Mở đầu

“Chúng tôi biết thế giới sẽ không bao giờ như cũ được nữa. Có người cười, có người khóc, nhưng hầu hết chúng tôi đều im lặng. Lúc ấy tôi chợt nhớ lại một câu từ Bhagavad-Gita, một cuốn Kinh Hindu. Vishnu đang cố thuyết phục vị vương tử làm điều mình cần làm; và để thuyết phục anh ta, thần biến đổi thành hình dạng ngàn tay, và nói rằng ‘Giờ ta đã trở thành Tử thần, kẻ hủy diệt các thế giới’. Tôi cho là tất thảy người ở đó đều nghĩ như vậy.”
Trong một buổi phỏng vấn truyền hình năm 1965, Julius Robert Oppenheimer đã nói như vậy khi được hỏi về suy nghĩ của ông lúc vụ thử bom hạt nhân Trinity thành công. Vũ khí nguyên tử có lẽ là một trong những phát minh đáng sợ nhất mà con người từng làm ra. Với việc có đến hàng chục ngàn đầu đạn hạt nhân đang tồn tại, nhân loại luôn luôn phải đối mặt với hiểm họa từ chiến tranh nguyên tử, mà hậu quả có lẽ sẽ xóa sổ cả nền văn minh. Bom hạt nhân đích thực là vũ khí của Tử thần; và cha đẻ của nó đã khiếp sợ chính phát minh của mình, sau khi chứng kiến những gì thứ vũ khí này có thể làm được ở Hiroshima và Nagasaki. Bom hạt nhân đã hủy hoại cuộc đời của Robert Oppenheimer, cách này hoặc cách khác. Vậy, cha đẻ của bom hạt nhân là người như thế nào, và duyên nợ giữa ông với phát minh đáng sợ của mình ra sao?

Thuở thiếu thời

Robert Oppenheimer sinh ngày 22/4/1904 tại New York trong một gia đình người Do Thái. Gia đình của Oppenheimer vốn ở Đức, nhưng đã di cư sang Mỹ từ năm 1888. Cha của ông là Julius, một người làm trong ngành nhập khẩu hàng dệt may. Ông Julius đến Mỹ với hai bàn tay trắng, nhưng nhờ tài năng và sự chăm chỉ mà dần trở nên giàu có. Mẹ của ông là bà Ella, một họa sĩ gốc Baltimore. Gia đình Oppenheimer sống tại một căn hộ trên tầng 11 tòa nhà số 155 phố Riverside Drive, Manhattan kể từ năm 1912.
Nhờ gia đình có điều kiện và bố mẹ đều là những người tài năng, có học thức; nên Oppenheimer được chú trọng giáo dục từ nhỏ và về nhiều mặt. Ban đầu, Oppenheimer học ở trường dự bị Alcuin, rồi đến năm 1911 chuyển đến Trường Xã hội Văn hóa Đạo đức. Oppenheimer là một học sinh tài năng, quan tâm nhiều tới văn học và ngôn ngữ Anh, Pháp; đồng thời yêu thích khoáng vật học. Oppenheimer đặc biệt thông minh, khi ông hoàn thành chương trình của cả lớp 3 và lớp 4 trong vòng 1 năm; rồi đến lớp 8 thì nhảy lớp khi mới học được nửa chương trình. Trong những năm cuối ở trung học, Oppenheimer bắt đầu để ý và đam mê hóa học. Ông vào học tại Harvard năm 1922, và bên cạnh chuyên ngành hóa; trường còn yêu cầu sinh viên theo học cả lịch sử, văn học, triết học hoặc toán học. Vì nhập học muộn 1 năm do phải đi điều trị bệnh, nên Oppenheimer bù đắp bằng cách đăng ký theo học 6 lớp mỗi kỳ. Ngay trong năm đầu Oppenheimer đã được nhận dự thính sau đại học về vật lý dựa trên kết quả tự học, nghĩa là ông không phải qua các khóa cơ bản và có thể học luôn các khóa chuyên sâu. Từ một khóa về nhiệt động lực học do nhà vật lý học nổi tiếng Percy Bridgman đứng lớp, Oppenheimer bắt đầu dần yêu thích và bị lĩnh vực vật lý thực nghiệm cuốn hút. Oppenheimer tốt nghiệp loại ưu chỉ sau 3 năm và nhờ đó có cơ hội để sang châu Âu tiếp tục phát triển việc học tập và nghiên cứu.

