SO SÁNH GIÁO DỤC GIỮA VIỆT NAM VÀ CHÂU ÂU
Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của một quốc gia
MỤC
LỤC
SO
SÁNH GIÁO DỤC GIỮA VIỆT NAM VÀ CHÂU ÂU
I.
VIỆT NAM
Theo
số liệu thống kê của UNESCO vào năm 2014, khi chia dân số Việt Nam ra thành năm
nhóm thu nhập từ nghèo nhất đến giàu nhất thì thấy rằng tỉ lệ người trong độ tuổi
từ 18 - 22 vào học cao đẳng - đại học có sự khác biệt lớn giữa các nhóm. Cụ thể
là với nhóm nghèo nhất, tỉ lệ nhập học chỉ có 5%, nhóm nghèo là 13%, nhóm trung
bình là 26%, nhóm giàu 31% và nhóm giàu nhất là 55%.[1]
(theo báo công dân và khuyến học)
Theo
thống kê gần đây nhất của Báo tuổi trẻ đưa ra:
v Năm
2023, con số chọn Khoa Học Xã Hội là 566.921 và Khoa Học Tự Nhiên là 323.187.
Con số chênh lệch đã lên gần 250.000 thí sinh.
v Năm
2024, có gần 1,1 triệu thí sinh dự thi. Trong đó, số lượng thí sinh chọn bài
thi Khoa Học Xã Hội chiếm 63%, tăng 7,7% so với năm trước.[2]
ð Điều
này chứng tỏ có sự chuyển dịch nhanh về số lượng thí sinh thi đại học đăng kí
vào khối ngành khoa học xã hội tăng dần đều qua các năm gần đây.
“Ông Hoàng Ngọc Vinh,
nguyên vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp Bộ Giáo dục và Đào tạo, đánh giá xu
hướng thí sinh chọn bài thi Khoa Học Xã Hội ngày càng tăng có thể ảnh hưởng đến
sự phát triển hài hòa nguồn nhân lực các ngành nghề. Rõ ràng nhu cầu đào tạo
và nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo khối ngành kỹ thuật công nghệ không hề
nhỏ nhưng nhiều trường khó tuyển sinh. Trong khi đó, các ngành khoa học xã hội
tuyển sinh tốt hơn. Việc thí sinh chọn bài thi khoa học xã hội chưa hẳn vì
thí sinh thích, đơn giản vì thi dễ hơn, dễ vào đại học hơn. Do đó, thí sinh chọn
thi khoa học xã hội vì mục tiêu vào đại học là chính bởi số lượng ngành và chỉ
tiêu khoa học xã hội, kinh tế cũng nhiều hơn” – theo báo TUỔI TRẺ - .
ð Phần nhiều các thí sinh tốt nghiệp thường
chọn khối ngành Xã Hội đễ dễ tốt nghiệp và có cơ hội vào Đại Học là nhiều hơn.
Chớ không phải xuất phát từ nguyện vọng hoặc sở thích cá nhân.
A.
THÁCH
THỨC
Kèm
theo áp lực từ mong đợi của nhà trường, phụ huynh lên các bạn trẻ tạo ra bầu
không khí học tập không được thoải mái. Có những trường hợp xấu nhất là Tự Tử ở
độ tuổi thanh thiếu niên vì áp lực điểm số, thi cử. Trong khoảng cuối 2021- đầu
2022 có đến hơn 2 sự việc ở Hà Nội.
B. TÍCH CỰC
e)
Tình
trạng gian lận trong thi cử đã được cải thiện trong những năm gần đây. Ít có
trường hợp. Đặc biệt, theo năm 2018 đã có nhiều vụ thi cử ở Sơn La, Hà Giang,
báo cáo mới nhất năm 2024 là không phát hiện gian lận thi cử trong kỳ thi tốt
nghiệp THPT toàn quốc.
f) Tỷ lệ nhập học ở Việt Nam đã tăng đáng kể
trong những năm gần đây. Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tỷ lệ nhập học
tiểu học đạt 99,7% và tỷ lệ nhập học trung học cơ sở đạt 98,9% vào năm 2020. Nhưng
vẫn có sự chênh lệch giữa các khu đô thị và nông thôn.
g) Năm 2022-2023 chương trình giáo dục mới
2018 cấp THPT đã được đưa vào hệ thống
giảng dạy. Cải thiện đáng kể phương thức học theo cách giáo dục cũ từ năm 2006.
Chương
trình giảng dạy ở các cấp học từ Tiểu Học đến Trung Học Phổ Thông do Bộ Giáo Dục
Và Đào Tạo ban hành trong các trường giảng dạy chính thống.
Về
tài liệu giảng dạy thông thường vẫn bám xác chính vào Sách Giáo Khoa do Nhà Nước
ban hành.
Giáo
viên thường là người truyền tải kiến thức, và học sinh là người tiếp nhận kiến
thức là chính. Các hình thức khác cũng đã được đưa vào hệ thống giảng dạy thông
qua những thế hệ giáo viên trẻ hiện nay.
Bên
cạnh đó các trường trung học phổ thông liên kết quốc tế kết hợp giữa Giáo Trình
của Bộ Giáo Dục và giáo trình quốc tế (tùy thuộc vào từng trường) như :
Ở
cấp Đại Học thì đa dạng hơn, các trường thuộc quản lý của Nhà nước. Giáo Trình
được do bộ Giáo Dục và Đào Tạo ban hành, hoặc là các giáo sư đầu ngành, giảng
viên của trường soạn thảo Giáo trình.
·
Khối Trường Thuộc Đại Học Quốc Gia Hà Nội
·
Học Viện Ngân Hàng, Đại Học Công Nghệ
Thông Tin,….
Các trường đại học nước ngoài mở đào tạo tại
Việt Nam thì có chương trình giảng dạy riêng theo từng trường.
·
Đại Học Rmit, Đại học Swinburne,….
II.
ICELAND
– ĐỨC
Giáo Dục Đại Học Và Sau Đại Học(Higher
Education)
Các
cơ quan quản lý của mỗi tổ chức chịu trách nhiệm tổ chức giảng dạy, học tập và
đánh giá. Phương pháp giảng dạy do từng giáo viên, khoa, trường, cơ sở hoặc sự
kết hợp của những yếu tố nặng lực học sinh quyết định. Phương pháp giảng dạy có
phần khác nhau giữa các chương trình và trình độ học vấn.
Trong
hầu hết các trường hợp, có sự kết hợp giữa các bài giảng, hội thảo, bài tập cá
nhân và làm việc nhóm. Và các chương trình khoa học và kỹ thuật, công việc
trong phòng thí nghiệm và đào tạo thực hành phổ biến hơn. Tài liệu giảng dạy
cũng do từng giáo viên, khoa, trường, cơ sở hoặc sự kết hợp của những yếu tố
này quyết định.[3]
ð Phương
pháp giảng dạy thường được cấp nhà trường quản lý bám sát theo tiến độ hoặc
trình độ học tập của mỗi học viên.
