[Review sách] Hai vợ (Hồ Biểu Chánh) - nghĩa tình thời loạn lạc
Hồ Biểu Chánh là nhà văn thành công ở nhiều thể loại, song nhắc đến ông, người ta luôn nhớ ngay đến một nhà tiểu thuyết với những áng...
Hồ Biểu Chánh là nhà văn thành công ở nhiều thể loại, song nhắc đến ông, người ta luôn nhớ ngay đến một nhà tiểu thuyết với những áng văn đậm chất Nam bộ mộc mạc không trộn lẫn. Tiểu thuyết của ông là một bức tranh toàn cảnh sinh động, phong phú về cuộc sống người dân Nam bộ từ nông thôn đến thành thị trong những năm đầu của thế kỉ XX. Đó là bức tranh xã hội trong buổi giao thời: từ bối cảnh cho đến tâm lí con người được diễn tả hấp dẫn và xúc động dưới ngòi bút tài tình Hồ Biểu Chánh. Hầu hết, tiểu thuyết của ông đều có cốt truyện đơn giản mang tư tưởng chủ đạo là: ở hiền thì gặp lành, ác thì gặp ác, lấy “đạo đức làm khuôn mẫu, lấy luân lý làm nền tảng” (Phong Cầm). Một trong số những truyện Hồ Biểu Chánh viết, Hai Vợ có lẽ là truyện lấy đi nước mắt của nhiều độc giả.

Nhà văn Hồ Biểu Chánh, nguồn: internet
Truyện “Hai Vợ” kể về cuộc đời trắc trở của Hữu Hào, một chàng trai học giỏi, ngay thẳng, sống ở thời kỳ chiến tranh chống Pháp. Hào được nhà bá hộ chọn làm rể, lấy cô Quyên, nhưng chưa kịp cưới thì phải đi lính. Trong thời gian Hào vắng mặt, Quyên tận tụy chăm sóc cha Hào, còn gia đình bá hộ giúp dân chống giặc. Sau nhiều năm, Hào trở về cùng Thị Chức — người đã cứu sống anh và sinh con cho anh. Sự việc khiến ông Thuận giận dữ, nhưng cuối cùng nhờ lòng vị tha của cô Quyên và sự hòa giải của ông bá hộ, mọi người đều tha thứ, Hào giữ cả hai người phụ nữ.
Chữ nhân nghĩa trung hiếu đặt lên hàng đầu
Từ đầu chí cuối, câu chuyện luôn đặt chữ nhân nghĩa và trung hiếu lên hàng đầu. dù có cơ hội hạnh phúc riêng, song Hữu Hào vẫn lo cho cha, lo cho nghĩa vụ với nước, chịu hy sinh bản thân mình. Cả xóm Tre đều là những người lính dũng cảm, ngay cả gia đình ông Bá hộ là người giàu sang nhưng không ích kỉ bán nước hay chảnh chọe mà ngược lại còn rất hảo hán, yêu nước. Ông cho người dân mượn lúa về ăn, mướn thầy dạy võ và nuôi thợ rèn để dạy võ, làm binh khí cho dân làng đánh giặc với tâm niệm "Trong nước có giặc cả thảy thần dân phải lo cứu nước cứu dân, tốp chinh chiến ở ngoài, tốp phòng bị ở trong, kẻ ra trận người cấy cày, mới có cơm gạo nuôi nhau mà đánh giặc chớ." Ông Hữu Thuận cũng là một người nông dân giàu tự trọng, dù chỉ có một con trai là Hữu Hào, ông vẫn dặn con "Để người ta chết cho mình sống mà an hưởng vui sướng thì xấu hổ chớ sao. Họ đã khinh bỉ, mà họ còn chửi rủa, chịu làm sao được." Khi con trai đi bặt vô âm tin, ông cũng không nề hà oán trách số phận trái ngang.
Phận đàn bà con gái như Quyên và Thị Chức cũng là những người đặt nhân nghĩa lên hàng đầu. Quyên cảm phục Hữu Hào xả thân cứu nước mà ở nhà phục dịch ông Thuận dù cả hai chưa cưới hỏi, Thị Chức thì hết lòng cưu mang Hữu Hào và nghĩ rằng mình đang giúp một người thương binh vì nước. Cả cha lẫn con đều mang ơn hai người phụ nữ gọi Hữu Hào là chồng.