Học tập và nghiên cứu ở châu Âu

Năm 1924, Oppenheimer được nhận vào Christ’s College - một trường thuộc hệ thống Đại học Cambridge. Sau đó, ông viết thư cho Ernest Rutherford để xin được đến làm việc tại Phòng thí nghiệm Cavendish. Bridgman cũng viết thư giới thiệu Oppenheimer, nhưng có nói rằng Oppenheimer khá vụng về trong phòng thí nghiệm, nên dường như thế mạnh của ông là vật lý lý thuyết chứ không phải vật lý thực nghiệm. Rutherford nhận thư và không thấy quá ấn tượng, nhưng Oppenheimer vẫn đến Cambridge với hy vọng rằng sẽ nhận được một vị trí khác. Cuối cùng, nhà vật lý học nổi tiếng người Anh là J.J Thompson đồng ý nhận Oppenheimer, với điều kiện ông phải hoàn thành khóa đào tạo thực nghiệm cơ bản trước. Tuy nhiên, Oppenheimer lại có mối quan hệ cực kỳ tệ với người phụ trách đào tạo ông là Patrick Blackett. Mọi chuyện nghiêm trọng đến mức sau này, ông mới kể cho bạn nghe rằng mình từng tẩm hóa chất độc vào táo rồi để trên bàn của Patrick, nhưng rất may không ai ăn phải.
Oppenheimer là một người tài năng, đặc biệt là trong vật lý, nhưng đi kèm với đó là những vấn đề khá nghiêm trọng về tinh thần khiến người thân và bạn bè ông lo lắng. Oppenheimer nghiện thuốc lá nặng, hay có thói quen bỏ ăn khi tập trung cao độ và thường xuyên bị trầm uất. Điều này khiến bạn bè và người thân của ông cho rằng Oppenheimer có vấn đề thực sự nghiêm trọng về mặt tâm lý. Thế nhưng bản thân Oppenheimer cũng không quan tâm tới những vấn đề của mình, khiến ông không có nhiều bạn bè. Thậm chí ông còn từng bảo với em trai mình rằng: “Anh cần vật lý hơn là bạn bè.”
Năm 1926, Oppenheimer rời Cambridge để đến nghiên cứu ở Đại học Gottingen dưới sự hướng dẫn của Max Born - một nhà vật lý và toán học nổi tiếng người Đức. Gottingen bấy giờ được xem là một trong những trung tâm hàng đầu về vật lý lý thuyết trên thế giới. Cũng tại đây, Oppenheimer đã gặp và kết bạn với những người sau này rồi cũng sẽ cực kỳ thành công là Werner Heisenberg, Pascual Jordan, Wolfgang Pauli, Paul Dirac, Enrico Fermi và Edward Teller. Ở Gottingen, Oppenheimer tiếp tục thể hiện tài năng đáng chú ý, thậm chí nhiều lúc ông còn hăng hái thái quá trong các buổi thảo luận. Sau khoảng 1 năm ở đây, Oppenheimer nhận bằng Tiến sĩ khi mới 23 tuổi, dưới sự hướng dẫn của Max Born. Trong thời gian ở đây, Oppenheimer cũng đã công bố nhiều bài báo đóng góp quan trọng cho lĩnh vực cơ học lượng tử. Với những thành công đáng chú ý trong thời gian nghiên cứu ở châu Âu, Oppenheimer trở về Mỹ vào tháng 9/1927 và chính thức bắt đầu sự nghiệp giảng dạy và nghiên cứu của mình.