Hệ
thống giáo dục Ireland nổi tiếng về chất lượng, khả năng tiếp cận và nhấn mạnh
vào cả sự phát triển học thuật và cá nhân. Với bề dày lịch sử về giáo dục xuất
sắc, Ireland cung cấp một hệ thống giáo dục có cấu trúc tốt và toàn diện, phục
vụ cho học sinh ở mọi lứa tuổi và hoàn cảnh. Đẩy mạnh về khả năng tư duy phản,
sáng tạo và phát triển cá nhân.
The emphasises equality and inclusion for
all students is strong: According to the framework legislation for the ECEC in
Iceland (Preschool Act 90/2008), local authorities are responsible for are
responsible for all matters regarding the accommodation for children with
special needs and children at the risk of disadvantage. Municipalities are
to include these measures in their general policy on preschools within
their district.
Sự nhấn mạnh về bình đẳng và hòa nhập cho
tất cả học sinh là mạnh mẽ: Theo luật khung cho ECEC tại Iceland (Luật mẫu giáo
90/2008), chính quyền địa phương chịu trách nhiệm về mọi vấn đề liên quan đến
chỗ ở cho trẻ em có nhu cầu đặc biệt và trẻ em có nguy cơ thiệt thòi. Các thành
phố phải đưa các biện pháp này vào chính sách chung của họ về trường mẫu giáo
trong quận của họ.[4] (nguồn eurydice)
“Một nguyên tắc cơ bản của hệ thống giáo dục
Iceland là mọi người đều phải có cơ hội bình đẳng để có được nền giáo dục, bất
kể giới tính, tình trạng kinh tế, nơi cư trú, tôn giáo, khuyết tật tiềm ẩn và nền
tảng văn hóa hoặc xã hội”
Ở Iceland, việc đánh giá và thẩm định học sinh
được tiến hành nội bộ và không được chuẩn hóa giữa các tổ chức khác nhau. Học
sinh được cung cấp báo cáo thường xuyên để đánh giá tiến độ của mình; tuy
nhiên, cách thức thực hiện khác nhau giữa các trường. Ví dụ, có thể đưa
ra điểm số hoặc có thể
đưa ra đánh giá bằng miệng và bằng văn bản
Mục đích chính của
họ là giúp dễ dàng chuyển tiếp vào giáo dục trung học phổ
thông và giúp học sinh lựa chọn khóa học. Học sinh được trao chứng chỉ có điểm
của mình vào cuối thời gian học bắt buộc.
Ngoài việc đánh
giá học sinh, luật yêu cầu các trường phải thực hiện một số hình thức tự đánh
giá về chất lượng dịch vụ của mình và đảm bảo rằng các tổ chức đang hoạt động
trong khuôn khổ luật pháp và trong các hướng dẫn. Các trường được Bộ Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa đánh giá bên ngoài năm năm một lần. [5]
(theo wikipedia)
ð Giáo
Dục ở Iceland thông thường hướng đến giáo dục cá nhân, trách nhiệm không phải ở
cấp độ toàn quốc mà là từ địa phương và nhà trường.
ð Đặc
biệt là giáo dục ở Iceland chú trọng vào học sinh khiếm khuyết, tất cả mọi người
trong xã hội
ð Và
giáo dục được phổ cập đến mọi đối tượng bất kể lý do gì. Giáo Dục Iceland là hướng
đến “ Trường học cho Mọi Người”
a)
Tỷ Lệ Học Sinh Bỏ Học Ở Bậc Trung Học Phổ
Thông
Almost
63% of new entrants at the upper secondary level of education in 2017 had
graduated in 2021. The completion rate, i.e. the proportion of new entrants who
have graduated, has never been higher since Statistics Iceland began publishing
data on new entrants in 1995. Dropout increased slightly, as 20.5% of new
entrants in 2017 had dropped out four years after entering, but 19.9% of new
entrants in 2016. Almost 17% of new entrants in the autumn of 2017 were still
in education without having graduated four years after entering, the lowest
rate measured.
Gần
63% số người mới nhập học bậc trung học phổ thông năm 2017 đã tốt nghiệp vào
năm 2021. Tỷ lệ hoàn thành, tức là tỷ lệ người mới nhập học đã tốt nghiệp, chưa
bao giờ cao hơn kể từ khi Cơ quan Thống kê Iceland bắt đầu công bố dữ liệu về
người mới nhập học vào năm 1995. Tỷ lệ bỏ học tăng nhẹ, vì 20,5% người mới nhập
học năm 2017 đã bỏ học sau bốn năm nhập học, nhưng là 19,9% người mới nhập học
năm 2016. Gần 17% người mới nhập học vào mùa thu năm 2017 vẫn đang đi học mà
không tốt nghiệp sau bốn năm nhập học, đây là tỷ lệ thấp nhất từng được đo lường.[6]
b)
Giáo viên áp lực và quá tải công việc.
Work-related
stress is common among professionals such as teachers, whose work involves
constantly interacting with others (Montgomery & Rupp, 2005).
Despite the benefits of a certain amount of stress (see e.g., Mujtaba &
Reiss, 2013),
research has indicated that teachers tend to experience more than just
beneficial levels of work-related stress and pressure
(Antoniou et al., 2013;
Klassen et al., 2010).
Research among Icelandic upper secondary school teachers revealed increased
work-related stress over the past two decades. In 2006, 35% of teachers
reported that they experienced work-related stress (Kristmundsson, 2007),
which escalated after the 2008 economic crisis. During this period, nearly half
of all upper secondary school teachers found their work mentally burdensome
(Ragnarsdóttir et al., 2010).
It should be noted that during this period, teachers were also saddled with
implementing a new policy reform (Ragnarsdóttir & Jóhannesson, 2014).[7]
Căng
thẳng liên quan đến công việc phổ biến trong số những người làm nghề như giáo
viên, những người có công việc liên quan đến việc tương tác liên tục với người
khác (Montgomery & Rupp, 2005 ).
Mặc dù có những lợi ích của một lượng căng thẳng nhất định (xem ví dụ, Mujtaba &
Reiss, 2013 ),
nghiên cứu đã chỉ ra rằng giáo viên có xu hướng trải qua nhiều hơn mức độ căng
thẳng và áp lực liên quan đến công việc có lợi (Antoniou và cộng sự, 2013 ;
Klassen và cộng sự, 2010 ).
Nghiên cứu trong số các giáo viên trung học phổ thông Iceland cho thấy căng thẳng
liên quan đến công việc đã gia tăng trong hai thập kỷ qua. Năm 2006, 35% giáo
viên báo cáo rằng họ đã trải qua căng thẳng liên quan đến công việc (Kristmundsson, 2007 ),
tình trạng này leo thang sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Trong giai đoạn
này, gần một nửa số giáo viên trung học phổ thông thấy công việc của họ là gánh
nặng về mặt tinh thần (Ragnarsdóttir và cộng sự, 2010 ).
Cần lưu ý rằng trong giai đoạn này, giáo viên cũng phải gánh vác nhiệm vụ thực
hiện cải cách chính sách mới (Ragnarsdóttir & Jóhannesson, 2014 ).
c)
Mất cân bằng giữa đào tạo và thị trường
lao động.
