Nghệ thuật là sự khắc họa và thể hiện cuộc đời. Tính dục (sexuality) là một phần thiết yêu của cuộc sống. Trong lịch sử, sự mô tả tình yêu nhục dục luôn luôn là một trong những đề tài chính. Nhưng tình yêu đồng giới được khắc họa ra sao trong nghệ thuật?

Queer Art thời tiền sử và sơ sử

Dấu tích nghệ thuật đầu tiên của nhân loại là bích họa hang động. Những bức vẽ cổ xưa nhất trong hang động ở châu Âu được phát hiện tại hang El Castillo ở Tây Ban Nha (khoảng 40.000 năm trước, thời kỳ đầu văn hóa Aurignac) và trong hang Abri Castanet (đã sụp), tại tỉnh Dordgogne, Pháp. Các bức vẽ trong hang Chatvet (tỉnh Ardèche, Pháp) có niên đại 32.000 năm và tranh khắc trên đá trong hang Pair-non-Pair (tỉnh Gironde, Pháp) cũng đã khoảng 30.000 năm tuổi.
Bích họa trong hang Addaura  ở Italia. | Nguồn: Wikipedia
Bích họa trong hang Addaura  ở Italia. | Nguồn: Wikipedia
Di vật và tác phẩm của người sống ở cuối thời Hậu kỳ Đồ đá cũ (Upper Paleolithic), có thể hiểu theo cách nào đó, liên quan tới tình dục đồng giới. Ví dụ điển hình là một số tranh hang động và hàng trăm "cây gậy" gợi liên tưởng đến dương vật.
Bức tranh trong hang Addaura ở Sicily, Italia, có thể là một ví dụ cho tính gợi dục đồng giới trong nghệ thuật thời kỳ Đồ đá giữa (Mesolithic) ở châu Âu. Trong hang này, khoảng 12.000 đến 6.000 năm trước, con người đã mô tả hình ảnh đàn ông đeo mặt nạ chim chóc nhảy nhót theo hình vòng tròn trong trạng thái dương vật cương thẳng. Tại trung tâm bức tranh, ta thấy hai người đàn ông trong trạng thái như vậy đang nằm đè lên nhau.

Đồng tính luyến ái tại Ai Cập cổ đại

Vào thời Ai Cập cổ đại, đồng tính luyến ái là một vấn đề phức tạp.
Theo Sách về cái chết (Book of the Dead, Ai Cập sinh tử kỳ thư), đồng tính luyến ái bị coi là sai trái nếu liên quan tới vấn đề quan hệ tình dục. Điều quan trọng cần tuân theo là không được có hành vi đồng tính luyến ái tại những nơi thờ tự. Nữ tác giả của Sách về cái chết viết về quan hệ với phụ nữ khác tại nơi thờ phụng như sau: "
"Tôi không có hành vi tình dục gì sai trái; Tôi không có quan hệ đồng giới." ("I have not done wrong sexually; I have (not) practiced homosexuality.")
Qua đó có thể suy đoán rằng hành vi quan hệ đồng tính bị cấm tại nơi thờ phụng tôn nghiêm, nhưng phần nào được chấp nhận và dung thứ tại những nơi không mang tính tôn giáo.
Nyankh-khnum và  Khnum-hotep “đang hôn nhau”. Nguồn: Wikipedia.org
Nyankh-khnum và Khnum-hotep “đang hôn nhau”. Nguồn: Wikipedia.org
Văn học Ai Cập cổ đại miêu tả các vị thần có mối quan hệ đồng giới. Sách về giấc mơ (The Book of Dreams) vài lần đề cập tới quan hệ tình dục giữa phụ nữ với nhau.
Một trong những cặp đôi có thể là đồng tính nam tại Ai Cập cổ đại là Niankhkhnum và Chnumhotep, hai vị quan chức cấp cao của triều đình Ai Cập. Hai người nắm giữ vị trí giám sát các thợ làm móng trong cung điện Hoàng gia.
Vào 1964, các nhà khảo cổ học Ai Cập phát hiện ngôi mộ của Niankhkhnum và Chnumhotep, hai người sống trong khoảng năm 2830 TCN. Trong mộ hai người, tìm thấy những thứ có thể là bằng chứng lâu đời nhất còn tồn tại đến ngày nay về cuộc sống của người đồng tính.
Tượng hai người phụ nữ, Idet và Ruiu, được tạc theo hình thức điển hình của các cặp đôi đã kết hôn. Nguồn: Wikipedia.
Tượng hai người phụ nữ, Idet và Ruiu, được tạc theo hình thức điển hình của các cặp đôi đã kết hôn. Nguồn: Wikipedia.
Hai người họ sống trong triều đại thứ 5 (khoảng năm 2450-2410 TCN), dưới thời trị vì của vua Niuserre và Menkauhor. Ngày nay, họ được mọi người biết tới qua ngôi mộ chôn chung, trên phù điêu trong mộ, họ được mô tả đang ôm hôn và nắm tay đầy thân mật.
Cả hai người đều đã lập gia đình riêng, nhưng trong mộ lại không hề tìm thấy hình ảnh nào cho thấy họ ôm hôn phu nhân của họ cả.
Một ví dụ hiếm hoi có thể được diễn giải là khắc họa hình ảnh cặp đôi đồng tính nữ, là bức tượng hai người phụ nữ Ai Cập tên là Idit và Ruiu. Theo truyền thống Ai Cập cổ đại thì cử chỉ của hai người chỉ dành cho những cặp đôi khác giới đã kết hôn.

