Năm nay, người ta lại thấy Phương Thanh trên sân khấu chương trình Chào 2021 của VTV. Ca khúc mà cô trình diễn là Giã từ dĩ vãng, hẳn mang thông điệp “hãy quên đi những tai ương của năm vừa qua và đón chờ một khởi đầu mới”.
Có lẽ nhiều người biết đây là một bài hit của năm 1997, gắn liền với sự thành công của bộ phim truyền hình cùng tên, bộ phim nói về một gia đình bỏ quê hương miền Trung vào thành phố Hồ Chí Minh mưu sinh; họ tìm cách vượt qua những khổ đau bĩ cực để hướng đến một ngày mai tươi đẹp. 
Nhưng có lẽ không mấy người biết rằng đây là bài hát Việt đầu tiên được thu âm và sản xuất dưới dạng compact disc (Olsen 2008: 226), từ đó mở ra thời hoàng kim của đĩa quang, nhập cuộc cùng cassette, góp phần định hình ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam, bên cạnh truyền hình, radio, live shows và báo giấy.
Giã từ dĩ vãng cũng là bài hát mang tên tuổi Phương Thanh thoát khỏi phạm vi những vũ trường để đến với đại chúng; cô trở thành một trong những gương mặt nổi bật nhất cho thế hệ ngôi sao ca nhạc Việt Nam thuộc quãng giữa thập niên 90 đến giữa thập niên 2000s. Nếu phải chọn hai cột mốc thì có lẽ đó là năm 1997 hoặc 1998 và năm 2005. Năm 1997 là năm ra đời của Làn sóng xanh, 1998 là năm phát hành CD Giã từ dĩ vãng, còn năm 2005 là năm ra đời của nhacso.net, bắt đầu giai đoạn của nhạc trực tuyến được tiếp nối bởi zing music và nhaccuatui. 
Nhưng Giã từ dĩ vãng tự thân cái nhan đề đó gợi ra một số đặc tính của thế hệ Phương Thanh. Đó là thế hệ của những người chào đời sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, hoặc họ còn quá nhỏ để có thể ghi nhớ. Thuộc vào hàng lớn tuổi trong số các nhân vật của Làn sóng xanh là Thanh Lam, cũng chỉ sinh năm 1969. Chắc chắn họ đã lớn lên trong một cái soundscape của những Hát về cây lúa hôm nay hay Lời Bác dặn trước lúc đi xa từ những chiếc loa phường, gợi nhắc một quá khứ hào hùng, như một phần của memory politics. Hẳn họ cũng băn khoăn hoài nghi, khi lẩn khuất trong các góc tối thi thoảng vọng ra một lời kể về nỗi buồn chiến tranh. Nhưng trên hết, họ cảm thấy rằng quá khứ đó là một thứ gì không còn mấy liên quan đến tình hình hiện tại nữa, nhất là khi đã trải qua Đổi mới 1986 và bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ 1995. Sự nới lỏng căng thẳng Mỹ-Việt từ vài năm trước đó đã tạo điều kiện cho ảnh hưởng của những dòng nhạc bắt nguồn từ Bắc Mỹ và Anh Quốc đổ bộ lên Việt Nam, từ những Beatles, Pink Floyd hay Bee Gees đến sau này là Westlife, Backstreet Boys, NSYNC, Britney Spears. Hệ thống ngôi sao ca nhạc lấy đó làm những tham khảo để tạo dựng hình ảnh cho các ca sĩ trong nước như Mỹ Tâm, Kasim Hoàng Vũ hay nhóm MTV. Và thêm một sự kiện cho thấy năm 1995 quan trọng ở phương diện ảnh hưởng của nhạc Mỹ lên Việt Nam, đó là năm thành lập của nhóm nhạc Rock chuyên nghiệp Bức tường, với sự dẫn dắt của thủ lĩnh Trần Lập. Nhưng nhạc trẻ của giai đoạn 1997-2005, ngoài chịu ảnh hưởng của nhạc tiếng Anh, và mang trong nó những dấu vết di truyền của tân nhạc từ khi ra đời ở Việt Nam từ 1938 (với sự kiện của Nguyễn Văn Tuyên) kéo dài đến cả hậu chiến, còn tiếp nhận nhiều nguồn ảnh hưởng khác. Hai nguồn đáng kể trong số đó là nhạc Pop Thái Lan và nhạc Pop Hồng Kông, hay CantoPop. Nguồn đầu tiên thể hiện rõ nét ở Thanh Thảo, nguồn thứ hai ở các ca sĩ nam lấy hình ảnh tài tử Hồng Kông và hát những bản nhạc hoa lời Việt như Lam Trường, Duy Mạnh và Lý Hải. Những nỗ lực làm khác, làm mới này phản ánh một tâm thế quay lưng với nhạc đỏ và memory politics. Thế hệ Phương Thanh có thể nói là thế hệ muốn giã từ dĩ vãng để viết nên một câu chuyện khác.
Hiện tượng này cũng có thể thấy ở lĩnh vực điện ảnh, khi mà bộ phim được nhà nước đầu tư 13 tỷ Ký ức Điện Biên trở thành một quả bom xịt, chính lúc này, thế hệ đạo diễn Vũ Ngọc Đãng, Nguyễn Quang Dũng, Lê Hoàng bắt đầu làm những bộ phim có hơi thở hiện đại, mang về doanh thu cao. Ngay cả khi dựa trên một kịch bản cũ (Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ), họ cũng thay đổi lại hoàn toàn, bỏ đi những bài học đạo đức, thêm vào những tình huống gây cười. Và Phương Thanh cũng dự phần vào những bộ phim đó. 
