Rừng Na Uy: Bản Jazz u sầu của những kẻ lạc lối giữa thanh xuân
"I once had a girl, or should I say, she once had me."
"I once had a girl, or should I say, she once had me."
Bạn có thấy quen không? Đó chính là âm thanh của một thời tuổi trẻ đã mất, và cũng chính là cánh cửa mở vào thế giới của "Rừng Na Uy" - Nơi Haruki Murakami đưa chúng ta vào màn sương mù tối tăm của tuổi trưởng thành.
Đừng đọc "Rừng Na Uy" nếu bạn chỉ đang tìm kiếm một câu chuyện tình yêu hường phấn, hay một cái kết có hậu để ru ngủ tâm hồn. Haruki Murakami không làm thế, thay vào đó ông ném chúng ta vào một cái hố sâu của dục vọng, của cái chết và những bản nhạc Jazz u sầu. Nhưng kỳ lạ thay, chính trong cái hố sâu tăm tối ấy, hàng triệu người trẻ suốt 30 năm qua lại tìm thấy sự an ủi. Và nếu bạn cũng đang cảm thấy lạc lõng giữa dòng người tấp nập, cảm thấy khó thở giữa nhịp sống hiện đại, thì cuốn sách này viết ra là để dành cho bạn.
"Rừng Na Uy" là cuốn tiểu thuyết thứ 05 của Haruki Murakami, được xuất bản lần đầu năm 1987, cuốn tiểu thuyết không chỉ là một hiện tượng xuất bản tại Nhật Bản với hàng triệu bản được bán ra, mà còn là cột mốc quan trọng đưa tên tuổi Murakami vượt ra khỏi biên giới xứ Phù Tang, trở thành một biểu tượng văn hóa đại chúng toàn cầu.

Nguồn ảnh: Nhã Nam
1. Bối cảnh của những kẻ lạc lối: Thập niên 60 và nỗi cô đơn của thời đại
Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, Đế quốc Nhật bản đầu hàng trước quân Đồng minh, mở ra kỷ nguyên hòa bình cho nhân loại, tuy nhiên, trên đống tro tàn của bại trận, một cuộc chiến khác đã âm thầm được châm ngòi, không phải bằng súng đạn, mà bằng chính sự giằng xé trong tâm thức của một thế hệ mới lớn trên chính đất nước này.
Khi thập niên 60 gõ cửa, Nhật Bản đang thực hiện cú nhảy vọt thần kỳ về kinh tế, báo chí quốc tế không ngừng đưa tin về kỳ tích tái thiết mà quốc gia này đã đạt được chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn. Những tòa nhà chọc trời vươn lên che lấp các hố bom cũ, tàu Shinkansen xé gió lao về phía trước, và đỉnh điểm là Thế vận hội Tokyo 1964 trở thành biểu tượng cho sự hồi sinh mạnh mẽ.

Quang cảnh thành phố Tokyo từ tháp truyền hình Tokyo, Nhật Bản thập niên 1960. Nguồn ảnh: United Archives / Getty images.
Nhưng nghịch lý thay, chính trong sự phồn thịnh choáng ngợp và tốc độ công nghiệp hóa nghẹt thở ấy, thế hệ thanh thiếu niên Nhật Bản lại rơi vào một trạng thái lạc lõng chưa từng có, hay nói cách khác là một sự mồ côi về mặt tinh thần.
Đầu tiên và trên hết phải kể đến sự sụp đổ của các giá trị cũ. Thế hệ cha anh họ từng sống và chết vì lý tưởng "Thiên hoàng" và tinh thần "Bushido" (Võ sĩ đạo). Nhưng sau ngày 15 tháng 08 năm 1945, những giá trị thiêng liêng đó bị phủ nhận hoàn toàn để nhường chỗ cho Dân chủ và Chủ nghĩa tư bản kiểu Mỹ. Thế hệ thanh thiếu niên thập niên 60 lớn lên trong sự hoài nghi do họ không thể quay lại niềm tin mù quáng của quá khứ, nhưng cũng chưa hoàn toàn tin tưởng vào sự hào nhoáng thực dụng của hiện tại.
Tiếp theo có thể kể đến áp lực khi xã hội vận hành như một cỗ máy công nghiệp, trong xã hội Nhật Bản thập niên 60 đã bắt đầu hình thành mô hình "Salaryman" (người làm công ăn lương), thường dùng để chỉ những con người cống hiến trọn đời cho công ty như những cỗ máy. Điều đó vô tình khiến cho giới trẻ, những con người ôm nhiều hoài bão đã bị hiện thực tạt vào mặt một gáo nước lạnh khi nhìn thấy tương lai của mình đã được lập trình sẵn theo chu kỳ: học hành điên cuồng, tranh suất vào các đại học danh tiếng, ra trường và làm việc đến kiệt sức, nghỉ hưu sau đó là chờ chết. Chính sự ngột ngạt này đã dẫn đến tâm lý phản kháng, muốn thoát ly nhưng lại bế tắc không phải biết đi về đâu.
Cuối cùng là về cơn bão văn hóa phương Tây và Chủ nghĩa hiện sinh. Nhạc Rock 'n' Roll, Jazz, thời trang, văn học phương Tây và triết học hiện sinh tràn vào Nhật Bản như thác lũ. Những người trẻ tụ tập trong các sàn nhảy Disco, các quán Jazz kissa ám khói, đọc Sartre (Jean-Paul Sartre), Camus (Albert Camus) và tự đặt câu hỏi về ý nghĩa của sự tồn tại. Họ tham gia vào các phong trào sinh viên cực đoan (như Zenkyōtō) hay các cuộc biểu tình chống Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật (Anpo), không hẳn chỉ vì mục đích chính trị, mà còn là để tìm kiếm một cảm giác "được sống", được kết nối giữa một xã hội ngày càng xa lạ.