Here is an
increased risk of education mismatch as a growing share of the population
attends tertiary education, disproportionally women, while job creation has in
recent years largely been in the blue-collar service sector.
Robust economic growth
led to a shortage of labor which was supplemented through immigration, often
using temporary work agencies, which brought an increased risk of social
dumping.
Real wage growth
in recent years has been in excess of growth in productivity, leading to inflationary
pressures and a deterioration of Iceland’s competitive position.[8]
Nguy cơ mất cân đối
về giáo dục ngày càng tăng khi tỷ lệ dân số theo học giáo dục đại học ngày càng
tăng, chủ yếu là phụ nữ, trong khi việc làm được tạo ra trong những năm gần đây
chủ yếu là trong lĩnh vực dịch vụ cổ xanh.
Tăng trưởng kinh
tế mạnh mẽ dẫn đến tình trạng thiếu lao động được bổ sung thông qua nhập cư,
thường sử dụng các cơ quan làm việc tạm thời, làm tăng nguy cơ phá giá xã hội.
Tăng trưởng tiền
lương thực tế trong những năm gần đây đã vượt quá tốc độ tăng năng suất, dẫn đến
áp lực lạm phát và làm suy giảm vị thế cạnh tranh của Iceland.
Giáo Dục Mầm Non (Kindergarten)
Từ
3 đến 6 tuổi. (Không Bắt Buộc)
Giáo Dục Tiểu Học (Grundschule)
Từ
6 đến 10 tuổi (lớp 1 đến lớp 4). Chương trình học tập trung vào các môn cơ bản
như Toán, Ngữ văn, và Khoa học, cùng với các hoạt động thể chất và nghệ thuật.
Sau
khi hoàn thành cấp học này sẽ được chuyển đến các trường trung học khác nhau,
tùy vào khả năng và định hướng nghề nghiệp của học sinh.
Giáo Dục Trung Học (Sekundarstufe
I và II)
Từ
10 đến 15 tuổi và có phân loại ba trường sau:
1. Hauptschule:
Dành cho học sinh có xu hướng vào nghề sớm. Chương trình học kéo dài đến lớp
9 hoặc 10, sau đó học sinh thường theo học nghề hoặc tham gia các chương
trình đào tạo nghề.
2. Realschule:
Cung cấp chương trình học thực tế và rộng hơn Hauptschule, kéo dài đến lớp
10. Sau khi tốt nghiệp, học sinh có thể tiếp tục học lên hoặc theo học nghề.
3. Gymnasium:
Hướng đến học sinh có khả năng học tập tốt, chuẩn bị cho việc vào đại học.
Chương trình học kéo dài đến lớp 12 hoặc 13, kết thúc với kỳ thi Abitur, Gesamtschule: Trường tổng hợp kết hợp các
chương trình học của Hauptschule, Realschule, và Gymnasium trong cùng một cơ
sở. Học sinh có thể chuyển đổi giữa các chương trình dựa trên khả năng và sở
thích.
Sekundarstufe II (lớp
11 đến lớp 12/13)
chương
trình giồng như Gymnasium hoặc các trường nghề cao cấp, chuẩn bị cho kỳ thi
Abitur hoặc chương trình đào tạo nghề chuyên sâu hơn.
Giáo Dục Nghề (Berufsausbildung)
hệ
thống đào tạo nghề kép (Duales Ausbildungssystem), trong đó học sinh vừa học
lý thuyết tại các trường dạy nghề, vừa thực hành tại các công ty. Chương
trình này kéo dài từ 2 đến 3,5 năm và kết thúc với một chứng chỉ nghề chuyên
nghiệp được công nhận trên toàn quốc.
Giáo Dục Đại Học và sau
Đại Học(Hochschule)
·
Universität: Các trường đại học tại
Đức cung cấp các chương trình đào tạo hàn lâm, bao gồm cả nghiên cứu và giảng
dạy ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Sinh viên có thể theo học các bậc cử nhân, thạc
sĩ, và tiến sĩ.
·
Fachhochschule: Trường đại học ứng
dụng, tập trung vào các ngành học thực tế hơn, như kỹ thuật, kinh doanh, và
thiết kế. Chương trình học tại đây thường gắn liền với thực tiễn công việc và
có mối liên hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp.
Giáo Dục Dành Cho Người
Lớn Và Học Tập Suốt Đời
Hệ
thống giáo dục dành cho người lớn(Erwachsenenbildung), giúp mọi người có thể
tiếp tục học tập và phát triển kỹ năng suốt đời. Các chương trình đào tạo có
thể bao gồm học nghề, các khóa học nâng cao, và chương trình đào tạo nghề bổ
sung.
Mô hình giáo dục của Đức nhấn mạnh vào việc phát triển tính độc lập
ở trẻ em, khuyến khích tư duy phản biện, hỗ trợ trẻ em tự chịu trách nhiệm về
quá trình học tập của mình và nhấn mạnh vào việc phát triển các kỹ năng giải
quyết vấn đề sáng tạo.
Phát
triển kĩ năng tư duy phản biện và sáng tạoHọc
tập thông qua học nhóm: đào tạo cho học sinh phát triển kĩ năng mềm trong
tương tác giữa người và người, hoàn thành các bài tập thực tế, bao gồm cả
lý thuyết và thực hành.Liên
môn: giáo dục của Đức khuyến khích học sinh liên kết các kiến thức của nhiều
môn học và liên ngành khác nhauThông
qua dự án: học sinh được học thông qua các dự án cá nhân, nhóm, tập thể. Để
có thể rút ra các bài học cho cá nhân. Đặc biệt học sinh có thể hiểu rõ được
môn học hay ngành nghề mình theo đuổi.Khuyến
khích tranh luận, phản biện: giúp cho học sinh bảo vệ ý kiến cá nhân, và
có tư duy logic.
TÍCH
CỰC
1) Học
sinh đã được định hướng nghề nghiệp từ khá sớm – bắt đầu từ sau lớp 4. Hỗ trợ
cho học sinh phát triển nghề nghiệp và định hướng sớm hơn, phát triển tốt hơn
khi đến độ tuổi lao động so với giáo dục các nước khác.
2) Giáo
dục nghề kép: điều này giúp cho học sinh – sinh viên vừa có thể học tập lý thuyết
tại trường, vừa học hỏi kinh nghiệm ở các doanh nghiệp.
3) Giáo
dục miễn phí hoặc chi phí thấp: Đức là quốc gia có chính sách miễn học phí ở
nhiều cấp bậc học bao gồm cả đại học. Điều này hỗ trợ cho những người không có
điều kiện học tập vẫn có thể tiếp cận giáo dục một cách tốt nhất.
THÁCH THỨC
1)
Việc định hướng nghề nghiệp từ nhỏ gây ra
áp lực lên học sinh. Vì học sinh còn quá nhỏ để có thể định hướng một cách rõ
ràng ngay từ sớm.
2)
Vấn đề nhập cư hiện nay của Đức đã dấy lên
sự bất bình đẳng giáo dục về hoàn cảnh gia đình. Sự khác biệt rõ ràng từ những
trẻ em của gia đình nhập cư và bản địa.