Sự nghiệp ở Mỹ

Sau khi trở về Mỹ, Oppenheimer nhận được học bổng nghiên cứu của Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Hoa Kỳ tại Caltech vào tháng 9/1927. Tuy nhiên, thầy cũ của Oppenheimer là Bridgman cũng muốn ông tới Harvard làm việc, nên cuối cùng các bên thỏa thuận để ông làm việc ở cả hai nơi. Oppenheimer sẽ ở Harvard trong niên khóa 1927, và đến niên khóa 1928 sẽ chuyển đến Caltech. Mùa thu năm 1928, Oppenheimer có dịp thăm viện nghiên cứu tại Đại học Leiden, Hà Lan của Paul Ehrenfest - một nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng người Áo. Sau đó ông tiếp tục đến Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ tại Zurich để làm việc với một nhà vật lý người Áo khác là Wolfgang Pauli về các lĩnh vực thuộc cơ học lượng tử và phổ liên tục. Quãng thời gian ngắn đó đã góp thêm phần khiến tên tuổi và tài năng của Oppenheimer lan rộng hơn nữa, giúp ích rất nhiều cho sự nghiệp của ông.
Trở lại Mỹ, Oppenheimer đồng ý trở thành phó giáo sư tại Đại học California, Berkeley; đồng thời vẫn tiếp tục giảng dạy ở Caltech. Tại Berkeley, Oppenheimer đạt được nhiều thành công và trở thành một thần tượng của phần lớn sinh viên. Nhiều sinh viên và đồng nghiệp ngưỡng mộ sự uyên bác và hiểu biết rộng rãi của ông. Oppenheimer có xu hướng cực kỳ nồng nhiệt và sôi nổi trong những buổi thảo luận, nhưng lại tỏ ra lạnh lùng và khó gần ở những chốn đông người. Chính vậy nên nhiều người có ấn tượng rằng Oppenheimer là một thiên tài lạnh lùng và khắc kỷ. Tuy nhiên, tính cách khá dị thường cộng với những vấn đề vốn có về tinh thần của Oppenheimer cũng khiến không ít người có ác cảm với ông. Họ cho rằng ông là một tay khoa trương màu mè và có phần nguy hiểm. Tuy vậy, đa phần sinh viên đều tỏ ra ngưỡng mộ ông, thậm chí đến mức bắt chước cách đi đứng, nói năng và làm việc của Oppenheimer.
Sự nghiệp của Oppenheimer thăng tiến nhanh chóng, đến năm 1936 ông đã được thăng lên học hàm giáo sư chính thức với mức lương $3300 một năm (tương đương khoảng gần $70000 vào năm 2022). Trong lĩnh vực nghiên cứu, Oppenheimer cũng đạt được nhiều thành tựu đáng giá ở nhiều mảng khác nhau. Ông đã có những khám phá quan trọng về thiên văn học lý thuyết (đặc biệt là về thuyết tương đối tổng quát và lý thuyết hạt nhân), vật lý hạt nhân, phổ học, và lý thuyết trường lượng tử, mở rộng lý thuyết này vào điện động lực học lượng tử.
Một trong những điểm đặc biệt của Oppenheimer là ông quan tâm tới rất nhiều lĩnh vực, không đơn thuần bó buộc trong khoa học. Ví dụ năm 1933 ông bắt đầu học tiếng Phạn. Oppenheimer sau đó đọc cuốn Kinh Bhagavad-Gita bằng tiếng Phạn gốc, và ông coi đây là một trong những cuốn sách góp phần hình thành triết lý nhân sinh của mình. Đam mê của Oppenheimer với những lĩnh vực thần bí và siêu hình lớn đến mức một người bạn và đồng nghiệp thân thiết của ông có bảo rằng:
“Oppenheimer quá mức am hiểu những lĩnh vực này, vốn nằm ngoài truyền thống khoa học, ví dụ như mối quan tâm của ông tới tôn giáo, nhất là tôn giáo Hindu, dẫn tới một cảm giác về sự thần bí của vũ trụ bao quanh ông như sương mù [...] [Ông quay lưng] khỏi những phương pháp cứng nhắc, thô thiển của vật lý lý thuyết để đi vào lĩnh vực thần bí của trực giác rộng mở.”
Tuy nhiên, trong lúc sự nghiệp của Oppenheimer tiếp tục phát triển, thì cả thế giới bắt đầu chìm vào vòng xoáy bom đạn của Chiến tranh thế giới thứ 2. Và cũng chính từ cuộc chiến này, mà cuộc đời Oppenheimer đã rẽ sang một hướng khác. Tất cả bắt đầu khi ông tham gia vào dự án nổi tiếng bậc nhất cuộc đời mình - Dự án Manhattan.

