Xứ Cát của Frank Herbert là một trong những tượng đài vĩ đại nhất của thể loại khoa học viễn tưởng. Vũ trụ của Xứ Cát vừa đồ sộ, vừa chi tiết và giàu triết lý. Điểm thú vị của Xứ Cát là nó sử dụng những chủ đề rất khó nhằn là chính trị, tôn giáo và triết học; lại đặt ra những câu hỏi lớn về nhân tính, về trách nhiệm và về quyền lực. Những khía cạnh đó đã giúp Xứ Cát có một vị trí đặc trưng không chỉ trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng, mà có lẽ còn trong cả văn học nói chung. Phân tích vũ trụ và các nhân vật của Xứ Cát là một điều rất phức tạp mà cũng hay ho, khi họ đều là những con người không hề hoàn hảo và rất chân thực. Có lẽ không gì thú vị hơn, khi chúng ta cùng phân tích tác phẩm Xứ Cát và nhân vật chính của nó - Paul Atreides, một con người đầy bi kịch.

Bài kiểm tra về nhân tính

Vũ trụ của Xứ Cát là một vũ trụ vừa xa lạ, mà cũng vừa gần gũi. Gần, là vì nó chính là vũ trụ của chúng ta trong tương lai. Mà xa, là vì những sự biến đổi không ai ngờ được trong tiến trình phát triển của nhân loại. Trong Xứ Cát, không còn AI, không còn máy móc thông minh. Mọi thứ mang một vẻ vừa hiện đại, vừa cổ xưa. Hiện đại, là ở những phi thuyền vũ trụ khổng lồ, là những thiết bị tối tân. Cổ xưa, là ở thể chế quân chủ phân quyền của Đế chế vũ trụ, là ở những thế lực nằm trong bóng tối để thao túng cả nhân loại. Ở đây, chúng ta đang nói đến Bene Gesserit, một Hội Nữ tu mang nhiều quyền năng kỳ lạ, bí mật thao túng các Đại Gia tộc. Với khả năng kiểm soát các bộ phận cơ thể đến mức độ tế bào; hàng trăm, hàng ngàn năm qua các Bene Gesserit đã bí mật chọn lọc những mã gen tinh túy nhất, để phục vụ mục tiêu tối thượng của họ. Đó chính là sinh ra một Bene Gesserit là nam giới, một người toàn năng, một Đấng Tối Cao, một Kwisatz Haderach để dẫn dắt toàn nhân loại tới Con Đường Hoàng Kim.
Tuy nhiên, Bene Gesserit thì vẫn là con người, và con người thì luôn luôn có cảm xúc. Các Nữ tu Bene Gesserit luôn được dạy phải biết kiểm soát bản thân đến tối đa; nhưng họ vẫn là con người, biết yêu và biết ghét, biết hy vọng và liều lĩnh, có lòng tự tôn. Chính những điều ấy đã đưa đến một thay đổi nho nhỏ trong cái kế hoạch kỹ càng được xây đắp qua hàng chục hàng trăm thế hệ. Theo đúng kế hoạch, người thiếp của Công tước Leto Atreides sẽ sinh con gái, và Bene Gesserit sẽ tìm cách để người con gái ấy kết hôn với người thừa kế của Nam tước Vladimir Harkonnen. Đạt được điều này, thù địch giữa hai Đại Gia tộc sẽ phần nào dịu bớt, hai dòng máu quyền năng bậc nhất được chọn lựa qua nhiều thế hệ sẽ kết hợp, và thành quả sẽ là một Kwisatz Haderach. Thế nhưng Jessica cùng tình yêu với Công tước Leto, và những hy vọng cùng lòng tự tôn của chính cô, đã dẫn đến việc làm trái kế hoạch, và sinh ra một con trai - Paul Atreides.
“Bọn ta đã bảo ngươi chỉ được phép sinh con gái cho gia tộc Atreides.” “Điều đó rất có ý nghĩa với ngài ấy,” Jessica biện hộ. “Và ngươi, với cái thói tự tôn của mình, nghĩ rằng bản thân có thể sinh hạ Kwisatz Haderach!” Jessica hất cằm lên. “Con cảm thấy có khả năng.” “Ngươi chỉ nghĩ đến chuyện Công tước mong mỏi có con trai,” bà lão cáu kỉnh. “Mà mong mỏi của ông ta thì chẳng liên quan gì đến chuyện này hết. Một đứa con gái dòng họ Atreides thì đã có thể cưới người thừa kế của dòng họ Harkonnen và hàn gắn mối bất hòa. Ngươi đã làm cho vấn đề trở nên phức tạp vô phương cứu chữa. Giờ thì có lẽ chúng ta sẽ mất cả hai dòng máu.”
Paul Atreides là một người có tiềm năng để trở thành Kwisatz Haderach, nhưng mọi thứ xảy ra sớm một thế hệ, và vượt ngoài tầm kiểm soát của Bene Gesserit. Và với việc mâu thuẫn giữa hai Đại Gia tộc Atreides - Harkonnen ngày càng leo thang, cuộc chiến giữa họ sẽ có thể đưa đến một kết cục là cả hai dòng máu tinh túy bị tuyệt diệt. Bene Gesserit nhận thấy nguy cơ đó, và họ cần tìm cách để phần nào cứu vãn. Nhưng trước tiên, họ cần phải kiểm tra xem Paul Atreides có “xứng đáng” để được cứu không. Điều ấy dẫn đến bài thử thách xuất hiện ở ngay đầu tiểu thuyết - Bài thử thách gom jabbar.