3)
Sự phân chia từ điều kiện từ học sinh có đủ
điều kiện học đại học hay là học tại các trường dạy nghề => dẫn đến nhiều học
sinh – sinh viên mất đi cơ hội học tập tại đại học.
4)
Có
sự khác biệt chất lượng giáo dục tại các cơ sở đào tạo thuộc về tư nhân và công
lập. Dẫn đến mất cân bằng giáo dục tại các trường.
VIỆT
NAM
ICELAND
ĐỨC
Định
Hướng Nghề Nghiệp
Học
sinh được đào tạo cho đến hết bậc trung học phổ thông, sau đó mới thi vào các
kỳ thi đại học
Không
có định hướng nghề nghiệp từ nhỏ như Đức. Hướng đến học sinh phát triển toàn
diện hơn.
Định
hướng nghề nghiệp khá sớm, bắt đầu từ sau lớp 4. Đã phân chia học sinh theo
ngành nghề
Phương
Pháp Giảng Dạy
Phương
pháp giảng dạy tại Việt Nam truyền thống vẫn nặng về lý thuyết và học thuộc
lòng.
Tuy
nhiên, gần đây đã có những cải cách nhằm cải thiện chất lượng học tập, tư duy
phản biện và thực hành nhiều hơn.
Phương
pháp giảng dạy tại Iceland và nhấn mạnh vào việc học qua trải nghiệm, phát
triển tư duy phản biện và sáng tạo. Học sinh thường tham gia vào các dự án thực
tế.
Phương
pháp giảng dạy của Đức nhấn mạnh vào việc kết hợp lý thuyết và thực hành, đặc
biệt là qua hệ thống đào tạo nghề kép, giúp học sinh chuẩn bị sẵn sàng cho thị
trường lao động.
Cấu
Trúc Và Quản Lý Hệ Thống Giáo Dục
Học
sinh Việt Nam có cơ hội tiếp cận giáo dục nâng cao hoặc phổ thông dựa trên kết
quả thi cử, từ cấp tiểu học đến đại học. đặc biệt, áp lực lớn thi vào các trường
đại học
Học
sinh có nhiều cơ hội tiếp cận giáo dục cao cấp nhờ vào hệ thống giáo dục linh
hoạt và tập trung vào phát triển toàn diện. Đặc biệt chú trọng vào các trẻ em
đặc biệt
Định
hướng nghề nghiệp từ rất sớm và chia ra hai hệ đào tạo là:
Hauptschule Realschule.
Chất
lượng giáo dục và cơ sở vật chất
Ở
các trường tại các trung tâm lớn, hoặc thành phố thường chất lượng giáo dục lẫn
cơ sở vật chất tốt hơn ở các vùng sâu, vùng xa, nông thôn.
Chất
lượng giáo dục đang được cải thiện qua các năm.
Nhiều
nguồn tài liệu chưa được phổ cập tại các trường học.
Đều
có chất lượng giáo dục và cơ sở vật chất tốt, với các trường học được trang bị
đầy đủ, tạo điều kiện tốt nhất cho việc học tập và giảng dạy
NHẬN
XÉT
Theo
bảng xếp hạng [9] worldpopulationreview giữa
các nền giáo dục trên thế giới 2024 thì:
Đức
xếp hạng thứ 7
Iceland
đứng vị trí thứ 10
Và
Việt Nam vị trí thứ 53
Nếu
xét trên tổng số nước của thế giới thì Việt Nam nằm ở mức Khá nếu so
theo tổng thể về giáo dục của một quốc gia so với thế giới. Là một điểm sáng
cho nền giáo dục Việt Nam đã được cải thiện từ sau chiến tranh 1975 cho đến
nay.
Giáo
dục Đức và Iceland là những nước top đầu về nền giáo dục thế giới. Nhưng cũng đối
mặt với nhiều thách thức, giáo dục cũng nên được luôn luôn cải thiện, phù hợp với
thời đại.
Giáo
dục Việt Nam cũng có các bước tiến về giáo dục. Nhưng cũng cần cố gắng cải thiện
để kiện toàn hệ trong hệ thống giáo dục quốc dân. Có thể tạo ra nhiều giá trị lợi
ích về mặt dân trí cũng như đạt hiệu quả cao của giáo dục.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã công bố kết
quả khảo sát PISA Việt Nam năm 2022 về toán, đọc hoặc khoa học của học
sinh.
Kết quả này được OECD công bố công khai từ bài khảo sát về
toán, đọc hoặc khoa học của 6.068 học sinh ở
178 trường, đại diện cho khoảng 939.500 học sinh 15 tuổi (ước tính khoảng 68%
tổng dân số 15 tuổi) ở Việt Nam.
Khoảng 77% học sinh ở Việt Nam đạt trình độ đọc 2 trở lên
(trung bình OECD: 74%). 1% học sinh đạt thành tích cao, điểm 5 trở lên ở môn
đọc (trung bình OECD: 7%).[10]
(Báo Tuổi Trẻ)
ð Theo báo cáo khảo sát của PISA đưa ra cho chúng ta thấy được
tỉ lệ học sinh Việt Nam đạt thành tích khá cao trong các môn Khoa Học Tự Nhiên
– đặc biệt về tư duy logic toán học.
VIỆT
NAM
ICELAND
ĐỨC
ƯU
ĐIỂM
a)
Học sinh Việt Nam rất
chăm chỉ và siêng năng trong học tập.
b)
Học sinh Việt Nam có
kiến thức cơ bản và lý thuyết tốt. (vì được đào tạo thiên hướng hàn lâm hơn
là thực hành)
a)
Được đào tạo toàn diện
về kiến thức và kĩ năng mềm, sáng tạo
b)
Học sinh học theo khả
năng của bản thân, có sự hỗ trợ từ giáo viên
c)
Các kỹ năng thực hành
tốt
a)
Được đẩy mạnh hướng
giáo dục lý thuyết và thực hành.
b)
Phát triển khả năng tư
duy phản biện từ việc học nhóm, và các dự án tập thể.
c)
Được định hướng nghề
nghiệp từ sớm, có thể phát triển chuyên môn cao.
NHƯỢC
ĐIỂM
a)
Áp lực thi cử đối với
học sinh khá cao.
b)
Thiếu các kỹ năng thực
hành, và kỹ năng mềm
a)
Thiếu tinh thần cạnh
tranh vì được khuyến khích theo học lực cá nhân.
a)
Phân loại sớm gây ra áp
lực từ sớm cho trẻ, và sau này muốn đổi nghề khi lớn lên cũng là một trở
ngại.
V.
TỔNG KẾT.
Hệ
thống giáo dục tại Việt Nam đa phần thiên hướng về Lý Thuyết hơn là Thực Hành
và Ứng Dụng so với hai nền giáo dục còn lại. Và áp lực thi cử, đặc biệt là thi
tốt nghiệp & thi đại học, áp lực vào các trường danh tiếng khó khăn và cạnh
tranh cao hơn.