Nhưng tại sao tôi lại chọn viết về Phương Thanh giữa muôn vàn gương mặt? 
Bởi vì tôi cảm thấy một sự liên hệ với Phương Thanh nhiều hơn hẳn mọi ca sĩ khác. Phương Thanh là ca sĩ đầu tiên mà tôi yêu thích, trước Mỹ Tâm và trước cả Britney Spears. Chính xác là, càng cố thử mổ xẻ ký ức, tôi càng cảm thấy chính ở đó chứa đựng những câu trả lời quan trọng nhất về những khuynh hướng tính cách của mình. 
Người ta thích Phương Thanh có lẽ vì cách hát không cầu kỳ, không chau chuốt, đầy bản năng mà luôn hết mình. Khi Phương Thanh hát, có thể nghe được cả tiếng lấy hơi bằng mồm rất ồn, hít lấy hít để giữa câu hát như thể chết ngạt đến nơi. Đó là cách lấy hơi bị đánh giá là của những người không biết hát, nhưng Phương Thanh không hề sửa nó. Cả trong chương trình Chào 2021, sau 24 năm, vẫn thấy Phương Thanh hát y như vậy. Phương Thanh phát âm một số phụ âm có vẻ loạng choạng như thể va vào nhau. Giọng khào, đôi khi có những âm crack, dường như đến từ trạng thái lúc nào cũng oversing, luôn cố với lấy một cái điểm cao gì đó. 
Câu chuyện đời tư Phương Thanh là một câu chuyện rags to riches, và hoàn toàn tương thích với tính chất bản năng, thô sơ trong giọng hát cô. Cô không sinh ra trong gia đình làm nhạc như Thanh Lam, không được đào tạo bài bản. Từ nhỏ đã phải bươn chải mưu sinh, nên ở cô không có sự khéo ăn khéo nói như Hồng Nhung. Trái lại, Phương Thanh dính vào rất nhiều scandal lẫn bấp bênh xuyên suốt sự nghiệp của mình, từ đánh người, bị chơi ngải, bị khủng bố đến tạm nghỉ hát, em trai nghiện hút, cạo đầu hướng phật, hay là gần đây bị chỉ trích vì phát ngôn về vụ từ thiện bão lũ miền Trung. Nhưng cũng như Thanh Lam từng lên báo vì những vụ như đánh ghen, tôi cảm thấy cái mớ dấm dớ lộn xộn ấy mới làm nên một Phương Thanh. Nó là một cái cách sống tự phát, quyết liệt, bộc trực như Edith Piaf của Marion Cotillard trong La Môme, như cách hát hết mình không kiềm chế của Phương Thanh những ngày đầu, và chính nó làm những người vốn thực lòng yêu mến Phương Thanh sẽ luôn bên cô dù có thế nào.
Và quan trọng nhất, Phương Thanh thì queer. Nếu phải so sánh về mức độ queer thì Phương Thanh ăn đứt mọi gương mặt quốc dân khác. Tướng đi hai hàng, quần bò, tank top. Không sexy, không nữ tính, luôn tự nhận mình nam tính, bị cho là giang hồ, thô bạo, thậm chí từng bị báo lá cải tung tin lesbian. Những đổ vỡ, dấm dớ biến hình tượng Phương Thanh về sau này thành một thứ gì đó rất deviant, như một chiếc mặt nạ grotesque. Các đạo diễn vì thế thích giao cho cô những vai chợ búa, đĩ điếm, tú bà, ăn mày hát rong. Và Phương Thanh đóng một vai trong phim Lô Tô, cũng như hát ca khúc chính cho bộ phim này. Cô cũng nhiều lần thể hiện thái độ và quan điểm của mình như một ally. Điều đó phản ánh sự cởi mở của Phương Thanh với những dị biệt. Có lẽ tôi thích Phương Thanh cũng vì chính vì điều này. 
Thử xem lại toàn bộ nam ca sĩ của thế hệ Phương Thanh, thậm chí là đến tận bây giờ, chắc chắn không bao giờ rớt ra được một cá tính nào tương tự như David Bowie, Mick Jagger, Axl Rose hay Steven Tyler. Còn ca sĩ nữ thì chỉ toàn những cô búp bê hoặc phụ nữ dịu dàng. Và việc tôi bị ấn tượng bởi Phương Thanh những năm lên 7, muốn hát giống cô ấy, muốn trình diễn giống cô ấy, chứ không phải là Lam Trường, Duy Mạnh hay Tuấn Hưng (trong khi cơ hội tiếp cận là như nhau), lý giải nhiều hơn mọi tranh cãi về nguồn gốc tự nhiên hay xã hội của tính queer. Và cũng trong cùng thời điểm đó, tôi đã biết mò vào boudoir của dì tôi, với những son phấn tôi làm drag show trước cả khi biết những người diễn ở lô tô là người chuyển giới. Is it nature or nurture, then? 
Hôm nay, sau 24 năm, Phương Thanh vẫn đứng đó trên sân khấu hát Giã từ dĩ vãng. Vẫn cách hát nghe rõ tiếng lấy hơi, vẫn cái nốt ruồi giả trên mép trái. Không còn gào thét, mà đằm dịu, kiểm soát và một chút gắng gượng, như hoa tàn mà lại thêm tươi, trăng tàn mà lại gấp mười rằm xưa. Và xem Phương Thanh, tôi nhớ lại một thằng nhóc 7, 8 tuổi đi khắp xóm để hát Trống vắng. Nó cũng bắt chước cô hất tóc lên lúc cao trào, dù đó chỉ là một quả đầu ngắn cũn cỡn.
030221