Có thể coi trường đoạn về Bài thử thách gom jabbar là trường đoạn quan trọng bậc nhất ở phần đầu truyện, và có sức nặng rất lớn trong việc thiết lập nhân vật Paul Atreides và dự báo một tương lai trắc trở của cậu. Gom jabbar là một bài kiểm tra của Bene Gesserit dành cho những người có tiềm năng, hay nói như họ, là để tìm ra những "con người thực thụ". Bài kiểm tra rất đơn giản, ứng viên cho tay phải vào trong một cái hộp nhỏ, dường như rỗng không, trong khi người thử thách sẽ cầm một cây kim tẩm độc và để nó ngay gần cổ họng ứng viên. Suốt quá trình kiểm tra, nếu ứng viên rút tay ra khỏi hộp, mũi kim sẽ đâm thẳng vào, và chất độc sẽ giết chết người đó ngay tức khắc. Bài kiểm tra chỉ như vậy, vượt qua được thì sống, ngược lại thì chỉ có đường chết.
“Ngươi sẽ cảm thấy đau đớn ở bàn tay đút trong chiếc hộp này. Đau đớn. Nhưng! Chỉ cần ngươi rút tay ra là ta sẽ đâm gom jabbar vào cổ ngươi - cái chết sẽ đến mau lẹ như đầu rơi dưới lưỡi rìu đao phủ. Hễ ngươi rút tay ra là gom jabbar sẽ đâm vào ngươi. Hiểu không?” “Cái gì ở trong hộp vậy?” “Sự đau đớn”
Gom jabbar, kẻ thù siêu việt. Gom jabbar, mũi kim kịch độc. Và gom jabbar cũng là bài kiểm tra về nhân tính.
Mục đích của bài kiểm tra gom jabbar là để xem ứng viên có phải là một "con người" hay không. Vì theo triết lý của Bene Gesserit, tâm trí con người có thể vượt qua bất kỳ phản ứng thể xác nào. Nếu một cá nhân có thể dùng tâm trí lấn át bản năng cơ thể, thì đó mới là một con người thực thụ. Và bài kiểm tra gom jabbar chính là để thử xem một cá nhân có phải con người thực thụ hay không, y có nhân tính hay không, hay là y sẽ phó mặc cho bản năng loài vật làm chủ những lúc nguy nan. Đau đớn là khi một cá nhân dễ bộc lộ bản năng loài vật nhất. Một con vật có thể chấp nhận tự cắn đứt chân để thoát khỏi bẫy, tức là nó chịu thua những thử thách thể xác mà chỉ mong giữ mạng. Nhưng còn con người thì khác. Con người sẽ ở nguyên trong bẫy, chịu đựng nỗi đau, giả chết để có thể giết kẻ đặt bẫy và thủ tiêu mối đe dọa ấy cho đồng loại của y. Nếu một cá nhân có thể chứng tỏ bản thân có nhân tính khi chịu đựng đau đớn cùng cực trong bài kiểm tra gom jabbar, thì y có tiềm năng, và là kẻ xứng đáng để học hỏi những điều huyền bí sâu xa về tâm trí.
Theo lẽ thường, bài kiểm tra này hầu như chỉ được thực hiện với ứng viên nữ, vì chỉ có nữ giới mới được phép tham gia Bene Gesserit. Nhưng ở đây, chúng ta thấy rằng một nam giới là người được kiểm tra. Ấy là một điều cho thấy rằng Bene Gesserit đã thực sự nghiêm túc coi Paul là người có khả năng trở thành Kwisatz Haderach, dù sự ra đời của cậu hoàn toàn không nằm trong kế hoạch. Sức mạnh và quyền năng của một Bene Gesserit đến từ khả năng kiểm soát cơ thể một cách kinh ngạc, gần như là đáng sợ. Thậm chí, nhiều người còn gọi các Nữ tu Bene Gesserit là các mụ phù thủy với một vẻ vừa khinh ghét vừa khiếp hãi. Bằng những bài tập, một Bene Gesserit có thể kiểm soát tinh thần và toàn bộ các cơ quan đến mức độ tế bào. Điều cốt yếu trong triết lý của Bene Gesserit là “không được sợ hãi”, và những lời trong Kinh cầu nguyện Chống Nỗi sợ đã thể hiện rõ điều ấy:
Ta không được sợ hãi. Sợ hãi giết chết tâm trí. Sợ hãi là cái chết nhỏ mang đến sự phá hủy hoàn toàn. Ta sẽ đối mặt với nỗi sợ. Ta sẽ để nó đi khắp người ta và xuyên qua ta. Rồi khi nó đã đi qua, ta sẽ mở nội nhãn để nhìn đường đi của nó. Ở những nơi nỗi sợ đi qua chẳng còn gì cả. Chỉ còn lại chính ta.
Paul Atreides được sinh ra với hy vọng của Jessica rằng cậu có tiềm năng trở thành Kwisatz Haderach, cho nên ngay từ bé đã được huấn luyện theo những phương pháp của Bene Gesserit. Những khả năng thị kiến của Paul nhờ thế sớm được bộc lộ phần nào. Và cậu có một khả năng kiểm soát cơ thể, chịu đựng đau đớn và nỗi sợ đáng nể; đến mức chính Mẹ Chí Tôn cũng phải tỏ ra ngạc nhiên. Paul Atreides đã vượt qua Bài thử thách gom jabbar, đã chứng tỏ được mình là một “con người thực thụ”.
Nhưng gom jabbar ở lâu đài Caladan ấy chỉ là một khởi đầu nho nhỏ; một điềm báo cho một gom jabbar khác còn to lớn hơn, còn nguy hiểm hơn với Paul Atreides. Gom jabbar thực sự của Paul, là hành tinh sa mạc khắc nghiệt ấy, là Arrakis đầy rẫy hiểm họa, là Xứ Cát.

Âm mưu, cơ hội, và những ván cược

Arrakis là một hành tinh sa mạc khắc nghiệt, cằn cỗi và đầy rẫy nguy hiểm. Ấy thế nhưng đây lại là một hành tinh cực kỳ quan trọng, thậm chí có thể nói là xương sống của toàn Đế quốc. Lý do nằm ở việc đây là nơi duy nhất có thể sản sinh ra hương dược - loại vật chất quan trọng nhất toàn vũ trụ. Không có hương dược thì không thể di chuyển an toàn liên hành tinh, và như thế có nghĩa là hệ thống chính trị, kinh tế của Đế quốc bị ngưng trệ. Chính bởi tầm quan trọng của nó, Arrakis, hay còn gọi là Xứ Cát đã trở thành đối tượng để tranh giành giữa các Đại Gia tộc, bởi kẻ nào nắm giữ nguồn cung hương dược duy nhất, kẻ ấy sẽ trở nên giàu có không tưởng. Và nay, nó trở thành nơi diễn ra những âm mưu tầng tầng lớp lớp giữa những cán cân quyền lực trong Đế quốc: Hội đồng Landsraad, Hoàng đế Padishah, và Hiệp hội Không gian.