Đồng tính luyến ái tại Hy Lạp cổ đại

Quan hệ đồng tính đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong xã hội Hy Lạp cổ, đặc biệt là với đàn ông.
Tầng lớp thống trị đầy quyền lực ở Hy Lạp vào thời gian đó tin rằng những người đàn ông hết lòng vì nhau chắc chắn sẽ sẵn sàng đứng lên bảo vệ nhau và [vì vậy] chiến đấu càng thêm dũng cảm. Quan hệ nhục dục và tình yêu nam giới được sử dụng để xây dựng nên những đội quân tinh nhuệ của thành Sparta, Corinth và Crete.
Chẳng hạn, vào năm 378 TCN, có một đơn vị quân đội được gọi là "Đạo quân Thần thánh", hay "Quân đoàn Thần thánh Thebes". Đồn rằng đạo quân này gồm 150 cặp đôi đồng tính, nhưng lại là đơn vị quân đội tài ba và hung ác nhất từng tồn tại. Lính tráng được đặc tuyển dựa trên hứng thú nhục dục dành cho nhau.
Theo truyền thống, quan hệ này hình thành giữa một người đàn ông lớn tuổi và một chàng trai trẻ tuổi. Đặc biệt tại những thành bang như Sparta và Thebes, mối quan hệ kiểu này nắm vai trò rất quan trọng và được coi là một phần cần thiết trong quá trình giáo dục và trưởng thành của chàng trai trẻ.
Người Hy Lạp cổ đại không đặt niềm tin vào xu hướng tình dục khác giới hay đồng giới. Tuy vậy, họ tin vào những quan hệ chủ động và bị động. Hình thức thường gặp nhất của quan hệ đồng giới là một người đàn ông lớn tuổi (erastes), đóng vai trò làm người chỉ dẫn và người tình cho một chàng trai trẻ tuổi (eromenos). Người ta cũng tin rằng tinh dịch là cội nguồn của tri thức và có thể được "dẫn truyền".
Người Hy Lạp cổ đại không hề có các khái niệm tương đồng với "đồng tính luyến ái" (homosexual), "dị tính luyến ái" (heterosexual) hay "song tính luyến ái" (bisexual) của chúng ta ngày nay. Các thuật ngữ như "đồng tính nam", "dị tính luyến ái" hoặc "song tính luyến ái" hoàn toàn là những khái niệm hiện đại, chỉ mới xuất hiện từ cuối thế kỷ 19. Và mãi cho tới những thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, những khái niệm này mới hình thành lớp nghĩa mà chúng ta dùng ngày nay.
Tranh vẽ trên cốc gốm Attic có niên đại khoảng năm 480-470 TCN, vẽ bởi họa sĩ Brygos, mô tả cảnh một <i>erastes </i>rậm râu đang ân ái một chàng trai trẻ <i>eromenos . Nguồn: </i>https: <a href="https://talesoftimesforgotten.com/2019/06/24/just-how-gay-were-the-ancient-greeks-really/">talesoftimesforgotten.com</a>
Tranh vẽ trên cốc gốm Attic có niên đại khoảng năm 480-470 TCN, vẽ bởi họa sĩ Brygos, mô tả cảnh một erastes rậm râu đang ân ái một chàng trai trẻ eromenos . Nguồn: https: talesoftimesforgotten.com
Chính vì thế nên giới học giả đương đại gần như đều nhất trí rằng thật không thỏa đáng khi phân loại người Hy Lạp cổ đại bằng những thuật ngữ như "đồng tính nam", "thẳng", "lưỡng tính" v.v. Do đó, Alexander Đại đế không phải "trai thẳng" cũng chẳng phải "đồng tính nam", bởi những thuật ngữ này không hề tồn tại vào thời ông sống. Ông có thể từng quan hệ với cả nữ lẫn nam, nhưng không thể gọi ông là "lưỡng tính" hay sử dụng bất kỳ từ ngữ nào mang nghĩa tương tự cả.
Với người Hy Lạp cổ đại, chắc hẳn có sự khát biệt giữa quan hệ đồng giới và quan hệ dị giới, nhưng họ không có quan niệm về "bản dạng dục tính" (sexual identity). Người Hy Lạp cổ không xem quan hệ tình dục, tức việc một người bị thu hút về mặt nhục dục, là một đặc tính lâu dài và mang tính xác định bản chất. Họ coi đó là một thuộc tính của một thời kỳ cụ thể trong cuộc đời của mỗi cá nhân. Hành vi quan hệ đồng giới chỉ được chấp nhận trong những trường hợp cụ thể.