Dự án Manhattan

Vào thời điểm Chiến tranh thế giới thứ 2 sắp nổ ra, Albert Einstein đã ký vào bức thư của Leo Szilard gửi cho Tổng thống Mỹ Franklin D.Roosevelt. Bức thư bày tỏ nỗi lo về nguy cơ Đức Quốc xã có thể đang nghiên cứu phát triển "một loại bom mới cực kỳ nguy hiểm" và khuyến cáo nước Mỹ nên có hành động đối phó. Oppenheimer cũng tán đồng với nỗi lo ngại này của Einstein, và ông tin rằng nếu thực sự Đức Quốc xã thành công, chắc chắn Hitler sẽ không ngần ngại sử dụng nó.
Tất nhiên là ta biết rằng cho đến cuối cuộc chiến, Dự án chế tạo vũ khí hạt nhân của Đức Quốc xã đã không thành công. Nguyên nhân cho sự thất bại này có thể nói đơn giản là mặc dù tiềm lực của Đức Quốc xã rất mạnh; nhưng dự án thất bại vì những chính sách và cung cách làm việc của họ. Những chính sách cực đoan của họ, nhất là việc bài trừ dân Do Thái đã khiến rất nhiều nhà khoa học tài năng rời bỏ Đức Quốc xã. Bên cạnh đó, Đức Quốc xã giàu mạnh, nhưng chưa thấm vào đâu so với Mỹ. Vào thời điểm cuối của dự án Manhattan, có đến gần 100 ngàn người tham gia - con số khổng lồ này là không tưởng với Dự án của Đức Quốc xã. Hơn nữa, cung cách làm việc của Đức Quốc xã thường là để cho nhiều nhóm cạnh tranh trong cùng một việc để hướng tới kết quả. Theo lẽ thường thì cách này sẽ thúc đẩy sự tiến bộ và đột phá trong công việc, nhưng trong việc chế tạo một thứ vũ khí hoàn toàn mới như thế này thì chính cách ấy lại phản tác dụng. Các nhóm nhà khoa học sẽ tập trung vào cạnh tranh nhau hơn là quan tâm đến mục tiêu tối thượng. Điều đó, cộng với những sai lầm của nhà khoa học đứng đầu của Đức Quốc xã là Werner Heisenberg đã khiến cho thứ vũ khí hạt nhân của họ không bao giờ có thể thành hình. Chính các nhà khoa học của Đức Quốc xã cũng đã thừa nhận như vậy sau chiến tranh. Nhưng vào thời điểm năm 1941, rõ ràng không ai có thể đoán được chuyện đó; cho nên lẽ đương nhiên là nước Mỹ phải gấp rút tham gia vào cuộc chạy đua này.
Ngày 9/10/1941, trước khi Mỹ chính thức tham chiến vào Chiến tranh thế giới thứ 2, Tổng thống Roosevelt đã phê chuẩn một chương trình khẩn cấp phát triển bom nguyên tử. Tháng 6/1942, Dự án Manhattan được thành lập để đảm trách phần việc liên quan tới dự án bom nguyên tử; bắt đầu với việc chuyển giao trách nhiệm từ Văn phòng Nghiên cứu và Phát triển sang cho quân đội. Trung tướng Leslie Groves được bổ nhiệm làm chỉ huy Dự án Manhattan, và ông chọn Robert Oppenheimer làm người lãnh đạo phòng thí nghiệm vũ khí bí mật của dự án.