Trong Xứ Cát, đã có ba ván cược diễn ra. Những ván cược làm thay đổi cán cân quyền lực, và thay đổi Đế quốc mãi mãi. Công tước Leto Atreides khi tiếp nhận Arrakis từ tay kẻ tử thù Harkonnen, đã đánh cược tương lai gia tộc mình vào cái hành tinh đầy rẫy hiểm nguy, nhưng cũng ẩn giấu vô vàn cơ hội này. Paul Atreides khi thoát khỏi cuộc tấn công của Harkonnen và chạy vào sa mạc, đã đánh cược số phận của bản thân vào người Fremen. Và cũng chính Paul Atreides, khi quyết định công khai đối đầu với những thế lực thù địch, đã đánh cược mạng sống một lần nữa. Chính hành động của cậu, tương lai sẽ thay đổi toàn vũ trụ.
Với ván cược của Công tước Leto; thì nó liên quan tới cái âm mưu, cái kế hoạch tinh ranh của Nam tước Harkonnen cùng Hoàng đế Padishah. Tại thời điểm bắt đầu Xứ Cát, gia tộc Harkonnen đã nắm giữ Arrakis trong 80 năm, và trở nên giàu có một cách không tưởng tượng nổi. Tuy nhiên, mặc cho việc giàu có, danh tiếng của Harkonnen vẫn rất tệ, và ngõ hầu không được tôn trọng mấy trong Hội đồng Landsraad. Gia tộc được kính trọng bậc nhất lúc bấy giờ là Atreides, và Công tước Leto là một con người được kính phục. Việc này khiến Hoàng đế Padishah lo ngại, và khiến Nam tước Harkonnen ganh ghét. Do vậy, Nam tước và Hoàng đế đã bí mật bắt tay để vạch ra một âm mưu triệt hạ gia tộc Atreides.
Đầu tiên, Hoàng đế sẽ tìm một cái cớ để tước Arrakis khỏi tay Harkonnen, và trao cho Atreides, với lý do để cải thiện tình hình khai thác hương dược và chấm dứt xung đột với dân bản địa ở đây. Vì là chiếu chỉ, nên Atreides không thể từ chối. Hoàng đế vẫn là người nắm giữ quyền lực tối cao, và công khai thách thức ông ta thì sẽ phải đối mặt với quân Sardaukar khét tiếng. Công tước Leto không thể chối từ, và bắt đầu việc tiếp quản Arrakis. Và ngay khi có tin Công tước Leto đã ở trên Arrakis, Nam tước bắt đầu hành động ngay. Ông ta cho người giả vờ tấn công Paul, dùng một bức thư từ gián điệp để gieo mối nghi ngờ và phân tâm Mentat của Atreides là Thufir Hawat. Sau đó, ông ta dùng tên gián điệp thực thụ để phá hệ thống Khiên chắn để quân của Harkonnen đổ bộ xuống. Hoàng đế sẽ góp phần bằng cách cho quân Sardaukar của ông ta mặc giả quân phục Harkonnen. Với việc Arrakis là một hành tinh không có vệ tinh nào theo dõi, Hội đồng Landsraad sẽ hoàn toàn mù tịt về cuộc đột kích, và quân lực của Atreides ở đây không thể so bằng ở quê hương của họ là Caladan, nên thất bại là điều không thể tránh khỏi. Và thế là sau khi mọi chuyện xong xuôi, tất cả sẽ chỉ biết rằng đây là cuộc đột kích đơn lẻ của Harkonnen, chứ Hoàng đế chẳng hay biết gì.
“Biết cái bẫy ở đâu, đó là bước đầu tiên để tránh nó. Nó giống như cuộc đấu tay đôi vậy, con trai ạ, chỉ có điều là trên quy mô lớn - một đòn nghi binh trong một đòn nghi binh trong một đòn nghi binh... cứ thế dường như bất tận. Nhiệm vụ là tháo gỡ nó ra. Biết bọn Harkonnen đang tích trữ melange, chúng ta hãy hỏi một câu khác: Còn ai tích trữ nữa? Đó là danh sách kẻ thù của chúng ta.” “Ai?” “Một số Gia tộc mà chúng ta biết là chẳng thân thiện gì và một số mà chúng ta vẫn cho là thân thiện. Tạm thời chúng ta không cần xét tới họ vì còn một người khác quan trọng hơn gấp bội: Hoàng đế Padishah kính mến của chúng ta.” Paul cố nuốt nước bọt trong cái cổ họng đột nhiên khô khốc. “Cha không thể triệu tập Landsraad, vạch trần...” “Để kẻ thù biết chúng ta nắm được bàn tay nào đang cầm dao ư? Ái chà, bây giờ, Paul ạ, bây giờ chúng ta thấy con dao. Nhưng ai mà biết rồi nó có thể được chuyển sang tay ai nữa chứ? Nếu chúng ta đưa chuyện này ra trước Landsraad, nó sẽ chỉ tạo ra một đám mây hỗn loạn mà thôi. Hoàng đế sẽ phủ nhận điều đó. Ai nói trái được ý ngài? Cái duy nhất chúng ta đạt được là chút ít thời gian trong khi phải liều lĩnh gây nên hỗn loạn. Thế rồi đòn tấn công kế tiếp sẽ từ đâu đến?”