Sappho thành Lesbos

Nhà thơ trữ tình Sappho thành Lesbos (khoảng 620-570 TCN) vô cùng được kính trọng ở thời Hy Lạp cổ đại. Hình ảnh bà được khắc họa qua tượng điêu khắc, trên tiền xu và đồ gốm trong nhiều thế kỷ sau khi bà qua đời.
Tranh tường về một người phụ nữ quý tộc ở Pompei, thường được coi là Sappho, tồn tại từ khoảng năm 50 | Nguồn ảnh: <a href="https://www.worldhistory.org/image/3840/sappho-fresco-pompeii/" target="_blank">worldhistory.com</a>.
Tranh tường về một người phụ nữ quý tộc ở Pompei, thường được coi là Sappho, tồn tại từ khoảng năm 50 | Nguồn ảnh: worldhistory.com.
Không còn nhiều dấu vết về tác phẩm của bà, nhưng những gì còn lại cho phép suy đoán bà là đồng tính nữ. Hai thuật ngữ "sapphic" (bị thu hút bởi phụ nữ) và "lesbian" (đồng tính nữ) có thể truy nguyên từ tên của bà - Sappho thành Lesbos. Cả hai thuật ngữ này đều hàm ý quan hệ đồng giới của phái nữ.
Sappho viết nhiều bài thơ ca ngợi vẻ đẹp nữ giới.
Những gì còn lại của một bài thơ do Sappho viết, The Oxyrhynchus Papyri: Phần X | Nguồn: <a href="https://theconversation.com/guide-to-the-classics-sappho-a-poet-in-fragments-90823" target="_blank">theconversation.com</a>
Những gì còn lại của một bài thơ do Sappho viết, The Oxyrhynchus Papyri: Phần X | Nguồn: theconversation.com
Các nhà văn thời cổ đại, những người từng tiếp cận nhiều tác phẩm của Sappho hơn chúng ta ngày nay, dành lời khen cho nữ thi sĩ nhưng cũng chỉ trích bà vì cư xử như một "người phụ nữ nam tính". Chúng ta gần như không biết gì về cuộc đời cũng như bộ trước tác chín tập của bà. Tuy các tác phẩm này rất nổi tiếng thời cổ đại, nhưng chỉ 650 dòng thơ còn tồn tại đến ngày nay.
Sappho đọc cho bạn đồng hành nghe. Hình ảnh trên một bình gốm Attic, ra đời khoảng năm 435 TCN | Nguồn: <a href="https://en.wikipedia.org/wiki/History_of_homosexuality" target="_blank">Wikipedia.org</a>
Sappho đọc cho bạn đồng hành nghe. Hình ảnh trên một bình gốm Attic, ra đời khoảng năm 435 TCN | Nguồn: Wikipedia.org
Ngay cả Plato ( khoảng 428/427 - 348/347 TCN), vị triết gia đã bàn đến vật đề quan hệ tình ái đồng giới trong các tác phẩm của mình, cũng nhiệt liệt tán dương Sappho. Theo một số học giả, cách Plato nhìn nhận tình yêu lãng mạn chịu ảnh hưởng từ tác phẩm của Sappho. Ngày nay, bà được coi là một trong những nhà thơ đồng tính vĩ đại, là nguồn cảm hứng cho nhiều người trong cộng đồng LGBTQ, và còn xa hơn thế nữa.
<i>"Sappho và Alcaeus"</i>, họa sĩ Sir Lawrence Alma-Tadema, 1881,  sơn dầu trên ván gỗ | Nguồn: <a href="https://bublitz.org/de/mediathek/" target="_blank">bublitz.org</a>
"Sappho và Alcaeus", họa sĩ Sir Lawrence Alma-Tadema, 1881, sơn dầu trên ván gỗ | Nguồn: bublitz.org

