1. Dẫn nhập

Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa cùng với sự ra đời của giai cấp tư sản đã tạo nên những chuyển biến quan trọng tới tình hình kinh tế - xã hội ở phương Tây. Thành công của các cuộc phát kiến địa lý và nhu cầu phát triển kinh tế nội tại đã thúc đẩy các nước phương Tây tiến sang phương Đông nhằm tìm ra các vùng đất mới, mở ra thời kỳ gặp gỡ, tiếp xúc giữa các khu vực. Những tài liệu do chính người phương Tây ghi chép cho thấy, trong các thế kỉ XVI - XVIII, tàu buôn Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp... đã nối tiếp nhau tìm đến giao thương với nhiều quốc gia ở khu vực Viễn Đông, trong đó có Việt Nam. Đồng hành với giới thương nhân trên các tàu buôn này là sự hiện diện của các nhà truyền giáo. Chính trong bối cảnh đó, quá trình du nhập và tiếp nhận các các tri thức khoa học kĩ thuật phương Tây đã diễn ra một cách tự nhiên, gắn liền với vai trò tiên phong của các giáo sĩ Thiên Chúa giáo, đặc biệt là thừa sai Dòng Tên.
Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI chứng kiến cuộc nội chiến khốc liệt giữa Đàng Trong - Đàng Ngoài và quá trình hòa hoãn, mở cửa, cùng phát triển của chính quyền chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Với tầm nhìn rộng mở và thức thời của các chúa Nguyễn, các tri thức khoa học phương Tây đã có điều kiện truyền bá vào Đàng Trong thông qua mối quan hệ giữa chính quyền chúa Nguyễn với các giáo sĩ. Đây là con đường chính, đóng vai trò chủ đạo trong việc tiếp nhận những tri thức khoa học phương Tây ở Đàng Trong giai đoạn thế kỉ XVI - XVIII. Tri thức khoa học phương Tây được đề cập trong bài viết này bao gồm 2 lĩnh vực là thiên văn học và y học. Đây được xem là hai lĩnh vực đạt được nhiều thành công nhất trong các tri thức khoa học tự nhiên được truyền bá vào Việt Nam nói chung và Đàng Trong nói riêng trong thế kỉ XVI-XVIII.

2. Quá trình tiếp nhận tri thức khoa học phương Tây ở Đàng Trong: Lĩnh vực Thiên văn học và Y học

Về lĩnh vực Thiên văn học, trước khi các tri thức thiên văn học của người châu Âu du nhập đến Việt Nam thì trình độ thiên văn học của người Việt cũng có những phát triển nhất định. Người Việt từ lâu đã quan tâm và coi trọng các hiện tượng tự nhiên (mây, mưa, nhật thực…) và các yếu tố trong vũ trụ, cấu thành nên trời đất. Thiên văn học ở Việt Nam thời trung đại mang nhiều ảnh hưởng của Trung Hoa với màu sắc thần bí, các suy đoán phần nhiều dựa trên kinh nghiệm dân gian và chủ yếu phục vụ cho nông nghiệp. Mặc dù đã có quá trình hình thành lâu dài và được các nhà nước quân chủ quan tâm nhưng Thiên văn học vẫn chưa trở thành một ngành khoa học thực sự ở Việt Nam.
