Tai hoạ xảy ra gần đây: Vỡ đập thuỷ điện ở Lào, 26 người chết, 131 người mất tích, và con số này vẫn chưa dừng.
Một tai hoạ khác cũng xảy ra gần đây: 13 người trong đội bóng trẻ Thái bị mắc kẹt trong hang mùa nước lũ, 1 người chết, 13 người trong đội bóng được cứu an toàn.
Hai tai hoạ xảy ra gần nhau và tạo hiệu ứng khác nhau đến dư luận Việt Nam; nếu với Thái truyền thông đổ xô đưa tin, dân tình lao xao cầu nguyện #PrayforThai; thì với Lào nhạt nhoà hơn nhiều; nhiều người thờ ơ chả biết #PrayforLaos là gì, còn nhiều người phẫn nộ với sự thờ ơ kia, đồng thời họ trút giận lên người Thái.

Nhưng tại sao? Bài viết này nhằm giải đáp hai hiệu ứng quái gở trên.

I. VỚI NHỮNG NGƯỜI THỜ Ơ


1. Bái vật hàng hoá


Như tôi đã từng đề cập trong bài Khoe sách: Căn bệnh tâm thần bái vật (link cuối bài), bái vật hàng hoá do Karl Marx đề ra là hiện tượng khủng khiếp, bởi nó làm mục ruỗng quan hệ giữa người với người. Lúc này mối quan hệ bị thay thế bằng hàng hoá quan hệ với hàng hoá, chúng ta không yêu và nể con người nhau, mà yêu và nể hàng hoá của nhau.

Hãy xem thử điều này. Nước hạnh phúc nhất thế giới: Bhutan. Nước coi trọng giáo dục nhất thế giới: Phần Lan. Nước có chủ quyền lâu đời nhất thế giới: Ai Cập.
Hạnh phúc, giáo dục, chủ quyền đều là những khái niệm trừu tượng nhưng tối cần thiết với đời sống con người; thế nhưng nước Bhutan, Phần Lan, Ai Cập mấy ai yêu nể? Thay vào đó họ yêu Mĩ, Nhật, Hàn, Pháp, bởi vì iPhone, vì Honda, vì Hentai, vì Samsung, vì rượu vang. Tất cả nằm ở hàng hoá cụ thể chứ không nằm ở giá trị trừu tượng.
Đã có ai thử hỏi hai nước đứng đầu tự tử là Nhật và Hàn về mức độ hạnh phúc chưa? Đã ai quan tâm đến người Mĩ yêu hoa lá cây cối như thế nào chưa? Hay tất cả những gì họ biết là iPhone và Hentai khiến họ yêu Mĩ và Nhật bằng các hàng hoá ấy.
Mọi người biết đến các tay giàu như Nhật Vượng hay Cường đô-la vì tiền và hàng, nhưng chẳng mấy ai cần biết các tay ấy có hạnh phúc không, có yêu động vật không; cũng như chẳng cần biết người hạnh phúc nhất, yêu động vật nhất ở Việt Nam là ai.

Tóm lại người ta sẽ #PrayforThai và #PrayforParis nhiều hơn #PrayforLaos hay #PrayforSyria bởi Thái thì có Elon Musk khè lửa và Pháp có rượu boóc-đô cùng nhiều hàng xịn, Lào với Syria không có gì để mà #Pray cả.
Có con người nhưng, thật chẳng may, họ không #Pray vì con người.

2. Tâm lí đám đông


Trong Tâm lí học đám đông, Gustave Le Bon đã viết, đám đông không có khả năng tư duy bằng lô gích, họ cần được kích thích và dắt mũi để hành động.

Ta đưa một bản tin 26 người chết, 131 người mất tích: với họ chỉ là những con số, thậm chí không gợi lên lòng thương cảm nếu không có các kích thích tiếp theo, hoặc kích thích bằng lí tính thì cũng vô dụng. Ta đưa lí do vỡ đập, dù đúng, để tránh bị chỉ trích oan thì với đám đông cũng vô ích. Họ không tư duy lô gích, thảy họ thấy là tấm hình nước lũ ngập nhà, vậy thì phải do kẻ nào đó, và nếu được kích thích hướng vào cá nhân nào, đám đông sẽ đòi treo cổ cá nhân đó, không cần qua xét xử.