Giới trẻ Nhật Bản thập niên 1960. Nguồn ảnh: Streetvibe.vn
Nhân vật chính Toru Watanabe nhìn những cuộc biểu tình sinh viên với ánh mắt của một kẻ bàng quan, thậm chí có phần hơi giễu cợt. Chính sự tách biệt này đã làm nổi bật lên một bi kịch khác của thế hệ, đó không gì khác ngoài sự mất kết nối.
Giữa một xã hội đang gào thét đòi thay đổi, cả đất nước bước vào quá trình tái thiết đầy nghiêm ngặt, nơi im lặng, kỷ luật và sự đồng thuận tập thể được đề cao hơn tất cả. Khi đó, đã có những cá nhân chỉ khao khát tìm được một người thực sự hiểu mình, tìm được con đường bản thân thực sự muốn theo đuổi, để rồi nhận ra điều đó khó khăn biết nhường nào.
2. Rừng Na Uy và sự ảnh hưởng của phương Tây đối với văn phong của Haruki Murakami
Nếu bạn là một người đọc văn học Nhật Bản truyền thống nói riêng như Kawabata Yasunari và Mishima Yukio hay văn học phương Đông nói chung thì rất có thể bạn sẽ thấy Haruki Murakami như một kẻ "ngoại lai", điều mà sau này chính ông cũng đã thừa nhận. Haruki Murakami lớn lên với văn học phương Tây như một cái nôi tinh thần, dần dà ông bắt đầu đắm mình trong văn hóa trời Tây, đọc F. Scott Fitzgerald, Truman Capote và nghe nhạc Jazz, Rock.

Ảnh chân dung nhà văn Haruki Murakami. Nguồn ảnh: The Guardian.
“Không có kimônô, bonsai, hay chiếu tatami trong tiểu thuyết của Haruki Murakami. Tác phẩm của ông được viết với một sự sùng kính văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa đại chúng Mỹ những năm 1950 - 1960. Nếu không kể những cái tên chỉ địa danh và một số thức ăn, thì các nhân vật của Murakami chẳng khác nào đang sống ở Santa Monica vậy.” - Lewis Beale, Los Angeles Times.
Trong xuyên suốt "Rừng Na Uy", có không ít các tác phẩm văn học hay các bài hát phương Tây được Haruki Murakami nhắc đến, tiêu biểu có thể kể đến như "The Great Gatsby" (Gatsby Vĩ đại) của F. Scott Fitzgerald, "War and Peace" (Chiến tranh và Hòa bình) của Leo Tolstoy hay "The Catcher in the rye" (Bắt trẻ đồng xanh) của J. D. Salinger. Các bản nhạc như "Norwegian Wood (This Bird Has Flown)" (Rừng Na Uy) của The Beatles, "Scarborough Fair" (Hội chợ Scarborough) của Simon và Garfunkel, hay những bản nhạc của Miles Davis, của Cream,... tất cả đều là minh chứng rõ nét nhất cho sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây lên tác phẩm "Rừng Na Uy".
Với Murakami, chân lý nằm ngoài cái thế giới được sắp đặt sẵn bởi lời nói con người. Do vậy, tiểu thuyết của ông thường xuyên nhấn mạnh những giá trị mà âm nhạc mang lại cho đời sống tinh thần của con người, âm nhạc trong văn của Murakami hiện lên như một liều thuốc giải độc cứu cánh cho sự hẹp hòi của những chuẩn mực xã hội.
“Âm nhạc níu giữ thế giới của các nhân vật của ông, soi sáng họ, và danh mục ca khúc được liệt kê trong những trang viết của ông đã ghi dấu điều đó.” - Henry Hitchings, Times Literary Supplement.
Bản thân cái tên "Rừng Na Uy" (Norwegian Wood) cũng được lấy cảm hứng từ một bài hát cùng tên trong album “Rubber Soul” của ban nhạc The Beatles, được ra mắt ngày 03 tháng 12 năm 1965. Khi giai điệu Norwegian Wood vang lên trên chiếc máy bay Boeing 747, nó không chỉ là một bài hát, mà còn là chiếc chìa khóa mở toang cánh cửa ký ức của Toru Watanabe lúc này đã 37 tuổi.

Album "Rubber Soul" của The Beatles.
Với những lời tình ca da diết: “Tôi từng có một cô gái, mà đúng hơn là cô gái ấy đã từng có tôi. Cô dẫn tôi vào phòng, thế có thích không. Và bảo tôi ngồi đâu cũng được, nhưng tôi thấy chẳng có chiếc ghế nào. Khi tỉnh dậy tôi chỉ có một mình. Con chim ấy đã bay đi rồi”.
Viết cho trang Văn học Sài Gòn, nhà phê bình Hà Tùng Sơn đã nhận định:
“Đó là những ca từ rất giản dị. Và Rừng Na Uy cũng vậy, rất giản dị. Mà ở đời, cái gì càng giản dị thì càng vĩ đại; và ngược lại, càng vĩ đại, con người ta càng giản dị. Chỉ có những kẻ ít học hành thì mới làm ra vẻ quan trọng và vì thế, trông chúng càng kệch cỡm. Với cách hiểu ấy, Rừng Na Uy thực sự là một tiểu thuyết kiệt xuất của nước Nhật thời hiện đại. Và ý nghĩa lớn lao nhất của nó là sự cảnh tỉnh đối với bạn đọc trong một xã hội hiện đại. Nói cách khác, đọc Rừng Na Uy, bạn sẽ tỉnh ra rất nhiều điều.”
3. Những nhân vật đại diện cho thời đại
Bước vào tác phẩm, ta như đặt chân vào hành trình của nỗi đơn độc từ sâu thẳm trong tâm thức của con người, ở đó các nhân vật đại diện cho thế hệ trẻ dần trở nên lạc lõng và dần làm quen với sự cô đơn. Và chính từ sự cô đơn ấy, giới trẻ Nhật Bản đã dần đánh mất đi bản ngã của mình, dẫn đến những quyết định sai lầm trong hành trình trưởng thành.
Nhân vật chính Toru Watanabe là một chàng trai nhạy cảm và có góc nhìn quan sát thế giới đầy thú vị. Anh ta quan tâm tới từng chi tiết nhỏ trong đời sống của cậu bạn "Quốc Xã" trong khu học xá, cách thời gian trôi qua từng hành động của những con người khác trong đời sống xã hội. Chính sự nhạy cảm đó đã hình thành cho Toru một cảm thức mạnh mẽ về thế giới xung quanh, và cũng chính sự nhạy cảm đó đã khiến cho tâm hồn Toru trở nên mong manh hơn bao giờ hết, để rồi anh dần rơi vào vực thẳm tinh thần và dần đánh mất bản thân sau khi người bạn thân Kizuki qua đời (tự sát). Từ đó, thông qua góc nhìn của Toru Watanabe, Haruki Murakami đã đưa ra một hiện thực nghiệt ngã về sự tồn tại của cái chết mà ai trong số chúng ta cũng phải chấp nhận:
“Cái chết là có thực, nó không phải là đối nghịch của cuộc sống, mà là một phần của cuộc sống.”
Dần dà Toru ngày càng sa lầy vào sự cô đơn và nỗi thất vọng tột cùng, sau này anh yêu Naoko như một cách để níu giữ lại mối liên kết cuối cùng với Kizuki.
“Này Kizuki ơi, tôi nghĩ bụng, khác với cậu, tớ đã chọn sự sống, và sẽ sống đẹp hết sức mình. Cậu thấy khó là đúng rồi. Nhưng nói thật nhé, tớ thì cũng thế thôi. Thật là khó. Mà tất cả chỉ là tại cậu đã tự vẫn và để Naoko ở lại. Còn tớ thì sẽ không bao giờ làm thế. Tớ sẽ không bao giờ, không bao giờ quay lưng lại với cô ấy. Trước hết là vì tớ yêu cô ấy, và là vì tớ mạnh mẽ hơn cô ấy. Tớ sẽ trưởng thành. Tớ sẽ thành người lớn. Vì tớ phải vậy. Tớ vẫn thường muốn cứ được là mười bảy hay mười tám tuổi mãi nếu có thể. Nhưng bây giờ thì thôi rồi. Tớ không còn là một thiếu niên. Bây giờ tớ đã biết thế nào là trách nhiệm. Tớ không còn là cái đứa như thời chúng mình còn chơi với nhau nữa. Tớ đã hai mươi rồi. Và tớ phải trả giá để tiếp tục sống.”