Không chỉ trong tình cảm với đất nước mà trong đời sống riêng tư, tất cả nhân vật trong Hai vợ đều khiến người đọc không cầm được nước mắt vì cách giải quyết vấn đề văn minh, trọng chữ nghĩa tình. Đầu tiên là ông bá hộ, tuy nhà giàu nhưng không hề kênh kiệu mà sống rất giản dị, ông mến Hữu Hào vì tuy nghèo mà giỏi giang, ông thương yêu Hữu Hào hết mực. Khi biết tin Hào có vợ con khi đi lính, ông không giận ngay vì lừa dối con gái mình mà ông muốn truy xét lí do rõ ràng. Khi biết đầu đuôi câu chuyện, ông không chỉ thương con gái mình mà còn thương cho cả Hào và cô vợ lẻ. Ông thương Hào vì xả thân cứu nước bị thương nặng phải để người khác cưu mang, vì ơn nghĩa mà nên duyên với Thị Chức và xúc động khi nghe Thị Chức bị cha chồng là ông sui với mình đuổi đi. Chính ông là người cảm thương không muốn Thị Chức bỏ đi vì sợ cô về xứ mà mang tiếng là chồng bỏ, bị xã hội xa lánh. Cũng chính ông là người nài nỉ xin ông Thuận cho Chức làm vợ bé, sẵn lòng nhận Chức làm con - dù chính Chức là người "đoạt hôn" con gái ruột của mình. Có một chút giận nhưng tình thương cao thượng và tình nghĩa làm người khiến ông lúc nào cũng sáng trí, luôn sống vì người khác hết thảy. Ông bá hộ là nhân vật làm chúng ta thay đổi cái nhìn về những người chủ đất giàu có trong lục tỉnh xưa.
Có lẽ vì có gia đình nhân hậu, thương người mà cô Quyên cũng thừa hưởng tính cách ấy từ cha mẹ mình. Vừa mòn mỏi đợi chồng chưa cưới, vừa hầu hạ cha chồng mắt mù nhưng Quyên chưa bao giờ oán thán. Chính cô cũng là người tình nguyện lui bước nhường lại Hào cho "tiểu tam" vì không muốn sống hèn hạ giành giật tình yêu dù trong lòng cũng buồn tủi, cảm động hơn là khi Quyên chứng kiến cảnh Thị Chức phải xa lìa con cái mà về xứ. Quyên đuổi theo trong đêm mời cho được hai người quay lại - trong xã hội xưa hay nay, chồng chung đều là thứ mà không phụ nữ nào mong muốn nhưng với Quyên, cô lại sẵn lòng giang tay ra giúp đỡ Thị Chức vì cô thương cho phận phụ nữ, thường cho gia cảnh của Hào và có lẽ đó còn là một con đường cô chọn để sau này gia đạo của mình hạnh phúc. Đây là nhân vật mà mình đánh giá là cao thượng nhưng cũng có số phận buồn nhất truyện.
Thị Chức tuy mang tiếng vợ bé nhưng cũng có tự trọng không kém. Cô Thị Chức là người có ơn, có nghĩa, có tình với Hữu Hào khi nuôi nấng, cưu mang anh mỗi ngày. Cô chọn cách ra đi trong lặng lẽ, không tranh giành, chỉ mang theo nỗi tủi nhục và trắc ẩn. Cái chi tiết “bỏ con lại” khiến ai cũng xót vô cùng — một người mẹ phải chia lìa máu mủ của mình vì danh nghĩa, vì luân lý xã hội. Vì hiểu sự hiện diện của mình làm gia đạo người khác bất hòa, Thị Chức cũng lên ghe về xứ mình và cũng chính sự hiểu chuyện và tự trọng của cô khiến mọi người đều thương và chấp nhận. Hữu Hào cũng có nỗi khổ tâm khi kết duyên với Chức, trong lúc sắp chết đến nơi, anh bám víu vào Thị Chức và nảy sinh tình cảm với người đã cứu và chăm sóc mình lúc hoạn nạn. Cả hai vì tình vì nghĩa mà yêu nhau cũng là chuyện thường tình, khiến cái lỗi lầm của Hào có thể khiến người khác hiểu mà dung thứ.
Ông Hữu Thuận tuy mắt mù nhưng trí sáng, ông thương và biết ơn Quyên - người con dâu đã nuôi mình trong suốt 6 năm ròng rã biệt âm vô tính với Hào. Vì thương và sợ Quyên tổn thương, ông quyết tâm lạnh lùng xua đuổi, hắt hủi Hào và Thị Chức dù biết đó là người có ơn với con mình. Không phải vì ông cứng cỏi, không có tình người mà vì ông cũng như Hào - chịu ơn ai liền phải đền ơn người đó. Cuối cùng, ai cũng nói ông có Phước vì có hai người con dâu hiếu thuận, một đứa cháu trai kháu khỉnh và người con trai tưởng chừng đã chết lại quay về.