Nắm bắt được xu thế đó, các giáo sĩ Dòng Tên đã rất linh hoạt trong việc sử dụng tri thức thiên văn học như là bước đệm để thu hút và lấy lòng tin của chính quyền chúa Nguyễn và người dân ở Đàng Trong trong mục tiêu dài hơi hơn là cải đạo của người Việt cũng như tranh thủ những điều kiện tốt nhất được tạo ra từ quyền lực chính trị và địa vị kinh tế của các Chúa cho sự phát triển của Thiên Chúa giáo tại Đàng Trong. Trương Anh Thuận đã rất có lí khi cho rằng: “Quá trình tiếp nhận thiên văn học phương Tây ở Việt Nam đều bắt nguồn từ sự ra đời của phương thức “học thuật truyền giáo”, được các giáo sĩ Dòng Tên đề ra và thực hiện trong các thế kỉ XVI - XVIII. Điều đó cũng được chính các giáo sĩ và thương nhân phương Tây thừa nhận. Trong ghi chép của Christoforo Borri vào năm 1621 cho thấy các tu sĩ Dòng Tên rất được trọng vọng ở Đàng Trong: “Người ta không thể nói chuyện đó [Việc các giáo sĩ phương Tây đã dự đoán chính xác hiện tượng nhật thực, nguyệt thực] đã đem lại cho chúng tôi bao nhiêu lợi tức và uy thế đối với các nhà bác học và trí thức trong xứ. Và danh tiếng của các linh mục truyền đi khắp nơi, không những họ trọng khoa học thiên văn của chúng ta hơn của họ mà họ còn coi trọng đạo của chúng ta”.
Cũng phải thừa nhận rằng các giáo sĩ dòng Tên đều là những người tài gỏi, uyên bác, được đào tạo bài bản… Các nhà truyền giáo thuộc dòng tu này trước khi lên đường đến các xứ sở xa xôi để thực hiện sứ mệnh tuyên giảng Phúc Âm đều phải trải qua một quá trình giáo dục mang tính hệ thống, chuyên nghiệp và chính quy trong khoảng hơn mười năm. Theo đó, họ không chỉ học các kiến thức về thần học mà còn phải trau dồi các loại tri thức khoa học tự nhiên. Điều đó đã tạo ra một tiền đề thuận lợi hơn hẳn các giáo sĩ dòng tu khác, giúp cho các giáo sĩ dòng Tên nhanh chóng khẳng định vai trò chủ đạo của mình trong việc truyền bá và mở rộng ảnh hưởng của tri thức khoa học phương Tây nói chung và thiên văn học nói riêng qua quá trình truyền giáo.
Ở Đàng Trong, hoạt động tính toán, dự báo nhật thực, nguyệt thực của các thừa sai Dòng Tên diễn ra khá mạnh mẽ. Christoforo Borri là một giáo sĩ dòng Tên đến Đàng Trong truyền giáo và hoạt động ở đây cho đến năm 1621. Theo Maybon, trong quá trình rao giảng Phúc Âm ở Việt Nam ông đã không ít lần sử dụng kiến thức thuộc các lĩnh vực khoa học tự nhiên để chinh phục đức tin của bộ phận thống trị, trí thức và dân chúng xứ truyền giáo. Vị thừa sai Dòng Tên này đã đề cập đến sự việc nguyệt thực xuất hiện vào ngày 19 tháng 12 năm 1620. Ông và Thừa sai Francisco de Pina đã tiến hành tính toán thời gian xảy ra thực cũng như vẽ ra diễn trình của nó trước khi hiện tượng ấy xảy ra một thời gian và báo với quan lại địa phương ở Pulucambi (tỉnh Bình Định) cũng như vị hoàng tử của chúa Nguyễn ở Cacciam (tỉnh Quảng Nam). Xung quanh cuộc dự đoán này đã có một cuộc tranh luận quyết liệt đã nảy sinh giữa quan lại và những nhà thiên văn bản xứ với hai ông về các vấn đề có hay không sự xuất hiện của nguyệt thực, cũng như thời gian cụ thể diễn ra hiện tượng này.