Nhân vật Toru Watanabe trong phiên bản phim điện ảnh, do Matsuyama Kenichi thủ vai. Nguồn ảnh: Galaxy
Một nhân vật quan trọng khác là Naoko, đồng thời cũng chính là người yêu của cậu bạn Kizuki. Cô là đại diện cho quá khứ, cho vẻ đẹp của nỗi buồn, cho những vết thương không thể chữa lành và cho sự ám ảnh của Toru trong xuyên suốt tác phẩm. Naoko đã bị tổn thương kể từ khi người chị gái của cô tự sát, và sau khi người yêu của cô là Kizuki cũng lựa chọn điều tương tự, Naoko đã dần đánh mất đi căn tính của bản thân. Cô quyết định đem một nửa linh hồn còn lại của mình đến trú ẩn ở một bệnh viện tâm thần mang tên nhà nghỉ Ami.
Naoko đã sớm tự biết tâm trí bản thân méo mó, không nguyên vẹn, tuy nhiên thực tế thì mọi chuyện còn tồi tệ hơn cô nghĩ rất nhiều. Nỗi dằn vặt quấn lấy tâm trí cô mọi đêm, cô luôn bị ám ảnh bởi việc bản thân không thể thỏa mãn với Kizuki trong khi lại dễ dàng làm điều đó với Toru. Vấn đề được đẩy lên đến đỉnh điểm khi Naoko đã hoàn toàn bị sự bi quan và tiêu cực nuốt chửng khiến cho cô không còn thấy được ánh sáng.

Nhân vật Naoko trong phiên bản phim điện ảnh, do Rinko Kukichi thủ vai. Nguồn ảnh: Reuters
Cuộc sống khó khăn sẽ khiến con người ta trở thành kiểu người mà bản thân từng ghét. Midori - một cô gái năng động, mạnh mẽ xuất thân từ gia đình có bố mẹ là chủ hiệu sách nhỏ trong khu phố vắng vẻ. Nhưng vì theo tiêu chuẩn xã hội và ước mong của gia đình, Midori phải vào học một ngôi trường danh giá với chi phí đắt đỏ, dù cho cô không hề muốn thế. Vướng phải sự kìm kẹp và thiếu thốn tình yêu thương từ gia đình, Midori đã cố gắng thoát khỏi vòng lặp cuộc đời khi cô phản bác gia đình và dần có biểu hiện của việc chống đối xã hội.
Điều này được thể hiện rất rõ qua thời trang, suy nghĩ và hành động của Midori, cô nói về tình dục, về đồ ăn, về những ham muốn trần tục một cách tự nhiên mà không hề che đậy. Mái tóc ngắn, chiếc váy ngắn và cặp kính đen của cô là biểu tượng của một cô gái hiện đại thập niên 60: tự do và phóng khoáng. Thế nhưng, tâm hồn của cô vẫn như bị cô lập, tiếng hét cầu cứu vọng từ trong tâm khảm nhưng mặc nhiên không một ai đáp lại. Midori cảm thấy hoang mang và sợ hãi chính mình khi người mẹ mất cô không thể khóc nhưng lại khóc rất nhiều cho sự ra đi của con mèo. Đối với Midori, tình yêu luôn là thứ để chữa lành cho những mất mát, nhưng trớ trêu thay chính tình yêu cũng là điều mà Midori chưa từng có được.

Nhân vật Midori trong phiên bản phim điện ảnh, do Mizuhara Kiko thủ vai. Nguồn ảnh: Galaxy
Cuối cùng, cái chết của Naoko là điều tất yếu để Toru có thể thực sự "lớn lên". Anh buộc phải để lại phần hồn u tối của mình ở lại thế giới bên kia, để bước tiếp vào thế giới thực tại với Midori, một nơi dù không hoàn hảo, nhưng lại là nơi duy nhất để con người có thể tồn tại.
Những nhân vật khác như Reiko hay Nagasawa cũng tương tự, tất cả bọn họ đều đại diện cho hơi thở cô độc của thời đại, nơi mà mỗi cá nhân đều đang vùng vẫy trong tuyệt vọng để tìm kiếm ý nghĩa sự tồn tại giữa một xã hội đang chuyển mình quá nhanh. Nhân vật trong "Rừng Na Uy" chính là lời nhắc nhở mạnh mẽ nhất cho cả thế hệ thanh niên Nhật Bản lúc bấy giờ và sau này rằng hãy bám lấy sự sống, dù nó có tầm thường đến đâu.
4. Cách lồng ghép câu chuyện và trường phái riêng biệt đưa Haruki Murakami trở thành một trong những nhà văn hàng đầu
Thành công của Haruki Murakami không chỉ dừng lại ở những con số khổng lồ về lượng sách bán ra hay vô số giải thưởng danh giá, mà nằm ở việc ông đã kiến tạo nên một vũ trụ, một trường phái riêng biệt, tạo ra một thứ văn chương vừa mang tính toàn cầu, vừa chạm sâu vào ngõ ngách tâm hồn của con người hiện đại.
Điểm khác biệt đầu tiên trong "trường phái Murakami" là sự chối từ những khuôn mẫu truyền thống của văn học Nhật Bản, vốn thường nặng về vẻ đẹp u buồn, tĩnh lặng kiểu truyền thống như Kawabata hay Mishima. Murakami mang đến một làn gió Tây phương đầy phóng khoáng. Văn của ông tràn ngập những tham chiếu văn hóa đại chúng như nhạc Jazz, The Beatles, phim ảnh Hollywood, mì spaghetti và những thương hiệu thời trang. Chính sự "lai căng" có chủ đích này đã xóa bỏ rào cản văn hóa, khiến một độc giả ở New York hay Paris đều cảm thấy nhân vật của ông gần gũi như chính bản thân mình. Ông không viết về một Nhật Bản xa lạ, mà viết về một tâm thức đô thị toàn cầu, nơi con người dù sống giữa tiện nghi vẫn cảm thấy lạc lõng.
Sức hút ma mị của Murakami nằm ở cách ông lồng ghép Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo vào trong bối cảnh đời thường một cách thản nhiên đến kinh ngạc. Trong các tác phẩm như "Kafka bên bờ biển", "Biên niên ký chim vặn dây cót" hay "1Q84", những sự kiện phi lý như mưa cá từ trên trời, người trò chuyện với mèo, hai mặt trăng cùng xuất hiện, hay những cái giếng sâu không đáy,... Không bao giờ bị coi là phép thuật hay những điều kỳ quái, thay vào đó, chúng được miêu tả một cách chân thật, tỉ mỉ và đầy chi tiết.

