Lịch sử loài người đã trải qua hàng ngàn năm phát triển, cùng với kinh tế - xã hội thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng từng bước hình thành từ thô sơ cho tới phức tạp và ngày càng lộn xộn. Thời xa xưa, tổ tiên du mục của con người đi khắp nơi, tôn thờ các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí; giai đoạn định cư thì thờ vong linh của tổ tiên, Thần tướng, Thượng đế… sau đó các nhà hiền triết, thánh nhân ra đời tạo lập các tôn giáo khác nhau hướng con người đến chân hạnh phúc, đạt bình an trong tâm hồn. Riêng ở Việt Nam, theo tác giả Đào Duy Anh ghi trong quyển Việt Nam Văn hóa Sử cương, khi các tôn giáo từ Ấn Độ, Trung Quốc du nhập vào như Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo, tín ngưỡng và tôn giáo của người dân dần trở thành một “mớ lộn xộn”, không thể phân biệt được nữa. Đáng nói là Đức Phật Thích Ca ra đời để truyền bá đạo giác ngộ, đạo này cần có trí tuệ, nhưng vì bị ảnh hưởng của “mớ lộn xộn” nêu trên nên có không ít hoạt động mê tín dị đoan được cho là thuộc về Phật giáo.
Để hiểu rõ về mê tín thì trước hết hãy bàn về cái nghĩa đối lập của nó, chánh tín. Đức Phật nói rõ những điều Ngài dạy cho chúng sanh đều là những gì Ngài đã thấy, biết sau khi hoàn toàn giác ngộ, gọi là lẽ thật hay chân lý. Tùy trình độ chúng sanh cao hay thấp, Ngài sẽ nói Pháp nông hay sâu. Đối với mọi lớp người từ người không có học thức như người thợ hớt tóc cho tới hàng vương giả, đến hàng có trí tuệ cao siêu như Bồ-tát đều có thể học được pháp Phật. Đây chính là hành động của Đức Phật nhằm xóa bỏ giai cấp ở Ấn Độ thời bấy giờ. Bà-la-môn là giai cấp cao nhất, cũng là quốc giáo của Ấn Độ, tôn giáo hay giai cấp này không cho phép nhận những người thuộc giai cấp Chiên-đà-la (giai cấp dưới cả nô lệ) vào giáo. Như vậy, những người có lòng tin với những lẽ thật mà Đức Phật đã thấy, đã dạy và theo đó thực hành để đạt được cái thấy như Ngài thì gọi là chánh tín. Ngược lại, mê tín chính là sự tin tưởng mù quáng vào những lời nói mê hoặc lòng người, tất nhiên những thứ đó không phải lẽ thật, dùng để lừa bịp thế gian. Hoặc giả mê tín thể hiện ở những người cũng tin Phật, tin những điều Phật nói nhưng không nhận ra lẽ thật, nghĩa là biết suông câu chữ mà không hề suy tư, chiêm nghiệm lẽ thật nhiệm mầu trong lời dạy mà chỉ tin càng, tin bướng. Chính vì vậy, mê tín dễ dẫn con người đi vào con đường mù tối, trở nên tham lam, ích kỷ, khiếp nhược, mất tự tín. Khi đầu óc con người không còn sáng suốt, ngày qua tháng lại chỉ mụ mị trong những điều huyền hoặc thì làm sao tiếp nhận nổi khoa học, tiếp nhận nền văn minh nhân loại để giúp đất nước phát triển; điều đó hoàn toàn đi ngược lại với chủ trương của Đảng và Nhà nước là xây dựng Việt Nam thành một quốc gia “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”
Thật ra, không phải đến khi Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo du nhập vào nước ta thì tín ngưỡng, tôn giáo mới trở thành một “mớ lộn xộn”. Điều đó đã bắt đầu từ đất nước khởi nguyên của Nho giáo và Đạo giáo, chính là Trung Hoa. Từ “mớ lộn xộn” đó đã dẫn dắt con người đến với mê tín dị đoan mà vai trò truyền bá của của Đạo giáo là lớn nhất. Theo lời tác giả Trần Trọng Kim ghi trong quyển Đạo giáo thì “Đạo giáo nguyên trước là một môn triết học rất cao kỳ, sau thành ra một cái tôn giáo có lắm điều rất huyền hoặc, vô lý, làm cho sự mê tín của những dân ở Viễn Đông này càng ngày càng