Oppenheimer và Groves quyết định rằng để đảm bảo an ninh và sự liền lạc, họ cần đặt phòng thí nghiệm bí mật tại một địa điểm hẻo lánh. Oppenheimer cuối cùng đề xuất việc thiết lập phòng thí nghiệm tại Los Alamos, New Mexico do khu vực này rất lý tưởng và phù hợp cho dự án. Dự án Manhattan ban đầu chỉ được dự đoán sẽ tiêu tốn khoảng $6000 và vài trăm người tham gia; tuy nhiên dần dần quy mô của nó mở rộng đến không tưởng. Cho đến năm 1945, số người tham gia vào Dự án Manhattan lên tới con số 6000 người, và Washington đã tiêu tốn ít nhất 2 tỷ đô cho dự án - những con số khổng lồ, để nói lên tầm vóc của nó.
Trong năm 1943, chủ yếu các nỗ lực phát triển của dự án hướng vào một vũ khí phân hạch dạng súng dùng plutonium có mật danh "Thin Man". Những nghiên cứu ban đầu về tính chất của plutonium sử dụng plutonium-239 sinh ra từ cyclotron, vốn hết sức tinh khiết nhưng chỉ có thể chế tạo ở những lượng rất nhỏ. Khi Los Alamos nhận được những mẫu plutonium, họ nhận ra một vấn đề: plutonium từ lò phản ứng có nồng độ plutonium-240 cao hơn, khiến cho nó không dùng làm thiết bị dạng súng được. Tháng 7 năm 1944, Oppenheimer bỏ thiết kế dạng súng để chuyển sang vũ khí dạng nổ và hướng đi này tỏ ra khá hứa hẹn. Oppenheimer quyết định dốc toàn lực tập trung vào việc thiết kế vũ khí dạng nổ. Sau nhiều nỗ lực, thiết bị sử dụng phương pháp nổ phức tạp hơn và có tên “Christy” được hoàn thành và phê duyệt ngày 28/2/1945.
Ngày 16/7/1945, Oppenheimer cùng các thành viên Dự án Manhattan tiến hành thử loại vũ khí hạt nhân mới tại sa mạc Jornada del Muerto, cách New Mexico khoảng 56km về phía đông nam. Oppenheimer đặt tên cho vụ thử này là “Trinity”, cái tên được ông lấy cảm hứng từ bài Thánh Ca số 14 của John Donne - một bài thơ mà ông yêu thích. Vụ thử Trinity tạo ra vụ nổ có sức công phá 20 kiloton (tương đương 20.000 tấn TNT). Ngay khi quả bom phát nổ, chớp sáng lóa xuất hiện rồi một tiếng nổ long trời vang lên, khiến các nhân chứng tưởng rằng họ đang chứng kiến một trận động đất dữ dội. Vụ thử tạo nên một đám mây hình nấm khổng lồ với chiều cao lên tới 12.000m. Sóng xung kích có thể đo được ở cách vụ thử 160km. Thậm chí ở cách xa vụ thử gần 300km, cửa kính nhà vẫn bị vỡ, hoặc nghe thấy âm thanh dội lại. Oppenheimer về sau nhắc lại rằng khi chứng kiến vụ nổ, ông có liên tưởng tới một dòng thơ trong Bhagavad-Gita:
“Nếu ánh sáng của ngàn thái dương bùng lên một lúc trên bầu trời, nó sẽ giống như sự huy hoàng của đấng vĩ đại.”
Với tất cả những người chứng kiến uy lực khủng khiếp của quả bom nguyên tử, có lẽ họ thật sự cảm thấy giống như câu trích dẫn của Oppenheimer trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình năm 1965:
“Giờ ta đã trở thành Tử thần, kẻ hủy diệt các thế giới.”