Âm mưu này không phải quá khó để nhìn ra. Công tước Leto biết rất rõ về chuyện mình đang dấn thân vào một cái bẫy. Ông thậm chí còn biết được việc sẽ có quân Sardaukar mặc giả quân phục Harkonnen. Tuy nhiên, ông không thể công khai kháng chỉ Hoàng đế, cho nên dù biết là bẫy nhưng vẫn phải bước vào. Nhưng như thế không có nghĩa là Leto chịu bó tay mà không làm gì. Ông đã có những kế hoạch nhất định. Leto cử người thăm dò, tìm hiểu dân Fremen để xây dựng quân đội mới trên Arrakis. Công tước biết cú đánh của Harkonnen sẽ sớm đến, nhưng ông nghĩ vẫn còn đủ thời gian chuẩn bị. Nếu mọi sự đi đúng theo dự tính, Atreides sẽ đủ sức đánh tan được cuộc đột kích, bắt được tù binh là quân Sardaukar, và lấy đó làm cớ để gây sức ép lên Hoàng đế.
Tuy nhiên, quân Harkonnen đột kích sớm hơn Leto nghĩ, và với quân số lớn hơn dự đoán rất nhiều. Không ai nghĩ là nhà Harkonnen lại dốc túi đến như vậy. Sự phản bội trong số các thuộc hạ của Leto cũng là một tác nhân lớn.
Như vậy, cốt yếu của mọi thứ xung quanh âm mưu và cuộc đột kích này là về chính trị. Hoàng đế đã lợi dụng mối thâm thù giữa Harkonnen và Atreides để loại bỏ một mối nguy tiềm tàng. Cái âm mưu này người trong cuộc đều nhận biết rõ, và đều có kế hoạch đối phó. Chỉ là có những biến số mà Công tước Leto không ngờ đến mà thôi. Nhưng dẫu sao, đây vẫn là một ván cược nguy hiểm, và thực tế đã chứng minh trong tình thế này, Công tước Leto đã thất bại. Ông đã không kịp chuẩn bị kỹ càng, không thể chống lại đòn đánh hiểm độc và đầy bất ngờ đến từ kẻ địch; dẫn đến sự hủy diệt gần như toàn bộ của gia tộc Atreides. Nhưng dĩ nhiên, mọi chuyện đều có một vài biến số không thể đo đếm hay suy xét; và trong cái âm mưu này cũng thế. Công tước Leto đã chết, phần lớn thuộc hạ của ông hoặc cũng bỏ mình, hoặc bị bắt hay phải lẩn trốn. Tuy nhiên, những nhân vật quan trọng nhất của gia tộc vẫn còn sống: Lệnh bà Jessica, và đặc biệt là người thừa kế của Công tước - Paul. Công tước Leto đã thua trong ván cược của mình, và giờ đến lượt Paul Atreides đi những nước đi đầu tiên trong ván cờ chính trị đầy hung hiểm này.
Lần đánh cược đầu tiên của Paul Atreides diễn ra giữa sa mạc rộng lớn, trong một căn lều thấp bé tăm tối. Gia tộc Atreides đã bị hủy diệt, Công tước Leto đã chết, và chính cậu cùng mẹ cũng mới vừa thoát nạn trong gang tấc. Giờ đây, với tư cách là Công tước Atreides, cậu phải tìm ra một con đường để sống sót. Chính trong thời khắc này, khi tiếp xúc với một lượng lớn hương dược trong không khí, những khả năng của Paul đã thức tỉnh. Trí óc của Paul hoạt động liên tục, tiếp nhận và phân tích dữ liệu, đến mức bản thân cậu phải sợ hãi và đau khổ khi thậm chí còn không thể ngừng lại mà khóc thương cho cha. Song song với đó, những thị kiến, những viễn cảnh tiên tri xuất hiện liên tục trong đầu của Paul. Cậu nhìn thấy vô vàn những con đường, những ngã rẽ. Cậu nhìn thấy và biết những tương lai nào có thể xảy ra dựa theo hành động của mình. Và giữa vô vàn những con đường tương lai, Paul nhìn thấy những cơ hội, và cả những rủi ro. Đây là ván cược đầu tiên của Paul - ván cược cho mạng sống và tương lai của gia tộc Atreides.
Arrakis là một hành tinh khắc nghiệt, nhưng nó có một vai trò tối quan trọng. Chỉ có ở Arrakis, người ta mới khai thác được hương dược. Kẻ nào nắm được nguồn cung của hương dược, kẻ đó nắm quyền điều khiển vũ trụ. Hương dược vừa là báu vật vô giá, vừa là chất độc ngọt ngào. Hương dược giúp gia tăng tuổi thọ, giúp khai mở tâm trí để nhìn thấy những tương lai khả kiến; nhưng đồng thời nó trói buộc con người ta vào sự nghiện thuốc ác nghiệt. Nhưng bí mật của hương dược nằm ở đâu? Câu trả lời chỉ có ở những vùng sa mạc sâu thẳm, nơi không ai dám đặt chân đến. Không một ai, trừ người Fremen. Đó là cơ hội của Paul, cơ hội của gia tộc Atreides. Hàng trăm năm trước, một Bene Gesserit đã sống ở đây, đã lan truyền những câu chuyện, những truyền thuyết giữa các sietch của người Fremen về một Đấng Cứu Thế tới từ một hành tinh khác. Đó là một phần của cái gọi là Missionari Protectiva của họ, là thứ giúp Bene Gesserit kiểm soát những dân tộc mê tín. Thao túng được tôn giáo, sẽ thao túng được dân tộc đó; và khi Kwisatz Haderach xuất hiện, Bene Gesserit sẽ kiểm soát được họ. Dựa trên tiền đề đó, Paul biết rằng trong con mắt của người Fremen, cậu sẽ là Đấng Cứu Thế, là Mahdi của họ, là Lisan al-Gaib - Giọng Nói Từ Ngoại Giới. Nếu Paul có thể chứng minh bản thân mình đích thực là Đấng Cứu Thế, cậu sẽ nắm trong tay một lực lượng đáng sợ; và hơn thế nữa, cậu sẽ nắm được những bí mật của hương dược và của Arrakis. Đó là những vũ khí nguy hiểm, nhưng đủ sức để phục vụ cho việc sống sót và phục hưng gia tộc Atreides, thậm chí giành lấy quyền lực từ Hoàng đế. Đó là “sức mạnh sa mạc” của Arrakis, là thứ mà Paul phải nắm được bằng bất cứ giá nào, nếu cậu muốn tồn tại.