thêm nhiều ra, dẫu đến bây giờ, tuy Đạo giáo không thịnh hành cho lắm, nhưng cái ảnh hưởng vẫn còn mạnh, mà hiện nay ở nước ta thường những sự tin tưởng của mọi người đều có một phần rất to thuộc về Đạo giáo.” Lão Tử được cho là người đã sáng lập ra Đạo giáo hay Lão giáo, Lão học. Học thuyết của Ông chủ yếu bàn về cái Đạo của vũ trụ và cái Đức ở người, lấy sự hanh tĩnh vô vi làm chủ đích ở đời. Về sau có Liệt tử, Trang tử bàn rộng ra cái học thuyết đó, trong đó Trang Tử chủ trương sự bỏ qua bản ngã, lấy sự công bằng tuyệt đối và tự do tuyệt đối làm mục đích sống. Sau thời của hai vị trên thì Đạo giáo bắt đầu suy đoài, đến thời Tần Hán bị chia ra thành ba bộ phái, gồm Huyền lý phái, Thần tiên phái và Chiêm nghiệm phái. Huyền lý phái là phái chính của Đạo giáo nhưng tinh thần đã kém cỏi, phần lớn mang tử tưởng chán đời, yếm thế, làm cho người ta trở nên biếng nhác, không mang lại lợi ích cho xã hội. Thần tiên phái gồm những bọn đạo sĩ lên núi tu tiên, bày ra luyện đan, phép thuật, phù thủy, đồng cốt…để mê hoặc lòng người, thậm chí họ còn tôn Lão Tử lên làm Thái thượng Lão quân, bày ra thêm Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nguyên Thủy Thiên Tôn… Chiêm nghiệm phái đã đi quá xa so với Đạo của Lão Tử; những người theo phái này vay mượn học thuyết Âm Dương, Kinh dịch của Nho giáo bày ra sấm ký (tiên tri), bốc phệ (bói toán), tướng số và phong thủy. Hầu như những thứ kể trên vẫn hiện hữu trong xã hội hiện đại này và đang trở thành vấn nạn đáng báo động.
Có giai đoạn Thần Tiên phái và Chiêm nghiệm phái lên ngôi cực thịnh vì họ biết nhắm vào những ông Vua tham sống sợ chết để biến sự mê tín đó thành quốc giáo. Ví như trường hợp của Tần Thủy Hoàng được Tư Mã Thiên ghi lại trong Sử Ký rằng ông nghe lời bọn phương sĩ Từ Phúc đi đến đảo Bồng Lai (không có thật) để lấy thuốc trường sinh và sau đó lâm bệnh, băng hà trên đường đi. Khi đó, đạo Phật tự nhiên lu mờ, rồi những người tu theo Phật giáo cũng vịn vào lời Phật dạy “tùy thời, tùy phương tiện mà giáo hóa chúng sanh” nên bày ra cúng sao giải hạn, cầu an, cầu siêu, dần dần trở thành tục lệ; trong khi những món đó theo Phật dạy thì đều là tà kiến, nghĩa là cái thấy tà vại, không chân chánh, là mê tín. Dần dần người ta cũng xem Đạo Phật là đạo van xin, xem Phật, Bồ-tát như ông thánh, bà thần mà van lạy, nài nỉ. Thậm chí ngay cả hành động cơ bản khi vào đạo là Quy y Tam Bảo cũng trở thành điều mê tín. Tự hỏi đời nay còn mấy ai thật sự mộ đạo mà hiểu nổi lời Phật dạy?
Quy y Tam bảo là gì mà người Phật tử nào cũng cần phải tiến hành nghi thức này trước khi vào đạo? Quy y Tam Bảo gồm cụm động từ “Quy y” và cụm danh từ “Tam bảo”. Trước hết nói về Tam bảo, là Ba ngôi quý báu gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Phật là bậc giác ngộ đã chế ra các phương pháp tu hành (Pháp) để giúp chúng sanh diệt trừ được mê muội, khổ đau và nhờ Chúng Tăng, những người tình nguyện theo Phật dẫn dắt chúng sanh trên con đường Đạo. Là một Phật tử thiết tha cầu giải thoát thì luôn muốn “quay về nương tựa” (Quy y) ba ngôi báu đó. Như vậy, thật sự có một Đức Phật Thích ca Mâu ni hay có hằng hà sa số Phật đang thuyết Pháp trong Tam thiên Đại thiên thế giới và có vô số Tăng đang giúp chúng sanh tiến bước trên con đường Đạo? Chúng sanh Quy y Tam bảo là hướng về, nhớ về các Đức Phật đó, nương theo các Pháp do các Đức Phật nói ra và tu theo hướng dẫn của chư Tăng đang theo Đức Phật...?
