làm cho nó luôn thấy thấp thỏm và sợ hãi mỗi khi trốn đi lần nữa. Ông lấy lại chiếc chìa khóa tu viện kể từ lần đó và Travis cũng bỏ việc trốn đến tu viện trong một thời gian, nhưng đó là để ông không quá khắt khe canh quản xem nó có trốn đi nữa không, và rồi nó lén lút đi làm một chiếc mới với cái khung nó đã đúc từ vết in sẵn của chiếc chìa khóa trước, phòng trường hợp ông bố của nó có thể lấy lại chiếc chìa khóa bất cứ lúc nào. Dù có sợ hãi, Travis vẫn phải trốn đi, vì chỉ có khi ở tu viện một mình, nó mới có thể bày tỏ hết những gì đè nặng trong tâm hồn nó, để nó được khóc, để nó được mẹ hiền Nockfell ôm vào lòng.
Để nó được là Travis.
Travis cũng không rõ đó có thật sự là điều nó muốn không, vì sau tất cả những gì nó nhận được khi lẻn bước chân vào tu viện Phelps này chỉ là hàng nước mắt lăn dài đầy tuyệt vọng, một cảm giác chán chường đầy hoang mang.
Một lời thỉnh cầu chẳng hề có hồi đáp.
Nhưng có lẽ như ù có lún sâu vào màn đêm cô độc, vẫn ở đâu đó là cảm giác hi vọng lóe lên trong Travis, mỗi ngày. Nó vẫn chờ đợi điều gì đó, dù cảm giác cứ thật mông lung. Tuy vậy hôm nay thực khác lạ, nó cảm giác như nó biết mình đang mong chờ điều gì. Có một khoảng trống trong tim nó, nhưng khoảng trống ấy lại có tên.
Sal Fisher.
Tiếng thét vẫn không dừng sâu thẳm trong Travis, nhưng có một ánh lửa xanh biếc khiến cho tiếng kêu gào có một nơi thuộc về. Nó xóa đi màu đen thăm thẳm trong hư vô để nhắc Travis rằng đó chính là câu trả lời.
Đúng là khi có những vầng sáng, ta thấy được chính ta.
Travis đứng dậy, treo lại cây thánh giá lên bục. Nó bước ra khỏi cửa, ngoảnh mặt nhìn lại.
Tu viện Phelps tối đen như mực, nhưng từ lớp cửa kính, những vì sao ánh lên tia sáng xóa đi phần nào đó trong không gian rộng lớn này.
Travis khóa lại cánh cửa bên hông tu viện - nơi có thể dẫn ra khu rừng sau ngọn đồi và chạy thục mạng về nhà.