Nhưng con đường nào, cơ hội nào cũng đi kèm với những rủi ro. Hơn ai hết, Paul Atreides biết rằng dù có khoác lên mình những mỹ từ cao cả ra sao, thì cậu vẫn chỉ là một con người. Cậu có những khả năng đặc biệt nhất định, đúng thế, nhưng rốt ráo lại thì cậu vẫn là một người phàm, không phải thánh thần hay Đấng Tối Cao gì hết. Nếu một con người nắm giữ quá nhiều quyền lực về tôn giáo, sẽ có những hậu quả không thể lường được. Chính bản thân Paul đã nhìn thấy những điều ấy trong thị kiến của cậu. Nếu cậu chọn con đường này, thì thấp thoáng đằng sau nó sẽ là đổ máu, là chết chóc, là sự tàn phá quy mô toàn vũ trụ. Ở cuối con đường, Paul đã nhìn thấy jihad - Thánh Chiến.
Cậu đã nhìn thấy một thứ tôn giáo chiến binh ở đó, một ngọn lửa lan tràn vũ trụ với ngọn cờ xanh đen Atreides bay phất phới ở hàng đầu những đoàn quân cuồng tín say rượu hương dược. Gurney Halleck và vài thuộc hạ khác của cha cậu - một dúm người tội nghiệp - đi giữa đám chiến binh, tất cả bọn họ nổi bật bởi biểu tượng chim ưng lấy từ chiếc hòm đựng đầu lâu cha cậu. “Con không thể đi vào đường này,” cậu lẩm bẩm. “Đó là điều mà những mụ phù thủy già ở ngôi trường của mẹ thực sự muốn.” “Mẹ không hiểu con, Paul ạ,” mẹ cậu nói. Cậu vẫn im lặng, đang suy nghĩ như cái hạt giống vốn chính là cậu, suy nghĩ bằng cái ý thức giống nòi mà cậu đã trải nghiệm lần đầu tiên như là cái mục đích kinh khủng. Cậu nhận thấy mình không còn căm thù Bene Gesserit hay Hoàng đế hay thậm chí là bọn Harkonnen nữa. Tất cả bọn họ đều bị cuốn hút vào nhu cầu của giống nòi họ, nhu cầu làm mới lại di sản gen đang phân tán khắp nơi của mình, để lai ghép, trộn lẫn và ngâm dòng máu họ vào một nguồn gen mới dồi dào. Và giống nòi chỉ biết duy nhất một phương pháp đáng tin cậy để làm việc này - cái phương pháp cổ xưa, cái phương pháp chắc chắn, đã thử nghiệm thành công, vốn dễ dàng đánh thắng mọi thứ trên con đường của nó: Thánh Chiến. Chắc chắn ta không thể chọn con đường này, cậu nghĩ. Nhưng cậu lại nhìn thấy trong con mắt của tâm trí mình chiếc hòm đựng đầu lâu của cha cùng cảnh bạo lực với lá cờ hai màu xanh đen bay phất phới ở giữa. Lo lắng khi thấy con im lặng, Jessica hắng giọng nói. “Vậy thì... người Fremen sẽ cho chúng ta chỗ trú ẩn?” Cậu ngước lên, đưa mắt ngang qua căn lều được soi chiếu bằng ánh sáng xanh, nhìn chằm chằm vào đường nét quý tộc bẩm sinh trên khuôn mặt mẹ. “Đúng thế,” cậu nói. “Đó là một trong những giải pháp.” Cậu gật đầu. “Đúng. Họ sẽ gọi con là... Muad’Dib, ‘Người Chỉ Đường’. Đúng... đó là cái tên họ sẽ dùng để gọi con.” Và cậu nhắm mắt, thầm nghĩ: Cha thân yêu, bây giờ con có thể khóc thương cha được rồi. Rồi cậu cảm thấy những giọt nước mắt chảy xuống má.
Đây là ván cược của Paul Atreides. Cậu đánh cược tương lai của bản thân, của gia tộc, và của toàn vũ trụ; vào người Fremen. Người Fremen nắm giữ những bí mật sâu kín của Arrakis, là hy vọng lớn nhất và cũng là hiểm họa lớn nhất đối với tương lai của Paul. Cậu biết rất rõ rằng trong mắt những người Fremen mê tín này, bản thân mình đã trở thành một ứng viên khả dĩ là Đấng Cứu Thế của họ. Lợi dụng được điều ấy, Paul sẽ có trong tay một đội quân vừa hùng mạnh, vừa cuồng tín. Khi ta kết hợp hai thứ đó lại, sẽ cho ra kết quả là một lực lượng đáng sợ - hãy trông vào quân Sardaukar của Hoàng đế, những cỗ máy giết chóc cuồng tín và trung thành tuyệt đối. Nếu Paul chọn con đường dẫn tới người Fremen, cậu cũng sẽ có trong tay một đội quân như thế, thậm chí còn đáng sợ hơn. Paul đã trông thấy cái viễn cảnh đáng sợ về Thánh Chiến, khi những đoàn quân Fremen cuồng tín hét vang tên của cậu, tàn sát hàng chục tỷ người và hủy diệt hàng trăm hành tinh dưới lá cờ của gia tộc Atreides. Paul biết đó sẽ là thứ xảy ra, nếu cậu chọn đi theo con đường này, và chính cậu cũng tự nhắc bản thân rằng “ta không thể chọn con đường này”.