Cuối cùng kết quả đã diễn ra đúng như những gì Borri dự đoán trước đó. Sau đó, Borri cũng nhiều lần dự báo chính xác về các hiện tượng nhật thực và các vấn đề liên quan đến mặt trăng, mặt trời. Theo ghi chép của Thừa sai Christoforo Borri cũng như Gaspar Luis, đã có không ít các nhà thiên văn, toán học của chúa Nguyễn tìm đến xin được học tập cách tính toán, trắc lượng nhật thực, nguyệt thực của các giáo sĩ thừa sai. Những ấn tượng tốt đẹp ban đầu của Borri đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện của nhiều nhà thiên văn học là các giáo sĩ đến Đàng Trong vào thế kỉ XVII như Antoine Arnedo, Jean Baptisle Sanna, Francisco de Lima. Trong thập niên 30 của thế kỉ XVIII, niềm khao khát có được sự phục vụ từ các giáo sĩ Dòng Tên trên lĩnh vực thiên văn vẫn không hề suy giảm. Năm 1731, chúa Nguyễn Phúc Chú (1625-1738) đã yêu cầu giáo phận Ma Cao phái đến các thừa sai giỏi về thiên văn. Đáp ứng niềm mong mỏi của chúa Nguyễn, năm 1738, hai thừa sai Jean Siebert và Grueber được phái đến Đàng Trong để nối tiếp nhiệm vụ trở thành nhà thiên văn trong phủ Chúa và họ đã nhận được thái độ đón tiếp vô cùng trọng thị. Từ năm 1740 cho đến khi chính quyền Đàng Trong bị phong trào nông dân Tây Sơn lật đổ (1777), chúa Nguyễn tiếp tục chào đón hai giáo sĩ Dòng Tên khác là Jean de Loureiro và Joseph Neugebeaur đến Đàng Trong.
Trên thực tế, thiên văn học phương Tây đã du nhập vào Việt Nam và bước đầu được vua chúa, quan lại và trí thức người Việt tiếp nhận thông qua hai cách thức: một là các giáo sĩ Dòng Tên trực tiếp bàn luận, giảng giải các kiến thức thiên văn phương Tây cho giới thống trị Việt Nam và hai là các nhà truyền giáo thuộc dòng tu này đã tiến hành tính toán, phác họa bằng hình vẽ và thông báo cho vua chúa, quan lại bản xứ về nhật thực, nguyệt thực sắp xảy ra cũng như tranh luận với các nhà thiên văn người Việt về một số vấn đề liên quan đến các hiện tượng ấy. Mặc dù những dẫn chứng trên đây vẫn chưa thể “phục dựng” một cách toàn diện, đầy đủ và rõ ràng nhất bức tranh toàn cảnh với các kết quả cụ thể đạt được của quá trình tiếp nhận thiên văn học phương Tây ở Đàng Trong trong các thế kỉ XVII-XVIII, tuy nhiên, dựa vào những chi tiết trên, vẫn hoàn toàn có đủ cơ sở để khẳng định, thông qua hoạt động giảng giải trực tiếp kiến thức thiên văn học phương Tây cũng như tính toán dự báo nhật thực, nguyệt thực của thừa sai Dòng Tên, các chúa Nguyễn chắc chắn đã có sự tiếp cận và tiếp thu ở một mức độ nhất định các kiến thức thiên văn học phương Tây, hoặc chí ít là nhận ra được tính ưu việt của nó so với nền tảng thiên văn học truyền thống vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Trung Quốc, để rồi từ đó làm nảy sinh nhu cầu của vua chúa Việt Nam về việc sử dụng thừa sai phương Tây phụ trách các lĩnh vực khoa học kĩ thuật nói chung và thiên văn học nói riêng diễn ra phổ biến ở thế kỉ XVIII, mà trường hợp chúa Nguyễn ở Đàng Trong là một trong những dẫn chứng điển hình. Nhìn ở một góc độ rộng lớn hơn, sự tiếp nhận thành tựu khoa học bước đầu đó đã có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển văn hóa của xã hội Đàng Trong theo những đường hướng quan trọng khác nhau, từ đó giúp người Việt tương giao một cách dễ dàng hơn với các nước châu Âu trong những thế kỷ sau đó.