Ảnh minh họa cơn mưa cá trong "Kafka bên bờ biển."
Trường phái của Murakami còn được định hình bởi kiểu nhân vật nam chính điển hình được trình bày ở ngôi thứ nhất. Họ thường là những người đàn ông bình thường, thụ động, trôi dạt giữa dòng đời, không có quá nhiều tham vọng nhưng có đời sống nội tâm và cái nhìn đời sống phong phú. Họ luôn trong trạng thái mất mát, nào là mất vợ và mất con mèo trong "Biên niên ký chim vặn dây cót", hay mất đi lý tưởng sống trong "Rừng Na Uy". Cách xây dựng nhân vật này đánh trúng vào "huyệt đạo" của con người cuối thế kỉ XX đầu thế kỷ XIX: Cảm giác bất lực trước guồng quay xã hội và nỗi cô đơn hiện sinh. Độc giả tìm thấy sự an ủi khi chứng kiến những nhân vật của Murakami vẫn bình thản nấu ăn, nghe nhạc cổ điển và sống tiếp dù thế giới của họ đang vỡ vụn.
5. Rừng Na Uy và tài năng miêu tả bậc thầy của Haruki Murakami
Sức hút của "Rừng Na Uy" không nằm ở cốt truyện phức tạp mà nằm ở ma lực của bầu không khí được thêu dệt nên từ ngòi bút miêu tả thượng thừa của Haruki Murakami. Không dừng lại ở việc miêu tả không gian, bối cảnh hay mùi hương trong không khí, Murakami còn tả lại được cả tâm trạng của cảnh vật.

Ông sở hữu khả năng biến những hiện tượng vô hình như sự im lặng, nỗi cô đơn hay cái chết thành những thực thể có thể sờ nắm được. Hãy nhớ lại phân cảnh đồng cỏ bạt ngàn gió thổi ở đầu truyện:
"Mùi cỏ, cảm giác hơi giá lạnh của ngọn gió, đường viền của những dải đồi, tiếng sủa của một con chó: đó là những thứ đầu tiên, và chúng hiện ra cực kỳ rõ ràng, tưởng như tôi có thể giơ tay ra và vuốt ve chúng."
Murakami không chỉ tả cỏ xanh và những cơn gió, mà còn là sự trống rỗng của ký ức, nơi cảnh vật rực rỡ nhưng con người lại cảm thấy lạnh lẽo thấu xương.

Các phân đoạn trong phiên bản điện ảnh của "Rừng Na Uy". Nguồn ảnh: Galaxy
Kỹ thuật miêu tả của Murakami đánh mạnh vào đa giác quan như mùi hương của cơn mưa tháng Năm:
“Đó là một chiều Chủ nhật khoảng giữa tháng Năm. Những trận mưa rào ngắn ngủi suốt buổi sáng đã tạnh hẳn, và gió nam đã xua tan những đám mây là là mặt đất. Những đám lá anh đào xanh biếc xào xạc trong không trung, long lanh hắt nắng đi tứ phía.”
Hay đơn giản là vị của quả dưa chuột, âm thanh tiếng đĩa than xoay tròn, hay cảm giác ram ráp của những tấm ga trải giường. Ông đặc biệt xuất sắc trong việc "thẩm mỹ hóa" nỗi buồn, thủ thuật được các thế hệ tác giả, đạo diễn sau này, tiêu biểu như đạo diễn Shinkai Makoto học hỏi. Những cơn mưa trong truyện không chỉ làm ướt đường phố Tokyo, mà dường như đang gột rửa và đồng thời nhấn chìm các nhân vật trong một bể u sầu không đáy. Chính tài năng miêu tả tinh tế, tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ nhặt này đã tạo ra một bộ lọc riêng biệt, khiến thế giới trong "Rừng Na Uy" vừa thực, vừa như một giấc mơ trôi lãng đãng trong sương mù, gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn đẹp đẽ.
6. Lỡ duyên với giải Nobel Văn học
Dù Haruki Murakami từng vinh dự nhận được giải thưởng văn học Franz Kafka và Jerusalem, tuy nhiên "Rừng Na Uy" vẫn là con dao hai lưỡi đối với sự nghiệp của ông trong cuộc đua đến với giải Nobel Văn học danh giá. Một mặt, nó đưa tên tuổi ông vượt ra khỏi biên giới Nhật Bản, biến ông thành một hiện tượng văn học toàn cầu với hàng triệu bản in. Nhưng mặt khác, chính sự phổ biến khủng khiếp ấy lại trở thành rào cản vô hình giữa "Rừng Na Uy" với Viện Hàn lâm Thụy Điển.