Hệ
thông giáo dục tại Iceland và Đức. Hệ
thống giáo dục Iceland được đào tạo toàn diện về lý thuyết lẫn thực hành, đặc
biệt hơn là chú trọng vào các cá nhân khiếm khuyết hơn so với các học sinh còn
lại. Đức thì ưu tiên hơn về định hướng nghề nghiệp từ rất sớm vừa là ưu điểm
vừa là nhược điểm.
Nhìn
chung, nền giáo dục Việt Nam và Châu Âu (cụ thể là Iceland và Đức). Có những
điểm trái ngược nhau giữa Lý thuyết và Thực Hành, Tinh thần tự học, Giáo Dục
Bình Đẳng, Giáo Dục Khai Phóng,…
Ý kiến, suy nghĩ cá nhân trong bài viết:
Bản thân tôi không phân định đâu là nền giáo dục tốt nhất,
chỉ có nền giáo dục phù hợp và tối ưu nhất cho từng cá nhân cụ thể.
1.
Giả sử, nếu xem giáo dục
là một công thức thành công, tôi tạm cho là:
Môi trường, điều kiện lý tưởng tốt + một nền giáo dục tiên
tiến = thành công
Thì có
lẽ sẽ có rất nhiều người ở các nước phát triển đã thành công hơn con số thống
kê ở các nghiên cứu.
Điều
này phản ánh được, chăm chỉ học là một điều tốt. Nhưng học cái gì? vận dụng vào
đâu? Và điều quan trọng là giáo dục nền hướng đến một xã hội mà trong đó giáo
dục phát triển tốt nhất về phương diện Đạo Đức, Trí Tuệ, Thân Thể. Thì đây, tôi
nghĩ mới là điều thiết yếu và ý nghĩa nhất của giáo dục. Mỗi cá nhân là một bản
ngã khác nhau, khả năng tu duy cũng như nhận thức khác nhau.
2.
Xem giáo dục là kim chỉ
nam cho một đời người. Thì tôi thấy nó là một điều hợp lý và đúng đắn hơn. Vì
quá trình giáo dục một con người không chỉ gói gọn trong một khóa học đại học,
hay là một chương trình cấp tốc, mà phải là xuyên suốt một đời người. Vậy nền
tảng của giáo dục phải được xuất phát từ khi còn nhỏ cho đến trưởng thành.
3.
“Tinh Thần Tự Học” là một
tinh thần nên được giáo dục từ nhỏ một cách có bài bản. Vì tự học mới đưa đến
đích đến của tự giáo dục bản thân một cách tốt nhất. Mỗi người có hướng phát
triển riêng cho nên mỗi người cần lên cho bản thân một lộ trình tự học, như vậy
mới tối ưu nhất. Theo tôi, phải bao gồm việc học từ trường học, thầy cô thì cái
mức cao nhất chính là TỰ HỌC.
4.
Không có một nền giáo dục
nào là tốt nhất so với với nền giáo dục khác. Luôn có ưu điểm này thì sẽ có
khuyết điểm đi kèm. Cho dù là Việt Nam hay Châu Âu. Theo tôi để có thể kiện
toàn hết mức có thể thì nên kết hợp cả hai cách thức học của lẫn Việt Nam và
Châu Âu. Tức có nghĩa, khi ta tiếp xúc với kiến thức hoàn toàn mới thì nên học
theo kiểu truyền thống, nắm vững các kiến thức cơ bản, xong rồi mới tiến đến áp
dụng các hình thức tư duy của Châu Âu. Chuyển hóa kiến thức học tập thành kiến
thức của mình.
5.
Học thông qua việc thực
hành, sửa sai liên tục. Rất khó để chúng ta yêu cầu một học sinh học ngay hiểu
ngay nếu không trải qua những lần sai để có thể có được đáp án đúng. Hành trình
tìm ra phương pháp giáo dục tối ưu nhất cho bản thân, cũng là một hành trình
sai làm lại, sai làm lại và làm đến khi nào đúng. Và có khi đúng ở thời điểm
này nhưng lại sai ở thời điểm khác.
•
Ví dụ: Nếu chúng ta vẫn
cứ tiếp tục giữ phương pháp học truyền thống mà không chuyển sang chuyển hóa
kiến thức thông qua tư duy thì rất khó phát triển, sáng tạo mang tính ứng dụng
cao trong cuộc sống.
6. Ranh
giới giữa cân bằng về Kiến Thức đang dần được đồng đều với nhau. Xu thế phát
triển mạnh mẽ của Internet ở thị trường Việt Nam tương đối rẻ, và dễ tiếp cận
được tri thức trong và ngoài nước. Không còn “bất cân bằng” so với 10, 20 năm
trước đây. Giới trẻ và người trong độ tuổi lao động được nâng cao hơn. Thì tri
thức tự lực mỗi cá nhân đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Vì nếu kiến thức
chỉ thông qua trường lớp mà không được chuyển hóa hoặc xuất phát kiến thức từ
kinh nghiệm, học tập của bản thân thì rất khó cạnh tranh hoặc chuyên sâu vào
lĩnh vực mà mình theo đuổi. Tuy nhiên, ở một số vùng nông thôn, xa xôi thì vẫn
chưa được tiếp cận được như người ở trung tâm và thành phố lớn.
VD: Với một người có thể
trụ vững trong môi trường học thuật, họ dành cả đời mình để nghiên cứu một lĩnh
vực chuyên sâu của bản thân. Hơn là một người biết về đa lĩnh vực nhưng không
sâu.
Có nhiều tình trạng hiện
nay, nhiều người có thể biết và nói rất nhiều các mô hình kinh doanh, nghiên cứu,
tài chính,… phương Tây – dung nhiều thuật ngữ chuyên ngành để mô tả kiến thức của
họ. Nhưng lại không có kinh nghiệm thực tiễn lẫn khảo sát rõ ràng được tâm lý,
văn hóa, thói quen của người Việt cho nên mặc dù được trang bị kiến thức nhưng
dễ thất bại.
Ví dụ: mô hình KINH DOANH
ĐA CẤP thành công ở một số nước khác (Mỹ, Hàn, Đức,…) nhưng thất bại ở thị trường
Việt Nam.
7. Internet
đem lại các kiến thức ảo và lầm tưởng: Tức là có rất nhiều người khi được tiếp
cận một kiến thức mới rất dễ lầm đó chính là kiến thức của chính mình.
Immanuel Kant:
Theo Kant, mọi nhận thức của ta đều bắt đầu từ kinh nghiệm, vì đối tượng tác động
đến giác quan của ta, sau đó quan năng sẽ nhận thức, một phần sẽ dừng lại ở
hình tượng, một phần được xử lý nhờ giác tính. Xét về mặt thời gian, không nhận
thức nào đi trước kinh nghiệm[11]
Điều này đúng trên
phương diện giáo dục hiện nay. Vì trong bối cảnh giáo dục ngày nay, may mắn được
thừa hưởng rất nhiều tri thức được thế hệ trước để lại. Lần đầu tiên trong lịch
sử loài người mà vấn đề tri thức được phổ cập một cách rộng rãi và dễ dàng như
thế. Đó là một ưu điểm nhưng lại là một khuyết điểm, vì như thế rất dễ rơi vào
tình trạng “Ảo Tưởng Tri Thức”.