Chung quy lại, ai nghe hết câu chuyện đều sẽ hiểu cái đạo lý nhân tình mà Hồ Biểu Chánh muốn gửi gắm: “Nếu con người biết nhìn nhau bằng lòng nhân hậu, đối đãi với nhau bằng tình người thì mọi oan trái đều có thể hóa giải.” Trong tất cả cái kết, ông luôn chọn những cái kết trọn vẹn nhất, cao thượng nhất cho tất cả mọi người, không để ai bị bỏ lại cả.
Bản tình ca đạo lý buồn
Tuy nói là cao thượng, không bỏ ai lại phía sau, nhưng với một độc giả ở thời hiện đại, tôi tin chắc rằng cuộc đời không có gì là vẹn toàn. Ví như câu chuyện Hai vợ này, dù cái kết có nhân văn và ấm lòng đến mấy, tôi cũng thương cho phận ba người là Quyên - Hữu Hào - Thị Chức. Đặc biệt là cô Quyên, tôi cho rằng số phận cô là hẩm hiu nhất trong các nhân vật.
Nếu nhìn bằng góc nhìn hiện đại, ai cũng thấy cô Quyên thật sự là người chịu thiệt thòi nhất. Cô có tất cả — gia cảnh, danh phận, đức hạnh — nhưng cuối cùng lại chẳng có được tình yêu thật sự của người mình đợi. Cái danh “vợ lớn” mà ông bá hộ sắp đặt cho cô, nghe thì sang trọng, nhưng thực ra chỉ là một danh nghĩa để hợp lễ giáo; bên trong lại là nỗi cô đơn đến nhức nhối. Cô hết lòng tận tụy cho cả hai bên trọn vẹn nhưng trong hôn nhân, điều quan trọng nhất vẫn là tình cảm vợ chồng cô lại không có. Cô bị trói buộc bởi chuẩn mực đạo đức xưa, phải hi sinh cảm xúc thật của mình. Xã hội lúc đó không cho phép cô chọn điều cô muốn — cô chỉ có thể “chấp nhận” để mọi người được yên. Và đau nhất là cô phải chứng kiến người mình yêu sống hạnh phúc với người khác, trong khi bản thân phải mỉm cười chúc phúc. Nên tôi nghĩ Hồ Biểu Chánh có lẽ cũng hơi bỏ qua phần khắc họa phần tâm lý sâu thẳm đời thường của một con người, có phần quá lý tưởng hóa các nhân vật sao cho giống kiểu nhân vật lý tưởng như Lục Vân Tiên.Bi kịch của Hào và Thị Chức có lẽ cũng tương tự, là bi kịch của tình yêu do gia đình sắp đặt buộc phải nghe theo. Lẽ từ chối ban đầu Hào viện cớ sợ chiến tranh phải bỏ lại vợ con mà xin khoan cưới vội nghe rất hợp ý nhưng thực chất là vì Hào không có tình cảm - và chắc rằng cũng không ai muốn cưới người mà mình chưa tiếp xúc, gặp gỡ bao giờ. Phận làm con không dám trái ý cha mẹ cho đến khi gặp được người mình thực sự yêu thương đã khiến Hào trở thành con người bội bạc hai lòng, nếu không có sự bao dung của những người xung quanh có lẽ Hào cũng phải sống phận đời đau khổ, bị xua đuổi như Thị Chức. Tuy nhiên, vì Hào và Thị Chức cuối cùng cũng được "miễn cưỡng" tác hợp nên duyên trọn vẹn, nên bi kịch này có thể hóa giải được chứ không như cô vợ lớn Quyên. Nếu câu chuyện này là chuyện thời nay, chắc chắn Hào và Thị Chức sẽ bị xã hội lên án, phải mang cái danh lừa gạt, dan díu và "bé ba" vì rõ đã biết đối phương có đính ước nhưng vẫn ăn ở với nhau như vợ chồng.
Kết lại, "Hai vợ" là câu chuyện phải đọc từng chữ mới lấy trọn nước mắt và thấm thía rằng tại sao lại nói Hồ Biểu Chánh là nhà văn có tấm lòng hồn hậu, đề cao sự chân thành của nhân phẩm, sống hết lòng vì tình nghĩa cho người khác. Thậm chí đến những bi kịch tưởng chừng như không thể cứu vãn, như cái tên "Hai vợ" đã nói lên tất cả - ông cũng phải cố gắng làm sao mà "bẻ" nó quay lại con đường ngay thẳng mới ưng bụng. Đọc những câu chuyện ấy, ta không khỏi suy ngẫm về lối sống đề cao tình nghĩa của nhân dân Nam Bộ xưa.

Sách
/sach
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