Nguồn ảnh: Nobel Prize
Giới phê bình hàn lâm thường có định kiến với những tác phẩm "Best-seller" mang màu sắc đại chúng. Điều đó vô hình trung khiến cho "Rừng Na Uy" bị dán nhãn là một tiểu thuyết lãng mạn, một câu chuyện tình yêu của tuổi trẻ (coming-of-age), quá nhẹ so với sức nặng chính trị hay những thông điệp về nhân loại lớn lao mà giải Nobel thường hướng tới (như cái cách họ trao cho những nhà văn người Nhật và gốc Nhật khác như Yasunari Kawabata, Kenzaburō Ōe hay Kazuo Ishiguro).
Trích nguồn từ trang The Indian Express, tác giả Thanh Thanh viết trên trang VnExpress trong bài viết "Lý do Nobel Văn học 'bỏ quên' Murakami" rằng:
“Giải thưởng này (ý chỉ giải Nobel Văn học), dù có những điểm thiếu nhất quán, vẫn thường trao cho những nhà văn dám đối diện trực tiếp với lịch sử, quyền lực và tiếng nói lương tri tập thể. Kawabata nắm bắt được vẻ đẹp mong manh của đời sống Nhật Bản; Kenzaburō Ōe đối mặt với cảm giác tội lỗi và bất an đạo đức sau chiến tranh. Murakami viết về sự cô lập, tách rời khỏi quốc gia, hệ tư tưởng hoặc chính trị. Nỗi buồn của ông mang tính phổ quát, nhưng góc nhìn dưới lăng kính đạo đức lại không sắc bén. Cuộc đấu tranh của ông hướng vào nội tâm chứ không thể hiện ở bề nổi, đó là điều khiến ông được độc giả yêu mến, nhưng lại ít được các hội đồng vốn luôn tìm kiếm sức nặng về mặt luân lý đánh giá cao.”
Mặc dù Murakami có những tác phẩm đậm chất siêu thực và triết lý hơn như "Biên niên ký chim vặn dây cót" hay "Kafka bên bờ biển", nhưng nó quá khó để tiếp cận với những nhóm độc giả phổ thông, việc mà "Rừng Na Uy" đã làm rất tốt, điều đó vô tình dẫn đến việc cái bóng của nó quá lớn khiến người ta mãi nhớ về ông như một biểu tượng của văn hóa Pop, của sự sành điệu và lối sống phương Tây hóa, hơn là một nhà tư tưởng uyên bác.
Sự lỡ duyên của Haruki Murakami với giải Nobel Văn học là minh chứng cho sự xung đột muôn thuở giữa giá trị đại chúng và thước đo hàn lâm, nơi mà sự yêu mến nồng nhiệt của độc giả đôi khi lại là điểm trừ trong mắt các nhà phê bình văn học.
7. Rừng Na Uy được chuyển thể thành phim điện ảnh
Có thể nhiều người vẫn chưa biết, "Rừng Na Uy" đã được chuyển thể thành phim điện ảnh vào năm 2010. Khi đạo diễn Trần Anh Hùng đưa tiểu thuyết của Haruki Murakami lên màn ảnh rộng, bộ phim đã được ca ngợi do những trải nghiệm về mặt thị giác mà nó mang lại: những khung hình đẹp như thơ, ánh sáng u hoài, và âm nhạc day dứt. Tuy nhiên, với một bộ phận độc giả trung thành của cuốn sách, bộ phim lại là một nỗi thất vọng sâu sắc vì không thể truyền tải được trọn vẹn dòng chảy nội tâm đầy phức tạp của các nhân vật.

Đạo diễn Trần Anh Hùng cũng đã chia sẻ:
"Tôi không tìm cách tái tạo những cảnh trong cuốn tiểu thuyết. Tôi muốn tìm những nơi để có thể ghi lại những hình ảnh rực rỡ nhất có thể."
Nhưng cái cốt lõi của tiểu thuyết Murakami không nằm ở lời thoại hay hành động, mà nằm ở những suy tưởng miên man, những triết lý vụn vặt nhưng sâu sắc của nhân vật "Tôi" khi quan sát thế giới. Điện ảnh, với hạn chế về thời lượng và ngôn ngữ hình ảnh, đã buộc phải cắt bỏ lớp trầm tích tâm lý này, khiến các nhân vật như Naoko hay Midori hiện lên một cách rời rạc.
Trong một bài nhận xét, trang VnExpress đã viết:
“Nói tóm lại, để có thể đón nhận được Rừng Na Uy của Trần Anh Hùng thì tất cả khán giả phải quên hẳn câu chuyện trong tiểu thuyết và đón nhận như một tác phẩm đứng độc lập hoàn toàn thì mới có thể "cảm" được... Phim nhận được hai luồng ý kiến trái chiều sau khi công chiếu. Một nửa bày tỏ sự thất vọng và cho rằng Rừng Na Uy chẳng khác nào một bức tranh đẹp nhưng vô hồn, trong khi nửa còn lại cảm thấy hài lòng với những cảm xúc mà phim đem lại.”
Nhân vật Naoko trong phim dường như chỉ là một cô gái bị bệnh tâm lý, hay khóc lóc và bị ám ảnh với việc làm tình, cô mất đi vẻ đẹp mong manh, siêu thực và nỗi đau sâu thẳm khó gọi tên như trong truyện. Bên cạnh đó mối quan hệ giữa các nhân vật bị đẩy nhanh khiến khán giả chưa kịp cảm nhận được sức nặng của sự gắn kết thì bi kịch đã ập đến. Bộ phim đã vô tình biến một tác phẩm văn học giàu triết lý hiện sinh thành một bộ phim tình cảm ướt át đúng nghĩa, mang trên mình vẻ đẹp bề ngoài nhưng thiếu đi cái lạnh nội tâm và sự cô độc mênh mang - thứ vốn là linh hồn của nguyên tác.

Nguồn ảnh: Kenh14.vn
Viết cho tờ Thể thao & Văn hóa, nhà báo Minh Đức nhận định:
“Xem phim Rừng Na Uy, và cũng giống như lần đầu tiên, lần thứ hai, lần thứ ba sau khi đọc cuốn truyện này, cảm xúc của tôi bị đóng băng khi bước chân ra khỏi rạp. Có lẽ nếu gọi đó là một bộ phim hay thì sẽ hơi gượng ép. Nhưng phần nào nó đã thành công trong việc mang lại cho tôi bầu không khí đặc trưng trong nguyên tác của Haruki Murakami.”