Nhưng cuối cùng, Paul Atreides vẫn quyết định tìm đến người Fremen, dù biết rõ những nguy cơ mà con đường này đem lại. Đó là một quyết định khó khăn đến nhường nào, mà một thiếu niên 15 tuổi phải đưa ra? Đừng để bị những danh xưng và tước hiệu mỹ miều của Paul đánh lừa - nào là Công tước Atreides, người có năng lực Mentat, người có thể là Kwisatz Haderach. Tận sâu thẳm trong con người Paul, cậu chỉ là một thiếu niên 15 tuổi; cậu sợ hãi, bối rối, không biết phải làm gì khi tất cả những năng lực thức tỉnh. Chúng đổ xuống trí óc của Paul cùng một lúc, khiến cậu càng thêm hoảng loạn trong một tình cảnh vốn đã quá hung hiểm. Và lúc này, Paul phải lựa chọn - một quyết định không dễ dàng, khi gánh nặng của mạng sống vô số con người trong toàn vũ trụ đè nặng lên vai. Những giọt nước mắt của Paul là để khóc thương cho người cha, nhưng liệu bên cạnh đó có phải cũng là khóc thương cho những người sẽ bị cuốn vào Thánh Chiến trong tương lai, khóc thương cho chính Paul Atreides hay không? Khoảnh khắc khi mà Paul chấp nhận đi con đường dẫn vào sa mạc sâu thẳm với người Fremen, là lúc cậu chấp nhận đánh cược số phận toàn vũ trụ. Đó cũng là lúc Paul chọn định mệnh cho mình. Paul Atreides đã chọn trở thành “Đấng Cứu Thế” của người Fremen. Paul Atreides đã chọn trở thành Kwisatz Haderach.

"Đấng Cứu Thế" Muad'Dib

Chúng ta biết rằng vào cái đêm gia tộc Atreides bị đột kích và hủy diệt, Paul Atreides đã thức tỉnh các năng lực của mình trong sa mạc khi tiếp xúc với một lượng lớn hương dược trong không khí. Đó cũng là lúc cậu trông thấy những viễn cảnh kinh hoàng về Thánh Chiến nhân danh mình. Nhưng vì sự sống còn của hai mẹ con Paul, vì tương lai của gia tộc Atreides, vì mối thù với những kẻ địch; Paul đã chọn con đường có nguy cơ dẫn đến Thánh Chiến. Cậu đã chọn tìm đến người Fremen, dù biết rất rõ bản thân mình ảnh hưởng ra sao tới dân tộc mê tín này. Nhưng đó là cách duy nhất, và thực tế đã chứng minh người Fremen là một lực lượng mạnh mẽ đáng gờm. Họ là công cụ hữu hiệu cho đòn trả thù của Atreides. Họ sống ở những nơi khắc nghiệt cằn cỗi; họ tôn thờ và chinh phục những con Sâu Cát đáng sợ; họ là những chiến binh vô cùng tinh nhuệ. Và khi Paul Atreides chứng minh được khả năng của bản thân, cho họ thấy được những quyền năng của cậu; người Fremen đã đón nhận gia tộc Atreides. Paul Atreides trở thành Paul Muad'Dib, và dần dà chỉ còn lại là Muad'Dib. Muad'Dib, thủ lĩnh tôn giáo; Mahdi của người Fremen; Giọng Nói Ngoại Giới; người sẽ dẫn dắt dân Fremen tới chiến thắng, tới tự do.
Đó là những vai trò, những danh xưng mà người Fremen đặt cho Paul. Trong hai năm, cậu dẫn dắt người Fremen trong cuộc chiến chống lại gia tộc Harkonnen. Paul lãnh đạo họ, huấn luyện những phương thức chiến đấu và tác chiến mới cho họ. Paul đoàn kết nhiều sietch của dân Fremen để tạo nên những lực lượng đông đảo, thiện chiến, và ngày càng cuồng tín. Trong dân Fremen, cái tên Muad'Dib được lan truyền như một lời nguyện cầu xin cứu rỗi. Muad'Dib trở thành biểu tượng của sa mạc, của Arrakis; là người sẽ giải thoát dân Fremen khỏi ách cai trị của Harkonnen tàn bạo. Muad'Dib là Đấng Cứu Thế, là vị thánh bước ra từ những truyền thuyết của người Fremen. Muad'Dib là Nhà tiên tri sẽ biến Xứ Cát trở thành thiên đường. Dưới ngọn cờ của Muad'Dib, người Fremen sẽ tìm thấy vinh quang, sẽ được cứu rỗi.
Đúng như những gì Paul lo lắng khi chọn con đường này, giờ đây cậu đã trở thành một thủ lĩnh tôn giáo bất đắc dĩ của người Fremen. Người ta tôn sùng cậu, chiến đấu và chết vì cậu, hô vang cái tên “Muad'Dib” khi xông trận và khi cầu nguyện. Paul không có thêm bè bạn, mà cậu có thêm tín đồ. Chính mẹ của Paul cũng trở thành một thủ lĩnh tín ngưỡng của người Fremen. Missionari Protectiva của Hội Bene Gesserit đã gieo những mầm mống đầu tiên vào trong những cộng đồng Fremen mê tín. Và nay, Paul cùng Lệnh bà Jessica biến chúng trở thành những cái cây cao lớn vững chãi, dù họ làm vậy vì bất đắc dĩ. Người Fremen hoàn toàn tin phục Paul, vì những quyền năng bí hiểm của cậu, và vì những tài năng thực tế của cậu. Người Fremen cần một vị thánh, một “người hùng” để đoàn kết tất cả, và Paul chính là người mà họ cần. Paul có bối rối, có lo lắng, có hoảng sợ khi thấy mọi thứ cứ dần vượt ra khỏi tầm kiểm soát không? Dĩ nhiên là có. Chẳng phải ngay từ ban đầu cậu đã tự nhủ rằng mình không thể để Thánh Chiến diễn ra hay sao? Nhưng ngay từ khoảnh khắc cậu chấp nhận con đường dẫn vào những sietch trong sa mạc sâu thẳm của người Fremen, thì cái tương lai nơi Thánh Chiến càn quét toàn vũ trụ đã bắt đầu thành hình rồi. Paul dường như bị mắc kẹt giữa nỗi khiếp hãi về tương lai đẫm máu ấy và trách nhiệm của cậu với tư cách là Công tước Atreides.