VD: Điều này cá
nhân tôi cảm nhận rõ từ những thế hệ đi trước, một người Thầy hơn 60 tuổi đã dạy
tôi về những bài học tuổi trẻ. Mặc dù, theo tôi họ truyền đạt những kiến thức
không có gì mới lạ. Nhưng bản thân tôi phải ít nhất trải qua một thời gian tuổi
trẻ mới hiểu được phần nào mà những câu nói mà Thầy đã dạy. Điều đó không phủ định
kiến thức mà chúng ta được dạy và học không phải là thừa nhưng bên cạnh đó “Kiến
Thức Tự Thân” mới là quý giá nhất.
8. Học
tập như là luyện tập các bộ môn nghệ thuật đều trải qua bốn yếu tố quan trọng:
4 yếu tố này đã được đề cập
nhiều trên nhiều phương diện khác của con người như: tâm lý tình yêu, học bộ
môn nghệ thuật,…
Những yếu tố trên cũng
không thể thiếu trong môt trường giáo dục – học tập.
Tham
khảo và trích dẫn được đính kèm dưới mỗi trang.
DU HỌC SINH VIỆT NAM (PHỤ)
Trong phạm vi đề tài bài viết không bao gồm
phần DU HỌC SINH VIỆT NAM. Nhưng tôi muốn đưa vào để có thể khai thác thêm một
khía cạnh ngách trong bức tranh tổng thể về giáo dục – học tập của Việt Nam. Vì
đây là phần tương đối khá rộng để trình bày, ở đây tôi chỉ muốn bàn đến xu hướng
du học của du học sinh Việt Nam đối với các nước phát triển trên thế giới.
According
to several reports and news articles, Vietnam is in the market to promote
foreign education for its brightest minds. With a multitude of students in
several countries, especially from East Asia, opting for higher education
abroad, universities in European nations and the Americas are waiting to
welcome the influx with open arms. Vietnamese students make up the
third-largest segment of the international student marketplace. Furthermore,
ninety-two per cent of Vietnamese families seek physical, face-to-face
interactions with counsellors for advice when making big educational decisions[12]
Việt
Nam đang trên thị trường thúc đẩy giáo dục nước ngoài cho những bộ óc thông
minh nhất của mình. Với vô số sinh viên ở một số quốc gia, đặc biệt là từ Đông
Á, lựa chọn giáo dục đại học ở nước ngoài, các trường đại học ở các quốc gia
châu Âu và châu Mỹ đang chờ đợi để chào đón dòng người đổ về bằng vòng tay rộng
mở. Sinh viên Việt Nam chiếm phân khúc lớn thứ ba của thị trường sinh
viên quốc tế. Hơn nữa, chín mươi hai phần trăm các gia đình Việt Nam tìm kiếm sự
tương tác trực tiếp, trực tiếp với các cố vấn để được tư vấn khi đưa ra các quyết
định giáo dục lớn.
·
Theo một báo cáo năm 2015 của quốc hội
trong năm đã có 130.000 du học sinh Việt Nam tại nước ngoài. Tỉ lệ chiếm nhiều
nhất là Nhật Bản, tiếp theo đó là Úc. (1)[13]
·
Ngày 7/2, dẫn thống kê của UNESCO cho
thấy Việt Nam có hơn 132.000 du học sinh năm học 2021-2022. (2)[14]
·
Trong
bài báo của Vnexpress: Hai điểm đến hàng đầu của du học sinh Việt Nam là Nhật Bản
(hơn 44.100 người) và Hàn Quốc (gần 25.000 người). Trong khi đó, du học sinh
Indonesia, Malaysia và Thái Lan chuyển đến Anh và Úc nhiều nhất. Tại thị trường
Hoa Kỳ, du học sinh Việt Nam cũng dẫn đầu Đông Nam Á, với hơn 23.100 người.
Trong số năm quốc gia có nhiều người Việt Nam du học nhất là Úc (hơn 14.100) và
Canada (gần 9.000). (3)[15]
Bên cạnh đó, số
lượng du học sinh ở Việt Nam tại nước ngoài là lớn nhất trong khu vực. Báo cáo
Xu hướng chính tại Đông Nam Á năm 2024 của Acumen, tổ chức tư vấn giáo dục quốc
tế, tính đến ngày 17/2, dẫn thống kê của UNESCO cho thấy Việt Nam có hơn
137.022 du học sinh năm học 2021-2022. (4)[16]
Từ những số liệu
thống kê trên số lượng du học sinh Việt Nam tại nước ngoài nhiều nhất trong khu
vực Đông Nam Á.
There are many
reasons why Vietnam has become a "hotspot" for recruitment by global
education institutions, it said, pointing out that more than a quarter (28%) of
Vietnam's population is aged between 16 and 30, its university enrollment rate
has increased from 10% in 2001 to 29%, and education is a top concern for
families.[17]
Báo cáo cho biết
có nhiều lý do khiến Việt Nam trở thành "điểm nóng" tuyển dụng của
các tổ chức giáo dục toàn cầu, đồng thời chỉ ra rằng hơn một phần tư (28%) dân
số Việt Nam có độ tuổi từ 16 đến 30, tỷ lệ nhập học đại học đã tăng từ 10% vào
năm 2001 lên 29% và giáo dục là mối quan tâm hàng đầu của các gia đình.
ð Đất nước chúng ta có dân số trẻ, người
trong độ tuổi lao động chiếm phần lớn trong tổng dân số cả nước. Cho nên nhu cầu
về du học khá nhiều so với một số nước trong khu vực.
Theo TS
Hoàng Ngọc Vinh, phó chủ tịch Hiệp hội Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam, các
quốc gia phát triển đều muốn mở rộng "thị phần" giáo dục bằng cách
thu hút sinh viên ngoại quốc. Không chỉ vì mục tiêu tài chính, đó còn là cách
tìm kiếm nhân tài bổ sung cho lực lượng lao động của họ.[18]
ð Ở các nước phát triển như Châu Âu, Nhật Bản,
….. thông qua các chương trình du học và trao đổi sinh viên nhằm thu hút nhân
tài ở các nước đang phát triển và kém phát triển.