Đạo diễn Trần Anh Hùng. Nguồn ảnh: The Influencer
8. Rừng Na Uy và sự ám ảnh như một vết thương không bao giờ khép miệng
"Rừng Na Uy" không phải là cuốn sách bạn đọc xong rồi gấp lại và quên đi. Thay vào đó, nó để lại một dư chấn tâm lý, một sự ám ảnh dai dẳng kéo dài nhiều năm tháng. Sự ám ảnh này đến từ việc Murakami đã chạm vào một vết thương chung của nhân loại là "Nỗi sợ bị bỏ lại phía sau."
Tác phẩm không cho một cái kết có hậu, nhưng cũng không hoàn toàn bi kịch, nó là một dấu chấm hỏi treo lơ lửng. Hình ảnh Toru đứng giữa bốt điện thoại, gọi cho Midori và tự hỏi bản thân đang ở nơi nào chính là tiếng vọng của sự lạc lối hiện sinh.
“Nắm chặt ống nghe trong tay, tôi ngẩng lên và nhìn quanh xem có những gì bên ngoài trạm điện thoại. Tôi đang ở đâu? Tôi không biết. Không biết một tí gì hết. Đây là nơi nào? Tất cả những gì đang lướt nhanh qua mắt tôi chỉ là vô số những hình nhân đang bước đi về nơi vô định nào chẳng biết. Tôi gọi Midori, gọi mãi, từ giữa ổ lòng lặng ngắt của chốn vô định ấy.”
Sự ám ảnh về cái chết cũng hiện lên như một điểm sáng của tác phẩm. Cái chết của Kizuki, Naoko hay Hatsumi không ồn ào, thay vào đó nó diễn ra lặng lẽ như một điều tất nhiên, khiến người đọc nhận ra sự mong manh tột cùng của sự sống.

Nguồn ảnh: Libero
Sự ám ảnh thứ hai xoay quanh vấn đề tuổi trẻ. Tác phẩm như một lời tiễn biệt dành cho tuổi thanh xuân. Đặc biệt, ở những độc giả nằm trong độ tuổi vị thành niên và vừa thành niên — những người dễ bị cuốn vào cảm giác mất mát vĩnh viễn sẽ cảm thấy một nỗi sợ âm thầm đối với việc phải trưởng thành. Đó là nỗi sợ rằng trong cuộc sống ta buộc phải trải qua sự ra đi của những người mình yêu thương, trải qua việc đánh mất lý tưởng sống, để rồi vẫn phải tiếp tục bước tiếp với những khoảng trống không thể nào lấp đầy trong tâm hồn.
"Rừng Na Uy" giống như một chiếc giếng sâu trong khu rừng ký ức, mỗi khi nhìn xuống, ta lại thấy bóng dáng cô đơn của chính mình phản chiếu dưới đáy nước tối tăm. Và đó cũng chính là lý do tại sao, dù tác phẩm có đau đớn, có trần trụi như thế nào thì hàng triệu người vẫn tìm đến nó để được an ủi trong nỗi buồn chung của thời đại.
Ngoài lề một chút thì theo thống kê vào năm 2006, cứ 7 người Nhật thì sẽ có 1 người đọc "Rừng Na Uy". Điều đó chứng minh dù cho bạn là ai, dù bạn ở đâu và làm gì, một khi bạn đã cầm "Rừng Na Uy" lên và lật ở một trang bất kỳ nào, chắc chắn bạn sẽ bị nó cuốn hút.

Nguồn ảnh: Nhã Nam
9. Tình dục trong Rừng Na Uy - là bức "dâm thư" hay tiếng thét của sự cô độc?
Dù gặt hái được đáng kể thành công, song tác phẩm không tránh khỏi những tranh cãi khi có một bộ phận độc giả cho rằng yếu tố tình dục trong "Rừng Na Uy" đã bị lạm dụng quá nhiều, khiến cho cuốn tiểu thuyết không khác gì một bức "dâm thư" kể lại hành trình Watanabe Toru phát sinh quan hệ với các cô gái.

Nguồn ảnh: Galaxy
Tuy nhiên, việc nhanh chóng gán mác "dâm thư" cho "Rừng Na Uy" hay các tác phẩm khác của Haruki Murakami là một nhận định có phần phiến diện, hời hợt, cũng như bỏ qua hầu hết các tầng ý nghĩa triết học và tâm lý sâu sắc mà nhà văn đã cài cắm thông qua các hành vi tình dục. Để hiểu cho đúng, chúng ta cần bóc tách vai trò của tình dục trong văn chương của ông dưới các góc độ khác.
9.1. Tình dục là phương tiện giao tiếp khi ngôn ngữ bất lực
Trong thế giới của Murakami, các nhân vật thường rơi vào trạng thái mất kết nối. Họ cô đơn cùng cực và không thể diễn đạt nỗi đau của mình bằng lời nói. Khi đó, tình dục trở thành ngôn ngữ cuối cùng để họ tìm kiếm sự đồng cảm hoặc chỉ đơn giản là để xác nhận sự tồn tại của đối phương.
Trong "Rừng Na Uy", cảnh quan hệ giữa Toru và Naoko vào sinh nhật của cô không mang màu sắc của nhục dục đê mê. Đó là một sự cứu rỗi. Naoko đang vỡ vụn sau cái chết của Kizuki, và Toru đã dùng cơ thể mình như một chiếc neo để giữ cô lại với thực tại. Đó là hành động của sự chia sẻ nỗi đau hơn là thỏa mãn ham muốn.

Nguồn ảnh: Galaxy
Murakami miêu tả tình dục rất trần trụi, nhưng thường thiếu vắng sự nồng nhiệt. Nó thường đi kèm với nỗi buồn, sự vụng về, hoặc cảm giác trống rỗng. Nếu là "dâm thư" nhằm kích thích độc giả, tác giả sẽ không miêu tả những dư vị chua chát và cô độc đến thế sau mỗi cuộc ân ái.
9.2. Tình dục như một phương thức để đấu tranh giữa sự sống và cái chết
Tình dục trong Rừng Na Uy đóng vai trò như một nghi thức khẳng định sự sống. Trước cái chết bao trùm, các nhân vật lao vào tình dục như một bản năng sinh tồn để chống lại sự hư vô.
“Trong khoảng mười tháng kể từ lúc Kizuki chết đến kỳ thi của tôi, tôi không biết mình đang ở đâu trong cái thế giới này. Tôi bắt đầu ngủ với một người trong đám bạn gái ở trường, nhưng quan hệ ấy chẳng được đến sáu tháng.”
Hãy nhìn vào Midori, ta sẽ thấy những khao khát tính dục trần trụi mà cô nói ra không hề thô tục, thay vào đó nó đại diện cho sức sống mãnh liệt, cho dòng máu nóng vẫn đang chảy trong người.
Ngoài ra không thể không kể đến phân cảnh gây tranh cãi nhất nhì tác phẩm đó là khi Toru ngủ với Reiko - người phụ nữ hơn mình nhiều tuổi ở cuối truyện, không phải bao biện nhưng thực chất đây là một "nghi thức tang lễ" không hơn không kém. Khi cả hai đều vừa mất đi người thân yêu là Naoko, để rồi họ tìm đến nhau để an ủi, để giải phóng những dồn nén, để làm sạch quá khứ và giúp nhau có đủ sức mạnh để bước tiếp. Nếu nhìn nó dưới lăng kính đạo đức thông thường, ta sẽ thấy có phần phản cảm. Nhưng dưới lăng kính hiện sinh, đó không khác gì sự nương tựa của hai con thú bị thương giữa một khu rừng u tối.
9.3. Phẩm giá của người phụ nữ liệu có thực sự bị hạ thấp?
Phẩm giá của người phụ nữ cũng là một chủ đề được bàn tán sôi nổi khi nhắc đến hầu hết các tác phẩm của Haruki Murakami, người ta chỉ trích ông về việc trong các tác phẩm tồn tại một số lượng lớn nhân vật nữ mà hầu như chỉ để phục vụ cho vấn đề tình dục.
Tiêu biểu là vào ngày 23 tháng 11 năm 2024, nhà văn 75 tuổi lúc bấy giờ đã có cuộc trò chuyện với tờ Guardian về tính phức tạp, hình tượng phụ nữ trong văn chương của ông cùng mối liên hệ giữa nhà văn và người hâm mộ. Cũng trong buổi phỏng vấn, phóng viên nhắc lại vụ ông bị nữ nhà văn Mieko Kawakami chỉ trích vào năm 2017, cho rằng những tác phẩm của ông có số lượng lớn nhân vật nữ "tồn tại chỉ dành cho các hoạt động tình dục", bị "hiến tế" cho mục đích của nam chính.