Bi kịch của Paul nằm ở chỗ, dường như cậu không có ai để chỉ lối dẫn đường. Lệnh bà Jessica vừa yêu thương vừa sợ hãi cậu. Bà yêu thương cậu con trai Paul Atreides, nhưng bà sợ hãi người được gọi là Muad'Dib. Vả chăng, bà cũng không thể hiểu hết những gánh nặng trong tâm trí của Paul. Người Fremen tôn thờ cậu, kính phục cậu; với họ, Paul là thủ lĩnh, là người dẫn dắt. Không ai có thể chỉ dạy, có thể san sẻ gánh nặng tâm trí với cậu. Paul luôn bị mắc kẹt giữa hiện tại và những viễn cảnh tương lai đến rồi đi không báo trước, tới mức nhiều lúc cậu phải tự hỏi rằng điều mình thấy trong trí óc đã xảy ra hay chưa? Khả năng thị kiến của cậu đã thức tỉnh, nhưng chưa hoàn toàn, vì Paul vẫn không kiểm soát được nó. Những viễn cảnh đến không sao cưỡng được, và chúng ngày càng bó hẹp. Vậy cho nên, Paul đã liều mạng đánh cược một lần nữa, để có thể kiểm soát cái năng lực đáng sợ ấy. Cậu phải làm chủ những viễn cảnh, không thể để chúng làm chủ mình. Một lần nữa Paul tự lựa chọn số mệnh - cậu chọn trở thành Kwisatz Haderach, hoặc là chết.
Với các Bene Gesserit, để đạt đến cấp độ tối thượng là trở thành một Mẹ Chí Tôn; họ sẽ phải trải qua một bài thử thách nguy hiểm. Chúng ta đã biết rằng các Bene Gesserit được huấn luyện để có thể kiểm soát từng tế bào trong cơ thể, biến đổi và sắp xếp lại chúng. Và với bài kiểm tra đó, một Nữ tu sẽ được cho uống một loại chất lỏng được gọi là Nước Sự Sống - một loại chất tiết ra từ mật Sâu Cát khi bị dìm chết. Đó là một thứ độc dược kinh khủng, khi chỉ một giọt cũng đủ giết người. Nhiệm vụ của người được thử thách là chuyển hóa Nước Sự Sống thành một loại chất lỏng vô hại, khử đi mọi độc tố trong đó. Nếu thành công, người ấy sẽ mở khóa được kỹ năng tối thượng của Bene Gesserit - họ sẽ có được những ký ức của tổ tiên nằm trong gen di truyền, nhưng chỉ là những tổ tiên nữ. Những Nữ tu Bene Gesserit không thể nhìn vào những ký ức của tổ tiên nam - đó là cái vùng đen tối trong tâm trí mà họ sợ hãi không thể trông vào. Người làm được điều đó là Kwisatz Haderach, Bene Gesserit Toàn Năng và là nam giới. Lệnh bà Jessica khi trở thành Mẹ Chí Tôn của người Fremen cũng phải trải qua nghi thức hung hiểm này. Paul biết điều này, cậu biết nguy hiểm ra sao khi thực hiện nó. Nhưng với Paul, đó là điều cần thiết, là phương thức duy nhất để cho cậu lợi thế tuyệt đối trong cuộc chiến với Harkonnen, với Hoàng đế và Hiệp hội Không gian. Với Paul, đây cũng chỉ như một bài thử thách gom jabbar khác mà thôi - vượt qua thì sống, còn không thì chết.
Và như thế, Paul uống một giọt Nước Sự Sống - chỉ một giọt duy nhất, và hôn mê 3 tuần liền, gần như đã chết. Và sau khi được cứu chữa và tỉnh lại, cậu đã làm chủ được khả năng thị kiến của mình. Cậu đã mở khóa được những ký ức tổ tiên nằm sâu trong gen, nhìn được vào cái nơi tăm tối mà không Nữ tu Bene Gesserit nào dám nhìn. Cậu nhìn thấy Quá khứ, Hiện tại, và Tương lai. Cậu trông thấy vô số ngả đường, vô số tương lai, vô số sự việc. Paul đã trở thành Kwisatz Haderach.
Những người khác sẽ loan truyền câu chuyện cho tới khi nó thành ngọn lửa phừng phừng cháy trên mặt đất. Paul Muad'Dib không giống người thường, họ sẽ nói thế. Không thể nghi ngờ gì nữa. Chàng ta là người, nhưng chàng ta có thể nhìn thấu Nước của Sự sống theo cách của một Mẹ Chí tôn. Chàng đích thực là Lisan al-Gaib. “Con đã thấy tương lai, Paul ạ,” Jessica nói. “Con có nói cho ta nghe con đã thấy gì không?” “Không phải tương lai,” chàng nói. “Con đã thấy cái Hiện tại.” Chàng tự buộc mình ngồi dậy, vẫy tay bảo Chani tránh sang một bên khi nàng tiến lại để giúp chàng. “Không gian trên Arrakis đầy rẫy tàu của Hiệp hội.” Jessica run rẩy trước sự chắc như đinh đóng cột trong giọng chàng. “Đích thân Hoàng đế Padishah đang ở đây,” Paul nói. Chàng nhìn bức trần đá của phòng chàng. “Cùng với Người Nói Sự thật mà ông ta sủng ái và năm binh đoàn Sardaukar. Lão Nam tước Vladimir Harkonnen đang ở đây cùng Thufir Hawat và bảy chiếc tàu lèn chặt bất cứ gã tân binh nào lão ta huy động được. Mỗi Đại Gia tộc đều có tàu đột kích bay trên đầu chúng ta... chờ đợi.”