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, đối với quốc gia có lịch sử hình thành và phát triển thiên văn học khá lâu đời như Việt Nam, những điểm ưu việt về sự khoa học và chính xác của thiên văn học phương Tây vẫn chưa thể tạo ra “đối trọng” so với nền tảng thiên văn học truyền thống mang đậm màu sắc huyền bí phương Đông ở Đàng Trong. Mặc dù thể hiện sự cởi mở và cầu thị trong việc tiếp thu các thành tựu thiên văn học phương Tây nhưng các chúa Nguyễn và quan lại ở Đàng Trong vẫn tiếp tục gìn giữ và duy trì việc sử dụng các kiến thức thiên văn truyền thống. Bằng chứng là việc sử dụng và bổ nhiệm các nhà truyền giáo phương Tây vào các chức vụ quản lí tại cơ quan thiên văn, lịch pháp của nhà nước đã không diễn ra ở Đàng Trong. Việc sử dụng các thừa sai Dòng Tên để phục vụ cho công việc nghiên cứu thiên văn của chúa Nguyễn chỉ giống như một sự hỗ trợ, bổ khuyết cho những thiếu sót của thiên văn học truyền thống và thỏa mãn những hiếu kì, thích thú đối với những công cụ thiên văn phương Tây mà thôi. Hơn nữa, đó cũng đơn thuần là biện pháp xác lập mối quan hệ với người phương Tây, nhằm đảm bảo cho những toan tính chính trị, thương mại của các chúa Nguyễn. Vì vậy, mặc dù ở giai đoạn này, quá trình tiếp nhận thiên văn học phương Tây ở Đàng Trong diễn ra một cách trực tiếp, thông qua sự hiện diện của các thừa sai Dòng Tên nhưng nó lại liên tục bị gián đoạn cũng một phần phụ thuộc vào sự quan tâm đậm nhạt của các chúa Nguyễn qua từng thời kỳ.
Về lĩnh vực Y học, trước khi có sự du nhập y học phương Tây thì y học Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của y học Trung Quốc có cũng đạt được một số thành tựu. Trong con mắt của người phương Tây đến Việt Nam, có rất nhiều bệnh được các thầy thuốc người Việt chữa trị thành công khiến người Âu phải tỏ ra kinh ngạc và thán phục và trên nhiều phương diện cũng rất đáng để họ học hỏi. Việc chữa trị và chẩn đoán bệnh nặng về yếu tố dân gian với những bài thuốc từ cỏ cây hoa lá. Trong việc chữa trị, y học dân gian Việt Nam thường thể hiện hài hòa mối quan hệ âm dương, trong đó chú trọng đến yếu tố căn nguyên dẫn đến bệnh tật.
Thông qua các hoạt động giao lưu tiếp xúc, đặc biệt là hoạt động truyền đạo của các giáo sĩ, các tri thức y học tiến bộ của phương Tây đã từng bước truyền bá vào Việt Nam. Trong quá trình này, các giáo sĩ dòng Tên có một vai trò hết sức nổi bật. Họ không chỉ làm đơn thuần công việc truyền giáo mà bên cạnh đó còn đồng thời là những thầy thuốc phục vụ đắc lực cho chúa Nguyễn và dân chúng xứ Đàng Trong.
Theo các ghi chép phương Tây, ở Đàng Trong, trong giai đoạn từ cuối thế kỷ XVII đến nửa sau thế kỷ XVIII, nhu cầu có được sự phục vụ của các giáo sĩ trên lĩnh vực y học của chính quyền chúa Nguyễn luôn được đặt ra bức thiết. Chính điều đó đã khiến cho có một số thời điểm, chúa Nguyễn đã phải gây áp lực với chính quyền Bồ Đào Nha ở Ma Cao bằng những tuyên bố gây bất lợi đối với quan hệ thương mại giữa hai bên, để buộc người Bồ Đào Nha phải can thiệp với giáo phận Ma Cao, sai phái các nhà truyền giáo am hiểu y học phương Tây đến Đàng Trong. Đó là trường hợp của dưới thời Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần.