Nhà văn Mieko Kawakami (trái) và tiểu thuyết gia Haruki Murakami trong một sự kiện ở Tokyo năm 2019. Nguồn ảnh: AP.
Trả lời phóng viên, Murakami đã nói:
“Sách của tôi bị chỉ trích rất nhiều trong những năm qua và tôi không thể nhớ hết bối cảnh xuất hiện các lời nhận xét đó. Tôi cũng không để tâm chúng quá mức. Về Mieko, đó là bạn thân của tôi và là người phụ nữ thông thái. Vì thế, tôi chắc chắn bất kỳ lời phê bình nào của cô cũng chính xác. Nhưng thú thật, tôi không nhớ rõ cô ấy từng nói gì. Khi bàn về phụ nữ và tiểu thuyết của mình, tình cờ là tôi có lượng độc giả nam - nữ khá cân bằng. Điều này khiến tôi rất vui.”
Bên cạnh đó, tôi cũng từng đọc được những bình luận của các độc giả nam lẫn nữ trên một số diễn đàn văn học hay các bài viết về sách của Haruki Murakami, rằng ông hay viết về các mối quan hệ giữa nữ và nữ (như việc Reiko bị cô bé học đàn động chạm cơ thể trong "Rừng Na Uy", hay rõ nét hơn là Sumire và Miu trong "Người tình Sputnik") là để thỏa mãn "fetish" của Murakami nói riêng và của cánh đàn ông nói chung. Tuy nhiên, lập luận này đã bỏ qua cách ông xây dựng vị thế của nhân vật nam cũng như hoàn cảnh của các nhân vật nữ.
Đôi chút về mối quan hệ giữa Reiko và cô bé mà cô đã nhận dạy đàn. Đây là một trong những trường đoạn đen tối và gây ức chế nhất trong tác phẩm, giải thích cho việc Reiko – một người phụ nữ có gia đình êm ấm lại rơi xuống vực thẳm và phải vào trại điều dưỡng Ami.
Reiko khi đó đang có một cuộc sống bình thường: chồng tốt, con ngoan. Còn cô bé học sinh kia khoảng 13 tuổi, rất xinh đẹp, có tài năng piano thiên bẩm nhưng lại là một kẻ nói dối bệnh hoạn với tâm lý vặn vẹo. Một ngày nọ, cô bé đến học đàn nhưng đã viện cớ để xin ở lại nhà Reiko.
“Con bé nói mọi chuyện ở nhà nó đều chẳng ra sao. Nó không thể yêu được cha mẹ nó và họ cũng không yêu gì nó. Cha nó cặp kè với một người đàn bà khác và ít khi ở nhà, và chuyện đó làm mẹ nó phát điên rồi đổ hết lên đầu con gái. Bà ấy đánh nó hầu như hàng ngày, nó rất ghét phải về nhà. Đến đó, con bé thực sự như than khóc và mắt nó đẫm lệ, cái cặp mắt đẹp đẽ ấy của nó. Cảnh tượng ấy đủ làm cho thánh thần cũng phải khóc theo.”
Nghe vậy Reiko đã tin tưởng và để cô bé ở lại. Thế nhưng trong lúc Reiko đang lơ là, cô bé đã chủ động tiếp cận Reiko theo cách đầy toan tính tình dục, và Murakami đã miêu tả chi tiết này không phải là một cảnh ân ái lãng mạn, mà là một cảnh tấn công tình dục ngược đúng nghĩa. Cô bé đã chủ động cởi đồ, đụng chạm vào cơ thể Reiko trước. Về phần Reiko, vốn có tiền sử tâm lý yếu, đã rơi vào trạng thái "đóng băng". Cô không thể đẩy ra cũng không thể phản kháng, một cảm giác vừa ghê tởm vừa tê liệt.
Ngay sau đó, khi bị Reiko tát một cái vào mặt, cô bé nọ đã lật ngược ván cờ. Cô ta chạy về khóc lóc với hàng xóm và gia đình, bịa đặt một cách trắng trợn rằng chính Reiko là người đã dụ dỗ và lạm dụng tình dục mình trong một mối quan hệ Lesbian cưỡng ép. Với vẻ ngoài ngây thơ, cô bé khiến mọi người tin sái cổ. Điều đó khiến Reiko bị xã hội lên án, tâm lý vốn đã không ổn định của cô đã vỡ vụn hoàn toàn dẫn đến việc gia đình ly tán, Reiko bị suy sụp hoàn toàn và phải vào trại tâm thần, tức nhà nghỉ Ami.
Có thể thấy, ở đây yếu tố "nữ - nữ" trong "Rừng Na Uy" hoàn toàn không mang tính chất thỏa mãn dục vọng hay fetish. Nó rõ ràng là biểu hiện của cái ác ẩn sau vẻ ngoài ngây thơ. Murakami dùng chi tiết này để khắc họa sự mong manh của con người trước sự tàn độc vô lý của cuộc đời. Reiko là nạn nhân của sự thao túng, và yếu tố tình dục ở đây là vũ khí hủy diệt chứ không phải là sự thăng hoa.
Theo quan điểm của tôi, có thể dễ dàng phản biện lại những quan điểm cho rằng Murakami viết về "Lesbian" để "thỏa mãn ham muốn cá nhân" như sau:
Trước hết là việc thiếu sự khoái lạc: Các cảnh "nữ - nữ" của ông thường kết thúc bằng bi kịch, sự chia cắt, hoặc nỗi ám ảnh tâm lý. Không có chỗ cho "happy ending" hay sự khoái lạc đơn thuần nào ở đây.
Tiếp theo là về góc nhìn của sự bất lực: Murakami thường đặt nhân vật nam (như Toru trong "Rừng Na Uy" hay K trong "Người tình Sputnik") ở vị trí người quan sát bất lực. Họ không thể tham gia, không thể cứu vãn, và cũng không thể chiếm hữu. Điều này đi ngược lại tâm lý "male gaze" (cái nhìn của nam giới) thông thường trong văn hóa phẩm khiêu dâm - nơi đàn ông là trung tâm của sự hưởng thụ.