MỘT SỐ NGUYÊN
NHÂN KHÁC
a)
Cơ hội nghề nghiệp: Mong muốn tìm kiếm cơ
hội tại các quốc gia phát triển để có thể làm việc với mức lương cao. Vì bằng cấp
ở các nước phát triển thường được công nhận rộng rãi
b)
Học bổng và hỗ trợ tài chính: Nhiều quốc
gia và tổ chức giáo dục quốc tế cung cấp học bổng, hỗ trợ tài chính, giúp cho
nhiều du học sinh Việt Nam bớt gánh nặng về tài chính
c)
Môi trường sống và học tập: môi trường sống
và học tập đa dạng, cởi mở, nơi họ có thể trải nghiệm văn hóa, ngôn ngữ, và
phát triển kỹ năng sống độc lập. Giúp cho có thể phát triển bản thân tốt hơn
d)
Sự cạnh tranh trong nước: Sự cạnh tranh
vào các trường đại học danh tiếng là rất cao. Điều này khiến một số học sinh và
phụ huynh có điều kiện sẽ tìm kiếm các lựa chọn giáo dục ở nước ngoài, nơi có
thể có cơ hội vào các trường tốt hơn.
e)
Nguyện vọng và xu hướng cá nhân: Gia đình
có người thân ở tại nước ngoài, đưa con em sang nước ngoài học tập và định. Nhiều
bạn trẻ mong muốn được khám phá thế giới, được tiếp xúc với nhiều người từ nhiều
nền văn hóa khác nhau.
f)
Chất lượng giáo dục: các du học sinh mong
muốn được tiếp cận nền giáo dục chất lượng cao ở các nước phát triển như Mỹ,
Châu Âu,...
BÀI
VIẾT CÁ NHÂN
Giáo
dục là một hành trình của đời người. Ai cũng đều phải trải qua học tập mới dần
trưởng thành. Giáo dục quan trong trong trong cuộc sống từ nhận thức và hành vi
của mỗi cá nhân.
Ngay
từ nhỏ, tôi
được sinh ra và
lớn một vùng
đất gọi là
"nước Pháp
thu nhỏ của Đông
Dương" đó là Đà Lạt. Ở đây,
chúng tôi sẽ sử dụng những từ
vay mượn rất nhiều nơi khác như tiếng Pháp, khi đi mua rau chúng tôi gọi “la gim” (lágume) hoặc tên một số món ăn của người ba tàu tức người trung quốc đã di cư từ thế kỷ trước như: xíu páo, phá lâú. Bên cạnh đó, suốt tuổi ấu thơ học chung với những người dân
tộc thiểu số như ê
đê, k'ho, gia rai. Và cũng từ đó
tôi sơ khai về ý
niệm về đa sắc tộc và
khác biệt văn hóa.
Lớn hơn tôi
sống chung nhiều với người của chế
độ cũ. Tôi
thường được nghe về một số nước Châu
Âu và mỹ. Đặc biệt là
Pháp, tôi đã bắt đầu có
ước mơ một ngày
nào được đi đến các
nước này.
Tôi
bắt đầu học Phổ Thông
cho đến Đại Học. Đặc biệt là
đại học, tôi
thấy các
giáo trình đang được đào
tạo hiện nay đa phần là
dịch hoặc tham khảo tư liệu của nước
ngoài,
chỉ trừ vài
môn học là
được biên
soạn bởi người Việt. Như Chính
Trị và Văn Hóa và một số phạm trù đặc thù của Việt Nam. Đa phần còn lại là giáo trình nước ngoài. Kể là cả người Việt thì cũng ít hay nhiều cũng bị ảnh hưởng lối tư duy, hay phương pháp
luận của phương Tây.
Tôi bắt đầu cảm thấy hứng thú
và bị thu hút
bởi phương pháp
người ta nghiên
cứu một vấn đề. Từ người thật, việc
thật cho đến thứ tự làm việc cho đến các phương pháp nghiên cứu khoa học.
Xét trên lịch sử Châu Âu chỉ mới thực sự trỗi dậy khoảng 500 đổ lại đây,
sau từ thời kỳ “Đêm Dài Trung Cổ”. Còn
lại cá
nhân tôi nghĩ trước đó,
thì nền văn minh được tạm xem rực rỡ
khoảng thời gian trước đó tôi nghĩ là “Á Đông” cũng là nền văn minh rực rỡ không kém cạnh gì văn minh Hy - La hay Ba-Tư. Lịch sử
cũng đã chứng minh Hòa
Thân đã từng dong buồm đi khám
khá trước thời kỳ Colombus.
Và
những phát
minh đặt nền móng
cho thời khoa học sau này
cho toàn thế giới, từ luyện kim
cho đến 4 phát minh vĩ đại đặc biệt là thuốc súng.
Nhưng
chỉ trong vài
trăm năm đổ lại đây.
Vì sao phương Tây lại trỗi dậy một
cách
mạnh mẽ và
họ thống trị hầu như trong nhiều
lĩnh vực. Mặc dù, thực tế đang dần thay đổi nhưng trong tương lai gần thì
vẫn vậy. Tôi
đã đọc qua một số cuốn sách
phân tích nhưng tôi nghĩ điều
quan trọng là phương pháp giáo dục của họ và cách tôn trọng ý kiến khác biệt và xây dựng để phát triển. Khi họ hiểu được thông qua những bài học lịch sử như tử hình Ga-Li-Lê hoặc có thể làm thay đổi nhận thức bao năm nay về thế giới quan của mọi người.
Tôi
nghĩ điều này
thật sự giúp
ích cho người tài
năng được công
hiến và
công nhận.
Tôi có đọc qua một số bài viết so sánh sự khác biệt cách giáo dục Châu Âu- Châu Á trên mạng. Nhưng thiết nghĩ, tôi chưa từng trải qua nền giáo dục các nước Châu Âu và tôi chỉ học mỗi ở Việt Nam. Nên sẽ có phần nhiều sự đánh giá của tôi có sự thiên hướng cảm nhận cá nhận của tôi.
Về trí tuệ: không thể xét một dân
tộc nào
hơn dân tộc nào,
nhưng tôi rút ra từ cảm nhận cá
nhân là khi cảm xúc
chúng ta được ổn định và
nhu cầu công
nhận được xác
quyết thì
bắt đầu có
tinh thần cống hiến. Và
cảm xúc
tốt cộng thêm
trí tuệ mới được thăng hoa. Điều này
phương Tây họ làm
khá tốt, thông
qua rất nhiều vấn đề như tôn
trọng ý
kiến con trẻ, cho trẻ tư duy độc lập,...
Về giáo dục khai phóng: quả thực khái niệm này tôi mới tiếp nhận vài năm gần đây, đó là bạn học những gì bạn thích, để tìm hiểu bản thân rồi sau đó sẽ nghiêm túc theo đuổi ngành nghề mình chọn. Tôi nghĩ đây là điều tuyệt vời dành cho tất cả mọi người.
Về giáo dục khai phóng: quả thực khái niệm này tôi mới tiếp nhận vài năm gần đây, đó là bạn học những gì bạn thích, để tìm hiểu bản thân rồi sau đó sẽ nghiêm túc theo đuổi ngành nghề mình chọn. Tôi nghĩ đây là điều tuyệt vời dành cho tất cả mọi người.
Còn
về phương Đông
ở đây tôi chỉ đề cập đồng văn của Trung Hoa, vì
tôi chỉ sống ở nước Việt. Và
chỉ du lịch một số nước đồng văn hóa
thôi. Cái tốt và
tuyệt vời nhất mà
tôi nghĩ đó là sự ổn định chính
trị, đời sống ở đây
tạm gọi là
yên bình và người dân
hưởng thụ cuộc sống.