Cho đến thời điểm hiện tại, Paul đã chấp nhận số mệnh của mình và những hậu quả đi theo quyết định của cậu. Người Fremen muốn Paul là người hùng, là Đấng Cứu Thế Muad'Dib thì Paul sẽ trở thành Đấng Cứu Thế của họ. Hiệp hội Không gian, Hoàng đế hay các Đại Gia tộc coi cậu là mối họa với hương dược, thì Paul sẽ cho họ thấy ai mới là người kiểm soát thứ này. Bí mật của hương dược nằm trong tay người Fremen, và người Fremen biết cách hủy diệt hoàn toàn hương dược. Không còn đường lui cho Paul, không còn lựa chọn nào khác. Khi mà Paul chấp nhận trở thành Kwisatz Haderach, thì cũng là lúc phần cuối cùng của con người từng là Paul Atreides mất đi. Paul cố gắng níu giữ nhân tính, nhưng càng cố vươn tay ra, thì nó càng phai mờ. Paul chỉ còn cảm thấy trống rỗng, ngay cả khi nhận được tin về cái chết của đứa con đầu lòng. Paul cố gắng để cảm thấy đau buồn, nhưng trí óc của cậu đẩy mọi cảm xúc ra, để hoàn tất công việc trước mặt. Sự lý trí thuần túy của một Mentat mới đáng sợ làm sao! Sự thông thái và vô cảm của một Kwisatz Haderach với ký ức của vô số tổ tiên mới khiếp hãi nhường nào! Sự cô đơn của một vị thánh sống bất đắc dĩ giữa vô số người cuồng tín mới mệt mỏi chán chường thế nào! Paul chọn trở thành Kwisatz Haderach, một cách cay đắng, đau đớn và bất lực. Đó là việc phải làm, Paul biết như thế, và cậu cũng biết chính hành động ấy đã đóng cái đinh cuối cùng lên thứ gọi là Thánh Chiến. Sẽ không ai còn có thể ngăn cản tương lai đó xảy ra được nữa. Chẳng khôi hài sao, khi cuối cùng mọi thứ mà Paul làm đều dẫn đến Thánh Chiến, dù cậu đã tự nhủ mình không thể chọn con đường ấy? Hay phải chăng chính nỗi sợ về Thánh Chiến đã đưa đẩy Paul đi đến con đường giành lấy quyền lực tối cao, để rồi chính việc ấy đã châm ngòi cho những chống đối và khiến cho Thánh Chiến xảy ra? Bi kịch của một kẻ nhìn thấy tương lai có phải là như thế chăng?
Không gì có thể ngăn cản Thánh Chiến, bởi vì vào thời điểm này, Paul đã trở thành Thánh Muad'Dib, Đấng Cứu Thế, Mahdi của dân Fremen. Kể cả cậu có chết, người Fremen vẫn sẽ tiếp tục chiến đấu, đem ngọn lửa chiến tranh đến mọi ngóc ngách của vũ trụ nhân danh cậu. Không thể thay đổi điều ấy được nữa.
Và Paul nhận thấy mọi nỗ lực của chàng hòng thay đổi bất kỳ mắt xích nhỏ nào trong chuyện này đều thật vô ích. Chàng từng toan chống lại cuộc Thánh Chiến trong chính mình, nhưng cuộc Thánh Chiến vẫn sẽ xảy ra. Đạo quân của chàng sẽ từ Arrakis ồ ạt tràn ra mà thậm chí không cần có chàng. Họ chỉ cần truyền thuyết, mà chính chàng đã trở thành truyền thuyết đó. Chàng đã chỉ cho họ con đường đó, cho họ nắm quyền thao túng thậm chí cả Hiệp hội, cái bọn người vốn không thể sống thiếu hương dược. [...] Đây là đỉnh điểm, Paul nghĩ. Từ đây, tương lai sẽ mở ra, những đám mây rẽ ra dẫn tới một kiểu vinh quang. Và nếu ta chết ở đây, họ sẽ nói ta hy sinh thân mình để linh hồn ta có thể dẫn đường cho họ. Còn nếu ta sống, họ sẽ nói không ai có thể chống lại Muad'Dib.
Đó là bi kịch của Paul Atreides, của một Kwisatz Haderach đến quá sớm. Kwisatz Haderach ấy có thể tự do khỏi bàn tay kiểm soát của Bene Gesserit, nhưng lại bị kìm kẹp bởi chính những viễn cảnh và những ngả đường trong trí óc. Kwisatz Haderach ấy đã từng là Paul Atreides, giờ đã trở thành Paul Muad'Dib, Hoàng đế Padishah và vị thánh của dân Fremen. Người ấy mới cô độc và đau khổ làm sao, khi những lựa chọn cuối cùng lại vẫn dẫn đến cái điều khủng khiếp mang tên Thánh Chiến. Paul Atreides đã chọn vận mệnh của mình; và lựa chọn ấy đem đến những bi kịch khủng khiếp, cho chính bản thân cậu, cho toàn vũ trụ. Cậu không phải anh hùng, không phải người được chọn, không phải một vị thánh. Đó là những danh xưng mỹ miều mà những con người cuồng tín khoác lên cho cậu. Đó là những gì mà người ta muốn cậu trở thành. Nhưng sâu trong thâm tâm, Paul Atreides là một con người - và là một con người đầy bi kịch.

Kết

Paul Atreides nói riêng và toàn bộ dàn nhân vật của Xứ Cát (cũng như các tác phẩm hậu truyện trong vũ trụ này) đều là những hình mẫu phức tạp và đa phần ẩn chứa đầy bi kịch. Nếu chỉ biết sơ qua về motip của Xứ Cát, thật dễ để ta nghĩ rằng câu chuyện của nó đi theo những lề thói thông thường của một tác phẩm phiêu lưu khoa học viễn tưởng với một hình mẫu “người được chọn”. Tuy nhiên, Xứ Cát chẳng hề đơn giản như vậy. Câu chuyện của nó là những suy ngẫm của Frank Herbert về quyền lực và trách nhiệm, về chính trị và tôn giáo, về vai trò của những hành động, và về bi kịch của những con người trong đó. Paul Atreides là nhân vật điển hình cho những triết lý ấy của Herbert, và có lẽ bi kịch của nhân vật này là điều tạo nên sức sống bất diệt cho Xứ Cát, dù đã hàng chục năm trôi qua.