Đối với Murakami, người phụ nữ và người phụ nữ đại diện cho một thế giới bí ẩn tuyệt đối mà đàn ông không bao giờ hiểu được. Đó là ẩn dụ cho sự cô độc vĩnh cửu của con người, rằng dù cho ta có yêu ai, ta cũng không bao giờ thực sự bước vào được thế giới nội tâm trọn vẹn của họ. Do đó, chi tiết Reiko bị quấy rối hay tình yêu của Sumire dành cho Miu là những nốt trầm buồn bã của thân phận con người, chứ không thể đơn thuần chỉ là những trang văn khiêu dâm rẻ tiền.
Cuối cùng, tình dục trong văn của Haruki Murakami giống như chiếc chìa khóa mở vào căn phòng tối của tiềm thức. Ông không viết để khiêu dâm, thay vào đó ông viết để lột trần sự yếu đuối, nỗi sợ hãi và khát khao được kết nối của con người hiện đại.
Gọi "Rừng Na Uy" là "dâm thư" cũng giống như việc nhìn thấy một bức tranh khỏa thân nghệ thuật và chỉ thấy nó trần truồng chứ không thấy được vẻ đẹp của hình khối và ánh sáng. Đó là sự nhầm lẫn tai hại giữa sự trần tục của phương tiện và sự thanh cao của mục đích.
10. Kết
Gấp lại những trang sách của "Rừng Na Uy", thứ còn đọng lại sau cùng không phải là những tranh cãi về nhục dục, cũng không phải là đám sương mù u ám của cái chết, mà là một nỗi buồn đẹp đẽ và sự ủi an thầm lặng. Haruki Murakami đã không viết một câu chuyện để ru ngủ chúng ta bằng những giấc mơ màu hồng. Ông buộc chúng ta phải nhìn thẳng vào những vết sẹo trần trụi của tuổi trưởng thành, nhìn vào sự mất mát, nỗi cô độc và sự chới với giữa dòng đời. Nhưng chính trong cái "hố sâu" tăm tối ấy, con người ta lại tìm thấy ánh sáng. Ta cũng sẽ nhận ra rằng, Toru, Naoko, Midori hay Reiko không chỉ là những nhân vật hư cấu, mà họ là những mảnh vỡ của chính chúng ta.
Chúng ta, ai rồi cũng sẽ có một khu rừng Na Uy của riêng mình, một nơi cất giấu những ký ức đau buồn và những người ta yêu thương nhưng không thể giữ lại. Có người sẽ chọn cách ngủ mãi trong khu rừng ấy như Kizuki hay Naoko, nhưng cũng có người, dù cho trái tim mang đầy vết xước, vẫn chọn cách để bước ra ngoài ánh sáng. Và tôi rất mong tất cả mọi người sẽ đều chọn bước tiếp, chọn tiếp tục đấu tranh với cuộc sống từng ngày.
Cuốn sách này là lời nhắc nhở tàn nhẫn nhưng cũng đầy nhân văn rằng cái chết là một phần của sự sống, nhưng kỳ thực thì sự sống mới là đích đến cuối cùng. Chúng ta phải sống, phải ăn uống, phải yêu thương và phải bước tiếp, không phải vì cuộc đời này hoàn hảo, mà bởi vì chúng ta vẫn còn may mắn được hít thở bầu không khí của ngày hôm nay.
Nếu bạn đang cảm thấy lạc lõng, hãy cứ để "Rừng Na Uy" là người bạn đồng hành trong những đêm không ngủ. Hãy để giai điệu của The Beatles vang lên một lần nữa, hãy cứ khóc thật lớn, nhưng sau đó hãy hứa với chính bản thân mình, rằng khi trời sáng, bạn sẽ lại can đảm bước vào dòng người tấp nập kia, và sống một cuộc đời trọn vẹn nhất có thể. Bởi vì, nói cho cùng, chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống mà thôi.
"Dù đêm tối đến đâu, cuối cùng mặt trời cũng sẽ mọc." - Victor Hugo, Những người khốn khổ.
Một số trích dẫn hay từ tác phẩm:
1. “Cái chết là có thực, nó không phải là đối nghịch của cuộc sống, mà là một phần của cuộc sống”
2. “Đừng tự trách móc mình, chỉ những kẻ vứt đi mới làm như thế.”
3. “Làm gì có ai thích cô đơn, chỉ là không thích thất vọng mà thôi.”
4. “Sau khi chúng ta tìm kiếm, rồi tổn thương, sau đó rời đi, lại còn có thể hoàn toàn tin tưởng tình yêu như trước kia, đây chính là một loại dũng khí.”
5. “Thật khủng khiếp khi làm tổn thương người mà ta thật sự quý mến mà lại không biết như thế.”
Nguồn tham khảo:
- Lewis Beale, Los Angeles Times.
- Henry Hitchings, Times Literary Supplement.
- Hà Tùng Sơn, Trang Văn học Sài Gòn.
- Minh Đức, Tờ Thể thao & Văn hóa
- Thanh Thanh, Bài viết “Lý do Nobel Văn học ‘bỏ quên” Murakami”, Trang VnExpress (Theo trang The Indian Express)
- Phương Thảo, Bài viết “Nhà văn Haruki Murakami không quan tâm sách bị chỉ trích”, Trang VnExpress (Theo tờ Guardian)
- Khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Sư phạm TP.HCM, Tiểu luận GK Văn học phương Đông II “Tiếp cận tiểu thuyết ‘Rừng Na Uy’ của Haruki Murakami từ Mỹ học truyền thống Nhật Bản Mono no Aware.”
Bài viết này là góc nhìn của tôi, một người đã trót yêu cái không khí ẩm ướt của Rừng Na Uy.

Sách
/sach
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
