Mục lục
1. Khái niệm và nguồn gốc quyền
2. Cảnh báo Miranda (Miranda warning)
3. Quyền giữ im lặng ở Việt Nam

1. Khái niệm và nguồn gốc quyền

Quyền giữ im lặng là quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, cho phép họ không bắt buộc phải trả lời các câu hỏi của cơ quan điều tra hoặc của tòa án, nhằm tránh việc tự buộc tội mình.
Thực chất quyền giữ im lặng không phải là một khái niệm được xây dựng sẵn trong luật mà được hình thành từ những quy định pháp luật có liên quan. Ví dụ như quyền không tự buộc tội mình (self - incrimination), quyền được suy đoán vô tội (the right to be presumed innocent). Do vậy thực chất nguồn gốc quyền giữ im lặng đến từ việc suy luận từ các quyền trên. 

2. Cảnh báo Miranda (Miranda warning)

Quyền giữ im lặng nổi tiếng thông qua các bộ phim Mỹ với câu cảnh báo quen thuộc khi cảnh sát tiến hành bắt giữ ai đó. Có nhiều phiên bản rút gọn, nhưng bản đầy đủ của câu cảnh báo là: 
“You have the right to remain silent. Anything you say can and will be used against you in a court of law. You have the right to an attorney. If you cannot afford an attorney, one will be provided for you. Do you understand these rights as they have been read to you? With these rights in mind, do you wish to speak to me?” 
Tạm dịch: “Bạn có quyền giữ im lặng. Bất cứ điều gì bạn nói có thể được sử dụng để chống lại bạn trước tòa. Bạn có quyền có luật sư. Nếu bạn không thể chi trả, một luật sư sẽ được chỉ định để bảo vệ bạn. Bạn có hiểu những quyền mà tôi vừa đọc cho bạn không? Với những quyền này, bạn có muốn nói gì với tôi không?”. 
Thực tế, cảnh sát Mỹ có nghĩa vụ phải nói câu này để thông báo cho người bị bắt về những quyền cơ bản của họ. Nghĩa vụ này xuất phát từ án lệ Miranda v. Arizona, cụ thể Miranda bị cáo buộc hiếp dâm một cô gái, sau đó anh bị bắt về trụ sở công an. Tại đây, anh đã khai nhận rằng mình đã thực hiện hành vi hiếp dâm, tự viết và ký bản tự khai,  đồng thời còn tự nhận mình có tội. Tòa án bang Arizona đã dựa vào bản tự khai nhận tội và đưa ra bản án 20 - 30 năm tù cho anh. Tuy nhiên, điều này trái với các nguyên tắc cơ bản trong pháp luật hình sự, Pháp viện tối cao Hoa Kỳ (Tòa án tối cao cấp liên bang - Tòa án đứng đầu hệ thống tư pháp Hoa Kỳ) lúc đó đã lật ngược lại bản án, họ cho rằng khi Miranda bị bắt, anh đã không được thông báo về quyền được giữ im lặng, quyền được có luật sư, điều này vi phạm Tu chính án thứ 5 của Hoa Kỳ (Tu chính án thứ 5 có nội dung về Truy tố; Tiến trình xét xử; Tự nhận tội; Không truy tố cùng một tội hai lần, và những luật lệ về trưng thu). Quyết định dài 60 trang này của Pháp viện tối cao cũng trở thành một án lệ quy định các thủ tục bắt buộc mà cảnh sát phải thực hiện để đảm bảo quyền của các nghi can, trong đó đặc biệt chú trọng vào việc phải để người bị buộc tội biết rõ về quyền im lặng, quyền được có luật sư. Từ đây "cảnh báo Miranda" ra đời.

3. Quyền giữ im lặng ở Việt Nam

Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam không quy định trực tiếp về nghĩa vụ của cơ quan điều tra về việc phải thông báo cho người bị buộc tội biết về quyền của mình. Mà quy định gián tiếp thông qua quyền của người bị buộc tội. Cụ thể, tại các Điều 58, 59, 60, 61 bộ luật Tố tụng Hình sự về các quyền của người bị bắt giữ, tạm giữ, bị can, bị cáo; các chủ thể này có quyền được thông báo về quyền và nghĩa vụ của mình, một trong số các quyền đó bao gồm quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. 
Vậy trên thực tế, quyền được cơ quan điều tra thông báo về quyền và nghĩa vụ của mình và quyền giữ im lặng đều được công nhận ở Việt Nam. 
Có nghĩa là về mặt pháp lý, trong trường hợp bạn bị giữ khẩn cấp, bị bắt khẩn cấp, bị tạm giữ khẩn cấp hoặc thậm chí là bị can bị khởi tố hình sự, là bị cáo bị tòa án quyết định đưa ra xét xử bạn vẫn có quyền không đưa ra lời khai chống lại chính mình, không phải tự nhận mình có tội. Mà cho dù bạn có tự nhận mình có tội, thì tòa án hình sự cũng không được phép dùng bản tự khai đó để làm căn cứ đưa ra phán quyết rằng bạn có tội vì nó trái hoàn toàn với nguyên tắc suy đoán vô tội.
Nếu vậy thì cần gì phải sử dụng quyền im lặng nữa? Vì dù tôi có sử dụng hay không thì cũng không ảnh hưởng đến khả năng chứng minh tội phạm của tòa án và cơ quan điều tra? Về nguyên tắc thì bạn nói đúng, bạn có khai gì ảnh hưởng đến bạn thì tòa cũng không dùng nó để làm căn cứ buộc tội được, tuy nhiên luật quy định là một chuyện, thực tế là một chuyện khác. Việt Nam không phải là chưa từng có những bản án oan do tòa án dựa vào bản tự khai nhận tội của bị cáo mà đưa ra phán quyết. Ví dụ nổi tiếng là vụ án Hàn Đức Long, ông đã bị ép cung, bị bắt học thuộc lời khai và viết một bản tự khai nhận tội, thậm chí là viết cả thư nhận tội về cho gia đình. Khi ra xét xử tại tòa, mặc dù đã cởi áo ra kêu oan, tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang vẫn dựa vào bản tự khai để kết tội ông. Một trường hợp nổi tiếng khác là vụ án của ông Nguyễn Thanh Chấn.
Vậy để bảo đảm an toàn và ít rủi ro nhất, nếu có thể thì bạn vẫn nên biết và sử dụng những quyền sẵn có của mình.
Độc giả lưu ý trường hợp bạn đi đầu thú nhận tội và bạn bị truy tố hình sự rồi nhận tội là hai trường hợp khác nhau.
- Một sinh viên Luật hay có câu hỏi -