Năm 1686, chúa Hiền đã gửi thư đến Viện nguyên lão Macao yêu cầu cử cha Bartholomeu da Costa, thuộc Hội Dòng Tên đến Đàng Trong “và Ngài [chúa Hiền] nói thêm rằng nếu người ta không thực hiện lời yêu cầu ấy thì Ngài sẽ tuyên bố là kẻ thù của Macao”. Hay trường hợp của Cha đạo người Pháp Langlois đến Huế vào năm 1660 đã được triều đình chúa Nguyễn rất trọng dụng đến mức “các vị Vương của Nam Kỳ đã đặt niềm tin về sức khỏe của họ vào Cha Langlois” và “Hoàng tử thứ hai sau này nối ngôi vị Vương lúc đó đã cấp cho ông một vạt đất lớn gần dinh của Hoàng tử”.
Dưới thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, năm 1745, Cha Slamenski là thầy tu ở Goa - thuộc Hội truyền giáo Đức đã trở thành “thầy thuốc riêng” của chúa Nguyễn. Trong một lá thư năm 1847 viết tại Huế gửi Cha Ritter đã có nhiều lời khen ngợi đối với Cha Slamenski: “Slamenski là người rất có kinh nghiệm trong nghề chữa trị bệnh nhân, mổ xẻ và điều chế thuốc”. Một Cha đạo khác cũng rất được trọng dụng tại Đàng Trong đó là Koffler. Theo tường thuật của Cha đạo Koffler trong một bức thư gửi cho Cha đạo Ritter, ông nói về việc ông yết kiến chúa Nguyễn lần đầu tiên như sau: “Vương lấy làm vui khi nghe tôi nói; Vương đứng dậy, nắm tay tôi mà dắt tôi vào phòng bên cạnh, để chuyển những lời chào hỏi kính cẩn của tôi đến bà vợ thứ nhất và yêu quí nhất trong hàng ngũ các bà vợ yêu thứ hai của vua. Tôi không giám lập lại cái gì mà tôi chỉ nhắc lại rằng vào lúc đó Vương làm các cử chỉ thân ái bằng cách lấy tay gỡ mũ trên đầu tôi để cho tôi khỏi đội mũ trong khi đứng trước mặt Vương và gỡ tung bộ tóc bối theo kiểu bản xứ cho nó xòa ra, đồng thời cũng nói giữa mọi người rằng tôi là thầy thuốc phục vụ riêng cho Vương. Về sau nữa, nhân khi cắt đặt một phương thuốc có hiệu nghiệm để trị bệnh đau nhức nơi cổ Vương, Vương có sự đối xử với tôi chẳng khác gì đối với Cha Siebert, được xem là nhà toán học của triều đình trước đây”. Những đóng góp quan trọng của Linh mục Koffler ở Đàng Trong đã giúp cho ông có một vị trí “vững chắc” trong phủ Chúa trong hơn 7 năm. Năm 1750, khi chúa Nguyễn yêu cầu trục xuất các giáo sĩ khỏi Đàng Trong, chỉ có Koffler được giữ lại. Sự ưu ái của Võ vương đối với Koffler cũng được chính ông thừa nhận: “Vương rất yêu mến tôi, và đây cũng là vinh dự chung cho các thầy thuốc vì thầy thuốc đang được mọi người cần đến”.
Song song với việc phục vụ cho trong triều đình, các giáo sĩ phương Tây còn sử dụng những kiến thức về y học của mình để chữa trị bệnh tật cho các giáo dân và một bộ phận dân chúng Đàng Trong. Cha đạo Langlois đến Đàng Trong năm 1600 đã sử dụng kiến thức y học của mình để giúp đỡ những người dân xứ Đàng Trong. Theo cha đạo Vachet “Langlois đã dựng lên tại đây một nhà thương rất lớn có thể chứa 300 bệnh nhân. Không ai là không biết tiếng về lòng từ thiện của ông ta, người giàu cũng như người nghèo đều được ông giúp đỡ”. Năm 1738, Cha Siebert đến Đàng Trong theo yêu cầu của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Ngoài nhiệm vụ chăm sóc, theo dõi tình hình sức khỏe của chúa Nguyễn, Linh mục Siebert còn dành sự quan tâm cho những đứa trẻ mồ côi tại Đàng Trong. Trong một bức thư viết tại Huế ngày 6-8-1741 gửi cho nữ Bá tước Fugget de Wessembourg, Cha Siebert cho biết: “Lúc này tôi đang chăm sóc 5 đứa mồ côi, đồng thời với 15 đứa khác mà cha mẹ chúng nó chỉ mời tôi đến vào lúc thấy chúng sắp chết, tôi đã cứu sống được 15 đứa trẻ này bằng những thứ thuốc hiệu nghiệm…”. Ngoài ra, cũng như các giáo sĩ khác, ông còn bỏ tiền để xây dựng nhà thương và khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho hàng trăm bệnh nhân nghèo. Có thể thấy, các chúa Nguyễn đã tạo điều kiện thuận lợi cho các giáo sĩ yên tâm ở lại phục vụ lâu dài trong phủ Chúa. Chỉ trong vòng 14 năm ở Đàng Trong, Cha đạo Koffler đã chữa lành 50 bệnh sốt, 5 bệnh viêm họng nặng, 3 hoại thư, hơn 100 bệnh kinh phong, bệnh sốt rét, tràn dịch phổi, bệnh mắt và răng.
Đối với các giáo sĩ thừa sai, họ cũng bị thu hút bởi những điều mới lạ và kì diệu từ cách khám chữa bệnh của các thầy thuốc ở Đàng Trong - lực lượng đại diện cho nền y học truyền thống phương Đông. Các thừa sai nhận thấy rằng, mặc dù ở Đàng Trong không có trường đại học dạy về nghề y nhưng y thuật của những thầy thuốc người Việt cũng tỏ ra không thua kém gì so với bác sĩ châu Âu20. Trong bản tường trình về tình hình truyền giáo ở Đàng Trong trong giai đoạn 1618-1621, giáo sĩ Dòng Tên Christoforo Borri cho biết, bản thân ông và các nhà truyền giáo khác từng chứng kiến việc khám chữa bệnh của các thầy thuốc người Việt đạt được những hiệu quả bất ngờ. Trong hành trình truyền giáo tại Pulucambi (Bình Định), một giáo sĩ bị bọ cạp cắn vào cổ, tình trạng rất nguy cấp, tưởng chừng không thể giữ được mạng sống. Một thầy thuốc người Việt được mời đến trong sự nghi ngờ của các giáo sĩ phương Tây về khả năng chữa bệnh. Giáo sĩ bị bọ cạp cắn đã được chữa trị bằng cách đặt cơm nóng vào giữa hai chân của vị giáo sĩ và dùng một tấm vải mền lớn trùm lên toàn bộ người của vị giáo sĩ ấy, để hơi nóng không bị thoát ra ngoài. Khi hơi nóng của nồi cơm bay đến vết cắn, vị giáo sĩ cảm thấy cơn đau ngừng hẳn, vết sung tấy ở cổ cũng dần xẹp xuống. Hay một lần khác, chính Borri là người gặp nạn cũng đã được trải nghiệm sự hữu hiệu của y thuật Đàng Trong. Cụ thể, trong quá trình truyền giáo tại Pulucambi (Bình Định), ông từng gặp phải một tai nạn nghiêm trọng. Trước đó, Borri bị ngã từ trên cao khiến cho ông bị thổ huyết và ngực bị tổn thương nặng. Ông đã dùng nhiều loại thuốc từ châu Âu nhưng không thấy thuyên giảm và cuối cùng phải nhờ đến sự chữa trị của một thầy thuốc Đàng Trong. Người này đã dùng một số thảo dược làm thuốc, một phần đắp lên ngực của Christoforo Borri, phần còn lại nấu cùng với nước sôi cho ông uống. Cách chữa trị này đã giúp Christoforo Borri khỏi bệnh hoàn toàn chỉ sau vài ngày. Như vậy, đối với các trường hợp nói trên, trong khi các loại thuốc và y thuật phương Tây dường như vô phương cứu chữa thì nó lại được chữa khỏi một cách dễ dàng bằng các kiến thức y học tương đối đơn giản và phần nhiều dựa vào kinh nghiệm của các thầy thuốc bản xứ. Điều đó cũng cho thấy các kiến thức y học phương Tây và phương Đông đã có sự giao thoa và cùng được sử dụng ở Đàng Trong một cách hiệu quả.