Đồng tính luyến ái tại La Mã cổ đại

La Mã cổ đại cực kỳ khác phương Tây đương đại về phương diện đồng tính luyến ái. Các thuật ngữ "đồng tính luyến ái" và "dị tính luyến ái" không thể dịch chính xác sang tiếng Latin. Các hạng mục tính dục của người La Mã cổ là chủ động/thống trị/nam giớibị động/bị trị/nữ giới.
Đàn ông La Mã được phép quan hệ tính dục với người đàn ông khác mà không ảnh hưởng gì đến nam tính hay địa vị xã hội, miễn là họ vẫn nắm giữ vị trí thống trị hay chủ động [trong khi quan hệ].
Vì thế các thuật ngữ "đồng tính luyến ái" hay "dị tính luyến ái" không phải là các hạng mục khác nhau trong bản năng tình dục của người La Mã, và không tồn tại bất cứ từ ngữ nào trong tiếng Latin để phiên dịch chính xác những thuật ngữ này.
Phù điêu thời La Mã mô tả cảnh hai người đàn ông hôn nhau. | Nguồn: <a href="https://romeonrome.com/2012/07/2012-rome-monti-monuments-baths-churches-and-eur/" target="_blank">romeonrome.com</a>
Phù điêu thời La Mã mô tả cảnh hai người đàn ông hôn nhau. | Nguồn: romeonrome.com
Hoàng đế La Mã Nero được xem là người khởi xướng cuộc hôn nhân đồng giới đầu tiên. Theo Epitome LXII, 12-13 và một số tài liệu thời đó, Nero kết hôn trong một buổi lễ chính thức ("trong theo modum sollemnium coniugiorum", theo Tacitus). Phối ngẫu đầu tiên của Nero là Pythagoras, và sau đó là Sapporo - người bị thiến vì trông giống người vợ Poppea mới qua đời của Nero. Hôn lễ giữa Nero và Sapporo được cử hành công khai, và Sapporo mặc nữ phục trong buổi lễ này.
Theo một số nhà biên niên sử như Plutarch và Suetonius, thì Julius Caesar cũng có quan hệ đồng giới với vua Nicomedes IV xứ Bithynia.
Còn theo Suetonius, quân lính của Caesar thường chế nhạo ông. Trong lần Caesar khải hoàn, quân lính hát vang, "...Caesar chinh phục được Gauls, nhưng Nicomedes lại chinh phục được ngài...".
Hoàng đế Hadrian cũng có một mối tình đồng giới đầy lãng mạn ở thời La Mã cổ đại. Antinous là bạn đồng hành với Hadrian trong các chuyến đi săn, du ngoạn và nhiều hoạt động khác. Tình yêu của Hadrian dành cho chàng trẻ Antinous sâu đậm đến nỗi khi anh ta chết đuối trên sông Nile, Hadrian liền phong thánh cho Antinous, và còn cho thờ cúng cũng như dựng tượng tưởng nhớ chàng trai này.
Tượng cẩm thạch Hadrian và Antinous. | Nguồn: <a href="https://www.flickr.com/photos/carolemage/16679053956/in/photostream/" target="_blank">flickr.com</a>
Tượng cẩm thạch Hadrian và Antinous. | Nguồn: flickr.com
Quan hệ đồng giới của phái nữ ít được nhắc đến hơn nhiều. Nếu các nhà văn La Mã nói đúng, thì tình ái giữa nữ giới dường như rất hiếm xảy ra ở La Mã cổ đại. Ovid viết rằng "chưa từng nghe" về điều này. Tuy nhiên, có một số bằng chứng, ví dụ như một cặp bùa chú trong Greek Magical Papyri chứng thực sự tồn tại của một số phụ nữ có yêu đương đồng giới, sống ở các tỉnh nằm dưới quyền của La Mã ở cuối thời Đế quốc.
(Còn nữa)
Nhân tháng Tự hào năm 2024, tôi bắt tay dịch một bài về lịch sử Queer Art. Không phải là người am hiểu về các vấn đề liên quan đến cộng đồng LGBT, cho nên chắc chắn nhiều thuật ngữ chưa được chuyển ngữ chính xác. Mong các bạn thông cảm và góp ý để bài hoàn thiện hơn. Trân trọng!