Các kiến thức tinh hoa của Á Đông sẽ rất tuyệt vời cho những ai tìm
đến cân
bằng tâm
trí khi chủ nghĩa vật chất của
phương tây
đang hiện diện mạnh mẽ.
Và giáo dục của Á Đông ta thường hay nói là ép buộc con học quá nhiều. Đúng là một điều tiêu cực, nhưng nhìn ngược lại mức độ chịu đựng và kham nhẫn trong học tập của người phương Đông
tốt hơn Châu
Âu.
Nhưng
có một điều mà
tôi thực sự chưa hài
lòng đó là chúng ta có rất
nhiều bài
nghiên cứu và
sáng tạo. Nhưng không
có kênh nào để đưa những bài
luận văn tốt đó
ra công chúng. Bên cạnh đó
cũng có nhiều bài
thật sự không
chất lượng chỉ để hoàn
thành khóa học.
Và điều nữa là vấn đề
tư duy. Có lẽ cá
nhân tôi nghĩ rất nhiểu và
cũng thấy bản thân
tôi cũng vậy về vấn đề tư duy. Khi bạn tư duy tốt bạn sẽ sống một cách
dễ dàng hơn. Không nhiều người Việt thành thạo trong việc các kiểu tư duy như: tư duy phân tích, tư duy
căn nguyên, tư duy logic, tư duy phản
biên,....
tôi nghĩ đây cũng là một điều thiệt thòi
lớn của chúng
ta.
Ở đây, tôi xin đưa ra thêm một nhận xét cá nhân giữa bản thân và những người được học ở Sài Gòn ngày xưa. Tôi tự hỏi tại sao thời đấy họ chỉ trong thời gian ngắn lại có
quá nhiều bậc anh tài
đồng xuất hiện. Thì
sau này tôi mới vỡ lẽ ra đó
là cạnh tranh và
phương pháp tư duy và học. Tôi
nghĩ không có phương pháp nào là tốt
nhất cả, kể cả những nước tiên tiến nhất về giáo dục như Anh, Mỹ, Thụy Sĩ,... mà
những nước kém
phát triển như châu
phi hay một số đang phát
triển trong đó
có Việt Nam là
không tốt. Mỗi phương pháp
đều có
mặt lợi, mặt xấu khác
nhau. Tôi nghĩ cách tốt nhất vẫn là
hòa hợp hai phương pháp
vào với nhau bao gồm lối học của
phương Đông
và phương pháp học của phương Tây.
Và
tại sao tôi
lại mong muốn đi du học, trước hơn
hết tôi
muốn được học tập trong môi
trường phương Tây
về cách tiếp cận vấn đề và tư duy. Cách học của họ, và muốn được tiếp cận những kiến thức mới nhất. Tôi
cũng muốn rèn
luyện bản thân
hơn, đặc biệt muốn biết được bản thân
mình sẽ cố gắng hết mình
được đến đâu.
Bên cạnh đó,
là vấn đề ngôn
ngữ, tôi
chọn Anh ngữ bởi vì nó thuyết phục được tôi là người sử dụng tiếng anh nhiều trên
thế giới, điều đó
sẽ đồng nghĩa với việc nhiều người
sử dụng thì sẽ có
nhiều kiến thức hơn. Ví
dụ như cây lúa sản lượng nhiều ta thu hoạch tốt và dễ dàng hơn, còn những ngôn ngữ khác như sầu riêng, cây na giá thành khá cao đồng nghĩa với việc tốt hơn về mặt cá
nhân, điều này
tùy thuộc với yêu
cầu của mỗi cá
nhân.
Vậy cá nhân tôi xin đưa ra thế này.
Với một kiến thức mới ta nên
học theo phương Đông
vì vốn dĩ kiến thức mới ta chưa hề có
kiến thức, trải nghiệm rất khó
để đưa ra vấn đề chính
xác và đúng đắn nhất. Nhưng khi ta
nắm được kiến thức nền sau đó sẽ học theo lối học Tây phương bắt đầu sử dụng các loại tư duy, liên hệ đa ngành, đa lĩnh vực để tìm ra cái mấu chốt của vấn đề mà chúng ta đang học để biến kiến thức của người khác
là của mình.
Theo tôi giáo dục như vậy là
phù hợp nhất với tôi,
theo những gì
được biết ở hiện tại.
[1] https://congdankhuyenhoc.vn/bat-binh-dang-trong-giao-duc-dai-hoc-cong-lap-tai-viet-nam-179230326145417982.htm
[2] https://tuoitre.vn/lo-ngai-khi-ngay-cang-nhieu-thi-sinh-chon-thi-khoa-hoc-xa-hoi-2024071809043511.htm#:~:text=Th%C3%AD%20sinh%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20ch%E1%BB%8Dn%20b%C3%A0i,kho%E1%BA%A3ng%2090.000%2C%20kh%C3%B4ng%20qu%C3%A1%20l%E1%BB%9Bn.
[3] https://tertiary-education.studentnews.eu/s/2328/57788-Tertiary-education/2903492-12-Iceland-Teaching-methods.htm#:~:text=In%20most%20cases%20there%20is,or%20a%20combination%20of%20these.
[4] https://eurydice.eacea.ec.europa.eu/national-education-systems/iceland/overview
[5] https://en.wikipedia.org/wiki/Education_in_Iceland
[6] https://www.statice.is/publications/news-archive/education/completion-rate-and-dropout-from-upper-secondary-education-2021/
[7] https://bera-journals.onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1002/rev3.3482
[8] https://wol.iza.org/articles/the-labor-market-in-iceland
[9] https://worldpopulationreview.com/country-rankings/education-rankings-by-country
[10] https://tuoitre.vn/danh-gia-hoc-sinh-quoc-te-pisa-viet-nam-xep-thu-34-trong-81-quoc-gia-20240227152247274.htm#:~:text=Kho%E1%BA%A3ng%2077%25%20h%E1%BB%8Dc%20sinh%20%E1%BB%9F,trung%20b%C3%ACnh%20OECD%3A%2076%25).
[11] https://www.dcvphanxicoxavie.com/vn/Triet-Hoc/Van-De-Tri-Thuc-Theo-Immanuel-Kant.html
[12] https://jays177.sg-host.com/vietnam-rising-the-growing-demand-for-international-students/
[14] https://vnexpress.net/nguoi-viet-du-hoc-nhieu-nhat-dong-nam-a-4712239.html#:~:text=B%C3%A1o%20c%C3%A1o%20Xu%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%20ch%C3%ADnh,c%C3%B2n%20Th%C3%A1i%20Lan%20ch%E1%BB%89%2032.000.
[15] https://www.vietnam.vn/en/nguoi-viet-du-hoc-nhieu-nhat-dong-nam-a/
[16] https://bimpg.vn/1618-2/
[17] https://e.vnexpress.net/news/news/education/vietnam-leads-southeast-asia-in-sending-students-abroad-report-4712366.html
[18] https://vietnambusinessinsider.vn/vi-sao-viet-nam-luon-nam-trong-top-nhung-nuoc-co-nhieu-du-hoc-sinh-nhat-a24359.html
Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất