QUÊ HƯƠNG HT
Bài viết của ông Minh, một người em, người đồng hương viết sau chuyến ghé thăm nhà ông nội tôi. Những kỷ niệm về quê hương được viết lại bằng giọng văn mộc mạc, giản gị, giàu hình ảnh gợi lên bức tranh quê hương đầy sống động .
Nguyễn Văn Minh
Chuyến đi từ Đà Lạt, Phan Thiết, Biên Hoà đến thăm anh chị Kiên ở Long Thành, Đồng Nai, tuy tuổi đã cao nhưng anh chị còn khoẻ mạnh, thật mừng, rồi vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ hội thảo gặp mặt các kỷ lục gia vào thượng tuần tháng 8 năm 2007. Một cuộc hội ngộ tại tư gia, rồi tôi đến thăm một số bà con, xóm thượng Triều, Vĩnh Lộc vào đây làm ăn sinh sống ở nhiều thời điểm, hoàn cảnh khác nhau, tự nhiên mình như đang ở chính quê mình vậy. Từ xưa đến nay người ta đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để viết về “Quê hương” mà mỗi một chúng ta ai cũng có, nó không phải là một cái gì xa thẳm, khó tìm. Tôi đến thắp nén hương cho cháu Thành cùng bà Vị vừa mới qua đời ở nơi đất mới, tự nhiên mình thấy bồi hồi xúc động.
Gặp được chú Thiêm ở TP Thái Nguyên sau 40 năm, mỗi người một hoàn cảnh kiếm kế mưu sinh, bụi trần đã làm cho mái đầu hoa râm, da nhăn lại nhưng nét mặt không đổi, dễ nhận. Ở lại chơi một ngày rưỡi, hai tối có chú Thiêm, anh Kiên, cháu Thọ cùng các cháu; chúng tôi chẳng biết nói gì nhiều ngoài chuyện xóm Nồm, xóm Ngấy, không biết ai đặt cho hai cái tên đó, điều chưa lý giải được là hai xóm ở xen nhau, cùng chung đường đi, ăn chung giếng nước, mọi sinh hoạt như nhau khi tắt lửa tối đèn có nhau, mà hai xóm nhỏ này ngày xưa lại thuộc hai làng khác: xóm Ngấy, xóm Càm, xóm Ngoài thuộc làng Đông Đoài còn xóm Nồm lại thuộc làng Thanh Khê. Bữa cơm tối tại nhà anh chị Kiên ngày 12-8-2007 chúng tôi tai cũng ít uống rượu, bia nhưng hôm đó mọi người dùng hơi nhiều nên câu chuyện về quê hương thêm sôi nổi đậm nét làm cho từng người như đang sống ở nơi sinh thành.
Với làng xóm, đất tổ của một dòng họ là chuỗi dài của lịch sử nhưng qua trao đổi về gia phả thì họ Nguyễn Văn ở xóm Nồm và họ Nguyễn Quang ở xóm Ngấy đã khoảng bảy đời (thế hệ), cùng nhiều dòng họ khác đã sinh sống, tồn tại phát triển, nên có nhiều câu chuyện, phong tục tập quán không sao kể hết. Những ký ức về thời thơ ấu cho đến nay vẫn đậm nét trong trái tim của mỗi chúng ta là: Hai xóm ở dưới lưu vực núi Trà Sơn (rú xanh có rào Bàu, đến gần hai xóm khoảng 1km bị chia ra hai nhanh là trộ Phóng và cựa Mương, dân làng đắp đập để lấy nước nên về mùa tháng 7-8 AL, mùa mưa đến cá ra đẻ người ta đơm róc, cất vó, thả lờ... tối đến đi mai (soi), ánh đuốc, ánh sáng đèn rực trên các cánh đồng trông thật vui. Cá đơm được trong mùa lũ sạch sẽ, béo nhất là cá Lúi mền, bụng đầy trứng kho với ca muối và nghệ có mùi vị, riêng ăn rồi rất khó quên.
Hai nhánh suối đã tạo nên nhiều vũng, ao, đìa như Quai Mọ, cơn Côm, ao Nghèn...vào mùa khô và cuối năm dân làng thường rủ nhau đi tát để bắt cá,có lẽ đây là cách kiếm thực phẩm chắc ăn nhất, tát cạn bắt hết, điều thú vị nhất là tát ao Nghèn,một cái ao của thân phụ anh Kiên có lâu đời, rộng khoảng một mậu, khá sâu, xung quanh nhiều cây cối xanh tươi, theo thông lệ vào ngoài 20-12 (AL) thì bà con hai xóm rủ nhau tát ao để kiếm cá ăn tết. Tát ao là câu chuyện dài, nhiều tình tiết hấp dẫn nhưng tóm lại như sau: Số người phải trên 10 người và số chẵn vì phải tát bằng khau (gàu giai), tát cạn ao phải mất từ 3-5 ngày đêm, mỗi trộ 2-3 khau, người tát thao tác thật nhịp nhàng, về đêm nghe tiếng nước đổ “ùm, ùm “ cho đến nay đã 40 năm rồi nhưng trong buổi hội ngộ nơi xa cách gần 1000km chúng tôi còn nghe vang vọng đâu đó. Việc tát ao không thể thiếu ông Thuật (người ta thường gọi là bác Thuật) ông người hơi thấp, da đen, nét mặt dữ tợn, có một nốt ruồi to bên mũi, trẻ con thấy là sợ nhưng ông hiền từ, cả đời chẳng làm hại ai; không có ông khi đã cạn bắt cá người bắt thép có hàng trăm, họ bắt hết; người đi tát có khi được ít hơn. Đã thành lệ khi cạn nhóm tát ao có sự phân công, người bắt cá trong hầm, nhóm bắt giữa ao, bác Thuật là người “đập” người bắt thép, nói là đập nhưng ông dùng một cành tre gai to trông sợ nhưng chỉ đánh xuống bùn để cho trẻ con và người thép chạy ra vì sợ bẩn, ai liều thì đứng đó, roi tre chẳng đánh ai cả năm nào có ông Trí thì vui hơn, ông người gầy, nhỏ, la hét om sòm, cũng có cái roi nhưng chẳng ai sợ.