Có thể thấy rằng, trong các thế kỷ XVI - XVIII, xuất phát từ sự hiếu kì và mong muốn tìm hiểu các kiến thức y học phương Tây, đặt biệt là nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho bản thân, các chúa Nguyễn đã thể hiện thái độ cởi mở trong quá trình tiếp nhận các thành tựu của nền y học này, đồng thời trọng dụng các nhà truyền giáo châu Âu giỏi về y thuật. Các nhà truyền giáo phương Tây đã kết hợp hoạt động truyền giáo với việc làm công tác từ thiện trị bệnh bằng cách lập ra các nhà thương, nhà trú ngụ, nhà trẻ mồ côi và nhiều nhà cứu trợ khác để cứu trợ nạn nhân nghèo khổ. Mặc dù đằng sau mục đích của việc làm này chỉ nhằm thu hút thiện cảm của dân chúng đối với các giáo sĩ và đạo Thiên Chúa nhưng chính việc làm này cũng là một trong những tác nhân đưa mầm mống đầu tiên của y học phương Tây đến Việt Nam. Đồng thời, họ cũng là cầu nối trong việc giới thiệu các kiến thức y học truyền thống phương Đông ở Đàng Trong cho người phương Tây thông qua các tác phẩm, báo cáo, nhật kí và thư từ gửi về châu Âu của họ. Điều này đã tạo ra một hiện tượng độc đáo, đó là sự giao lưu mang tính hai chiều trong cuộc gặp gỡ giữa y học phương Tây với y học truyền thống ở Đàng Trong giai đoạn thế kỷ XVI - XVIII.

3. Một số nhận xét và kết luận

Quá trình du nhập và tiếp nhận các tri thức khoa học phương Tây ở Đàng Trong từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII không chỉ là một quá trình chuyển giao tri thức khoa học, thông thường từ phương Tây sang Việt Nam mà còn phản ánh sự tương tác đa dạng giữa các yếu tố văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế giữa Đàng Trong (phương Đông) với các quốc gia phương Tây.
Trước bối cảnh lịch sử thế kỷ XVI - XVIII, hoạt động du nhập và tiếp nhận tri thức thiên văn học và y học phương Tây ở Đàng Trong đã đưa các chúa Nguyễn gắn với “làn sóng” chuyển động của tri thức khoa học thế giới. Các chúa Nguyễn chính là những chủ thể chính, đóng vai trò chủ đạo trong việc tiếp nhận những tri thức khoa học phương Tây ở Đàng Trong. Trong giai đoạn này, đời sống thiên văn và y học ở Việt Nam đã trở nên phong phú, đa dạng và chứa đựng nhiều sắc thái mới hơn so với trước đó.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, dẫu các kiến thức thiên văn học và y học đã tạo được một số dấu ấn, chính quyền chúa Nguyễn thời kỳ này cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ tiếp nhận những thứ đã được người phương Tây đưa đến. Không gian và phạm vi du nhập và ứng dụng của những tri thức khoa học phương Tây hầu hết chỉ phổ biến trong đời sống cung đình, ít có sự thâm nhập vào đời sống thường nhật của người dân, do đó không tạo nên những sự thay đổi căn bản