Nhân loại chưa từng sở hữu thứ vũ khí nào có uy lực khủng khiếp và đáng sợ hơn. Bỗng chốc, họ nắm trong tay thứ có thể hủy diệt nền văn minh nhân loại. Quân đội Mỹ giờ chính thức có trong tay thứ vũ khí mạnh nhất thế giới. Rất nhanh chóng, họ muốn đem thứ vũ khí này vào sử dụng ngay. Ngày 17-7-1945, giữa cuộc họp của lãnh đạo phe Đồng minh tại Potsdam, Đức, Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Harry Truman nhận được tờ giấy có dòng chữ: “Đứa bé đã chào đời” - ám chỉ vụ thử Trinity của họ đã thành công. Gần 1 tháng sau đó, thế giới lần đầu tiên chứng kiến sức tàn phá kinh hoàng của bom nguyên tử.
Ngày 6/8/1945, quả bom nguyên tử thứ nhất mang tên “Little Boy” được thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản. Người ta ước tính khoảng 140 ngàn người đã chết ngay lập tức vì vụ nổ; và hàng chục, hàng trăm ngàn người khác chết dần vì nhiễm phóng xạ trong những năm tháng sau đó. 3 ngày sau, quả bom thứ hai mang tên “Fat Man” được thả xuống Nagasaki, khiến 74 ngàn người chết. 6 ngày sau khi Nagasaki bị đánh bom, Nhật Bản chính thức đầu hàng vô điều kiện, và Chiến tranh thế giới thứ 2 chấm dứt.
Oppenheimer cùng nhiều nhà khoa học khác tỏ ra rất buồn trước vụ ném bom Nagasaki, vì họ cho rằng việc đó không cần thiết, khi mà quả bom ở Hiroshima đã cho thấy sức mạnh kinh hoàng của vũ khí hạt nhân rồi. Oppenheimer bày tỏ cảm giác tội lỗi về phát minh của mình. Ông nói rằng bom nguyên tử đã “cho thấy sự tàn nhẫn, vô nhân tính và độc ác của chiến tranh hiện đại”. Ông đi tới Washington ngày 17 tháng 8 để đưa tận tay một lá thư tới Bộ trưởng Chiến tranh Henry Stimson bày tỏ sự bất mãn của ông cũng như ước vọng cấm vũ khí hạt nhân. Tháng 10 năm 1945 Oppenheimer được phép gặp gỡ Tổng thống Harry Truman. Buổi gặp diễn ra tệ hại, sau khi Oppenheimer nói rằng ông cảm thấy "bàn tay tôi vấy máu". Nhận xét đó làm Truman nổi giận và chấm dứt cuộc gặp. Truman thậm chí còn nói rằng Oppenheimer là “một thằng chó đẻ”.
Tuy nhiên, trong những năm sau khi chiến tranh đã kết thúc, Oppenheimer lại có những phát biểu khẳng định rằng ông không có trách nhiệm gì với tấn thảm kịch xảy ra ở Hiroshima và Nagasaki. Oppenheimer thừa nhận rằng ông cùng các cộng sự đã góp phần tạo nên những thay đổi trong lịch sử nhân loại; nhưng việc sử dụng chúng như thế nào là trách nhiệm của chính phủ, không phải các nhà khoa học. Dù vậy, Oppenheimer và nhiều nhà khoa học đương thời cũng tin rằng thế giới phải có hành động nhằm đảo bảo an ninh hạt nhân; và Liên Hợp Quốc cần ban hành một chương trình để ngăn chặn các cường quốc bước vào cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân.