Tuy nhiên 13 người Thái mắc kẹt lại không phải một con số vì nhiều tay viết đã đánh vào tình cảm đám đông. 13 người là 13 mảnh đời khác nhau, họ kẹt như thế nào, họ có nguy cơ sẽ sặc nước như thế nào, sẽ chết ngạt như thế nào; và đặc biệt là Elon Musk định ra tay cứu như thế nào. Miêu tả chi tiết và sướt mướt. Khác hẳn 26 người đã chết, miêu tả chóng vánh bằng con số, tất nhiên trước đó có cả đã sặc, đã giãy giụa, đã ngạt, đã tuyệt vọng nhưng không được nói đến.

II. VỚI NHỮNG NGƯỜI PHẪN NỘ


Nếu những người này chỉ #PrayforLaos không thôi thì không có gì đáng nói, nhưng nhiều người lại lôi cả vụ Thái và Pháp vào để chỉ trích, ý muốn nói trước đây đã nguyện cho Pháp với Thái mà nay không nguyện cho Lào thì đạo đức giả, và thà trước kia đừng nguyện cho họ thì hơn.
Tư tưởng này thành ngữ Việt Nam có đề cập rất chuẩn qua câu: Không ăn được, phá cho hôi.

Xét theo lí tính thì điều này thật kì quặc: Bởi theo thuyết công lợi thì việc nguyện cho ai cũng mang đến tổng lợi ích và hạnh phúc (lòng cảm thông được bày tỏ) nhiều hơn so với việc không nguyện cho ai cả. Và xét theo cá nhân thì họ nguyện cho người Pháp, Thái cũng không cản trở việc mưu cầu hạnh phúc của người Lào. Vậy cớ sao nói thà trước kia đừng nguyện cho họ thì hơn?

Sở dĩ có sự phẫn nộ và trút giận này bởi vì nền công lí trong họ bị chà đạp, theo triết gia John Rawls thì “Công lí là đức hạnh thứ nhất cho các định chế xã hội, cũng như chân lí là của các hệ thống tư tưởng” [trích].
Một khi công lí bị xâm phạm, con người sẽ vùng lên theo bản năng chứ không dùng lí tính cân nhắc thiệt hơn, và đôi khi họ làm điều ngu ngốc như thí nghiệm dưới.

Một thí nghiệm như sau: cho 2 người là anh Cầm Tiền và chị Quyết Định cùng tham gia thí nghiệm.
Ban tổ chức cho anh Cầm Tiền 100 triệu, với điều kiện anh phải chia với chị Quyết Định. Tỉ lệ do anh Tiền đưa ra, nhưng nếu chị Định đồng ý thì 2 người mới có tiền đem về, nếu chị Định phản đối thì anh Tiền trả lại cho BTC, 2 người đều tay trắng đi về.
Anh Tiền sẽ đưa ra tỉ lệ bao nhiêu để chị Định đồng ý?
Thí nghiệm cho thấy Tiền đưa tỉ lệ dưới 20% là Định sẽ từ chối. Tức Định ôm 20 triệu trong khi Tiền ôm 80 triệu, Định sẽ từ chối cho cả 2 người đều tay trắng.

Thí nghiệm trên mang tên Ultimatum game. Ta có thể thấy chị Định thật ngốc vì giữa 0 đồng và 20 triệu đồng, chị ta chọn 0 đồng. Nhưng người ta phân tích rằng lúc này Định không quyết định bằng lí trí nữa, mà bằng trực giác về địa vị xã hội của mình, chị Định thấy nếu vị trí mình quá thấp so với anh Tiền thì sẽ thà phá hết còn hơn cam chịu mình thấp kém.
Nếu ta đưa cho một cái máy với mục tiêu kiếm lợi cho bản thân nó, chắc chắn cái máy sẽ đồng ý với mọi mức giá lớn hơn 0. Còn với mục tiêu làm lợi cho càng nhiều người càng tốt (thuyết công lợi) thì nó sẽ đồng ý với mọi mức giá.

Những người phẫn nộ và trút giận thực chất đã hành động ngu ngốc như chị Định, họ thà phá cho hôi toàn bộ thế giới này còn hơn nhìn thấy nơi này thơm, nơi kia thối.

Tornad
27/7/2018


Tham khảo:
Tư bản luận, Quyển I –  Karl Marx, NXB Sự Thật, 1960
Tâm lí học đám đông – Gustave Le Bon, Nguyễn Xuân Khánh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, NXB Tri Thức, 2006
A Theory of Justice – John Rawls, Harvard University Press, 1971