Bắt xong cá người tát chia phần, chủ ao được phần theo quy định, cá phân loại chia đều theo lỗ đã đào rồi bốc thăm theo ký hiệu của lá cây, người làm thăm không được bốc, cá ngon về nấu để cúng tết rồi mới ăn, thường cá được nướng lên kho với nghệ, ăn thật đậm đà, nước cá chấm dưa cải ăn với cơm gạo Chành đến giờ vẫn nhớ.
Cả Vĩnh Lộc, vùng lân cận nhiều người biết đến giếng Thầy Đàng một cái giếng không cạn dù có hạn hán như năm 1954, không biết giếng đào từ năm nào chúng ta lớn lên đã có, nghe nói do thầy địa lý đằng ngoài lấy đất cho nên đặt tên là giếng “Thầy Đàng”, có ba cái mạch ở ba hướng, nước trong quanh năm,có nhiều bậc đá để xuống múc nước, khoảng 2-3 năm thì khảo một lần xóm làng tập trung tát cạn,vét bùn phát cỏ tu sửa xong có bửa cơm rượu.
Dân vùng ta có câu: “Đi với ma mặc áo giấy/Về xóm Ngấy chui rú Ràn”, đây là một vùng đất khoảng trên 10 mậu, phía Đông Bắc hai xóm nghe kể lại rằng: Cụ Tiền Hiền (không rõ tên thực) người họ Nguyễn Quang dạy học đã có vùng đất này, ông vận động mọi người trong làng xóm và học trò trồng cây để chắn gió, lấy củi, lâu năm cây cối nhiều thêm nên gọi là rú.
Chúng ta ai cũng biết rú Ràn, cây thật phong phú như là rừng vậy, không tính hết nhưng nhiều loại quý như: sim, mua, móc, sắn, côm, mưng... Mỗi một chúng ta thời chăn trâu, bò sao quên được khi mùa đông đến thả vào rú tha hồ chơi,tìm trái chín ăn, mùa nào cũng có. Do cây cối nhiều diện tích khá lớn nên nhiều lúc bị lạc cũng sợ vì người ta nói trong đó có nhiều ma, các thú dữ như chồn Mống, Tấy.. còn chim thì nhiều loài chúng về trú ngụ rất nhiều, tùy mùa sinh sản trẻ chăn trâu bò thương vào đây bắt chim non về nuôi thật thú vi. Thành thường lệ vào tháng 12 hoặc tháng 3 (AL) hàng năm, căn cứ vào hộ trong làng người ta chia phần bán củi theo hình thức bốc thăm để dân có củi nấu tết, gặt mùa. Rất tiếc là nay không còn nữa, nơi đây đã là bãi đất làm gạch ngói, trồng cây ngắn ngày, mộ cụ Tiền Hiền còn đó, nghe nói bà Hạnh một hậu duệ của cụ có ý kiến xin xã và vận động bà con tiền bạc để xây lại mộ cho Người, một suy nghĩ về ân đức đáng kính trọng, việc nên làm.
Đất nước nơi ở hữu tình của hai xóm đã tạo nên nét nhân văn đã từ lâu ở xóm Mụ Nồm là gia đính cố Khuyến, ở xóm Ngấy có gia đình ông Diệu, ông Tín là tiêu biểu cho việc học hành, làm ăn từ trước đến nay. Ở hai xóm từ xa xưa đến nay có nhiều người đậu đạt trong học hành, có người đã giữ các chức vụ trong bộ máy đảng ,nhà nước, trong hai cuộc kháng chiến con, em ra đi làm nhiệm vụ đã hoàn thành xuất sắc, có nhiều người là sĩ quan quân đội, một số hy sinh vì nghĩa lớn. Đời sống chính của bà con xóm làng là trồng lúa, khoai mỗi năm hai vụ, nhà nào khá giả đủ ăn có dư chút ít, không thì thiếu phải vay mượn, mỗi gia đình có 1-2 con trâu, bò, vài con lợn, một bầy gà, vườn tược chẳng có gì đáng kể, nghề phụ là đan gàu tát nước đưa ra chợ Nhe bán về mùa khô.
Ta nhớ, yêu quê hương không phải vùng đất nhỏ này giàu có, mà là những xóm nghèo, người dân “một nắng hai sương”, đường sá lầy lội khi mùa đông đến, nắng hạn gió Nam (Lào) về oi bức, quạt mỏi tay không mát, tắm chưa lên khỏi rào đã khô, chiều tối mới có gió Nồm thổi mát, rồi bão lụt không tha, cũng từ đó luyện cho mỗi một con người cứng rắn hơn trong cuộc sống
Chuyện về quê hương còn nhiều và dài nhưng phải tạm dừng, tạm chia tay nhau về nơi sinh sống. Chúng ta hãy suy nghĩ, bổ sung và viết tiếp về quê hương mình.
Viết xong tại Đà Lạt
ngày 25-8-2007
N-V-M

Sáng tác
/sang-tac
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này