Sau chiến tranh và giai đoạn cuối đời

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Oppenheimer trở về Caltech, nhưng sớm nhận ra bản thân không còn tâm trí để giảng dạy. Đến năm 1947, ông nhận lời trở thành Viện trưởng của Viện Nghiên cứu Cao cấp ở Princeton, New Jersey. Quãng thời gian này, ông quay lại tiếp tục nghiên cứu vật lý lý thuyết, và xuất bản một số bài báo có giá trị; đồng thời giúp đỡ nhiều nhà khoa học khác trong công việc nghiên cứu của họ.
Tuy nhiên, quãng thời gian sau khi chiến tranh kết thúc cũng chứng kiến những rắc rối của Oppenheimer với chính phủ Mỹ; chủ yếu là do việc ông gần gũi với một số thành viên của Đảng Cộng sản - trong đó có vợ và em trai. Thực tình thì FBI cũng đã theo dõi Oppenheimer từ đầu những năm 1940. Cả nhà và văn phòng của ông có gắn thiết bị thu âm, điện thoại của ông bị nghe lén và thư từ của ông bị giám sát. Oppenheimer cũng phải ra điều trần trước chính phủ một số lần. Điều này dẫn đến việc có nhiều quan chức yêu cầu Tổng thống Eisenhower thu hồi quyền miễn trừ an ninh của Oppenheimer và ngăn không cho ông tiếp xúc với những thông tin mật của chính phủ. Ngày 21/12/1953, Chủ tịch Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Lewis Strauss nói riêng với Oppenheimer rằng quyền miễn trừ an ninh của ông đã bị ngưng, và khuyên ông từ chức Chủ tịch Hội đồng Tư vấn chung của Ủy ban. Tuy nhiên ông chọn không từ chức mà yêu cầu một buổi điều trần. Có nhiều nhà khoa học và thành viên trong chính phủ, quân đội đã ra làm chứng bảo vệ cho ông. Tuy nhiên, do sự không nhất quán trong lời khai và những hành vi thiếu cân nhắc của ông khi điều trần; nên rốt cuộc quyền miễn trừ an ninh của Oppenheimer cũng bị hủy bỏ, chỉ 1 ngày trước khi hết hạn.
Không còn tham gia vào công việc liên quan đến chính phủ, Oppenheimer quay về với việc giảng dạy, nghiên cứu. Oppenheimer cũng tham gia với nhiều nhà khoa học và học giả khác như Albert Einstein, Bertrand Russell, Joseph Rotblat thành lập Viện hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Thế giới. Ông thường xuyên đi châu Âu và Nhật Bản để thuyết trình về lịch sử khoa học, vai trò của khoa học trong xã hội. Tháng 9 năm 1957, nước Pháp trao tặng ông Bắc Đẩu bội tinh, và ngày 3 tháng 5 năm 1962, ông được bầu chọn làm thành viên ngoại quốc của Hội Hoàng gia Anh. Đến năm 1963, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy quyết định trao tặng Oppenheimer Giải Enrico Fermi - một hành động nhằm mục đích phục hồi danh dự cho ông sau những rắc rối liên quan tới chính phủ trong quá khứ. Việc này ít nhiều chỉ mang tính hình thức, do Oppenheimer vẫn không có quyền miễn trừ an ninh và không có ảnh hưởng nào lên các chính sách.
Vào cuối 1965 bác sĩ phát hiện Oppenheimer bị ung thư vòm họng. Ông phải trải qua các cuộc phẫu thuật rồi đến hóa trị và xạ trị, nhưng đều không thành công. Oppenheimer rơi vào hôn mê ngày 15/2/1967; và qua đời tại nhà riêng ở Princeton, New Jersey 3 ngày sau đó, thọ 62 tuổi. Buổi mặc niệm được tổ chức tại Hội trường Alexander tại Đại học Princeton một tuần sau đó, với sự có mặt của hơn 600 người là cộng sự trong giới khoa học, chính trị và quân đội. Thi hài Oppenheimer được hỏa táng và tro của ông được thả xuống biển.

Kết

Robert Oppenheimer là một con người tài năng, một nhà khoa học xuất chúng. Ông có nhiều đóng góp cho các ngành khoa học hiện đại. Thế nhưng đến mãi sau này, thứ nhiều người nhớ đến nhất khi nói đến Oppenheimer vẫn là việc ông là người phụ trách Dự án Manhattan, là người đã thay đổi lịch sử nhân loại mãi mãi. Với nhiều người, Oppenheimer là ví dụ cho sự ngây thơ của những nhà khoa học khi nghĩ rằng mình có thể kiểm soát cách chính phủ sử dụng phát minh của họ. Với những người khác, ông là ví dụ cho sự khó khăn và phức tạp trong những vấn đề liên quan tới trách nhiệm đạo đức của nhà khoa học trong thế giới thời đại hạt nhân. Thế nhưng rốt cuộc, bản chất của Oppenheimer vẫn là một nhà khoa học, và ông được học trò và đồng nghiệp nhớ đến như một nhà nghiên cứu xuất chúng, một người thầy tận tâm, nhà sáng lập của vật lý lý thuyết hiện đại của Mỹ. Oppenheimer chưa bao giờ đạt giải Nobel, nhưng những đóng góp của ông với khoa học hiện đại vẫn là không thể phủ nhận. Và đóng góp nổi tiếng nhất của ông - bom nguyên tử - là thứ đã thay đổi dòng chảy lịch sử mãi mãi. Robert Oppenheimer, đã và sẽ luôn được nhớ tới là cha đẻ của vũ khí hạt nhân. Cuộc đời sau này của ông bị chính thứ mình góp phần tạo ra ảnh hưởng. Có lẽ đó là lời nguyền, là cái giá phải trả, khi ông đã tạo ra vũ khí của Tử thần.