Tam Bảo gồm có 3 bậc là Đồng thể Tam bảo, Xuất thế gian Tam bảo và Thế gian trụ trì Tam bảo. Đức Phật Thích ca Mâu ni hay Đức Phật A Di Đà hay các vị Bồ-tát, A-la-hán; các pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Lục độ...đều thuộc về Xuất thế gian Tam bảo; các tượng Phật, xá lợi Phật được thờ trong chùa, ba tạng kinh điển (Kinh, Luật và Luận) và các vị Tỳ Kheo tu hành chân chánh trong thời hiện tại thì thuộc về Thế gian trụ trì Tam bảo. Ngày nay, phần lớn Phật tử đi chùa lạy Phật, tụng kinh, niệm Phật, nghe các bậc Tăng, Ni giảng kinh, giảng pháp...đều thuộc về hai bậc Tam bảo nêu trên. Do sự quá phổ biến, dễ thấy dễ nhận biết của Xuất thế gian Tam bảo, và thế gian trụ trì Tam bảo mà phần lớn Phật tử đã quên Đồng thể Tam bảo, mặc dù mỗi ngày đi chùa, tụng kinh và kết thúc buổi tụng bằng Tự Quy y Phật, Tự Quy y Pháp, Tự Quy y Tăng.
Tự Quy y Tam bảo là quay về nương tựa thể tánh sáng suốt trong tâm mỗi chúng sanh (vì thể tánh đó đồng với thể tánh của Chư Phật); trong tâm mỗi chúng sanh đều có đủ Pháp tánh từ bi, hỷ xả, nhẫn nhục, tinh tấn, trí tuệ,...đồng với chư Phật và ngay lúc đó phải nghe theo sự dẫn dắt của ông Thầy trong tâm mình vì chính ông Thầy này là đức tánh thanh tịnh giống như vị tăng bên ngoài.
Ngày nay, vì mê tín mà người Phật tử không thể hiểu nổi Đồng thể Tam bảo nên không chỉ Quy y một lần mà có thể Quy y nhiều lần ở nhiều chùa với nhiều Tăng, Ni khác nhau. Có nhiều trường hợp dẫn đến tình huống như vậy, ở đây xin nêu ra hai trường hợp cụ thể, một là, cầu được Phật độ cho có nhiều phước, điều này giống như mục đích mà Phật tử đi thật nhiều chùa đầu năm, đi nhiều chùa cho có nhiều phước, quy y nhiều chùa để Phật phù hộ, độ trì cho bình an, phú quý...; hai là, khi đã quy y ở chùa này xong lại nghe ở chùa khác, có Thầy khác giảng kinh hay lắm, hoặc giả nghe Phật, Bồ-tát ở đó linh lắm, lại đến đó để quy y, và cứ thế quy y rất nhiều nơi.
Qua hai trường hợp nêu trên, rõ ràng căn nguyên của mê tín là do Phật tử còn tham cầu và sợ hãi. Tham cầu bình an, tham cầu nhiều phước, tham cầu phú quý..., sợ chết, sợ làm ăn thua lỗ, sợ bệnh, sợ xui… Nhưng họ quên rằng tất cả đều do Nhân quả chi phối, gieo nhân gì thì gặt quả đó, quả kết nhanh hay chậm tùy theo duyên đủ hay chưa đủ. Phật tử quên đi Đồng thể Tam Bảo, quên đi phần Tự Quy y mà cứ nghĩ có một Đức Phật bên ngoài thân tâm có thể ban phước cho họ, trong khi Đức Phật Thích ca Mâu ni từng nói Ngài không thể ban phước hay giáng họa cho ai cả và tất cả chúng sanh đều có chủng tử Phật.
Cũng bởi vì tính tham cầu, sợ hãi cùng với việc không được học Phật nhiều đã làm cho người Phật tử ngày nay không phân biệt được những pháp ngoại đạo và chánh pháp của Đạo Phật mà đi lầm vào con đường tà kiến, mê tín của cái “mớ lộn xộn” kia... Sự mê tín này ăn sâu vào gốc rễ suy nghĩ của người Phật tử, khó có thể xóa bỏ được. Cũng sự mê tín này đã làm cho người Phật tử quên đi lời phát nguyện khi thực hiện nghi thức Quy y là Quy y Phật thì trọn đời không quy y thiên, thần, quỷ, vật; Quy y Pháp thì trọn đời không quy y ngoại đạo, tà giáo; Quy y Tăng thì trọn đời không quy y tổn hữu, ác đảng.
Tóm lại, Quy y Tam bảo là hành động rất có lợi ích, nôm na mà nói thì đó chính là lời hứa của người Quy y với tự chính bản tâm của người đó có sự chứng minh của chư Phật và Chúng Tăng. Người Phật tử Quy y và giữ đúng lời hứa đó sẽ đạt được ở tương lai là không đi lạc vào ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh; ở hiện tại là sẽ có chánh kiến, chánh tư duy, chánh tín, đầu óc mở mang và trở thành một người có trí tuệ. Chính hạng người này là nhân tố quyết định để xây dựng được một nền văn minh tiến bộ. Không chỉ người Phật tử, mà người ngoại đạo hãy quay về tự soi lại lòng mình, tự tư duy về những hiện tượng xảy trong xã hội, chiêm nghiệm nhiều hơn về cuộc sống thì tự nhiên mê tín dị đoan sẽ trở thành một người xa lạ và sẽ bị lãng quên vào một ngày không xa.
img_0