Linh ngồi tại chiếc bàn bừa bộn của cô, cố gắng che chắn bản thân khỏi ánh trời chiều. Chỗ cô ngồi quay lưng với lớp cửa kính bao quanh tòa nhà. Có một tấm rèm mỏng chắn ngang, nhưng bức màn mỏng manh đó là không đủ để ngăn chặn cái nắng bên ngoài. Cô luôn cảm thấy như có một đám cháy sau lưng, vừa rọi chiếu vừa thiêu đốt cô. Cô vân vê cái cốc xứ màu xanh đặt góc bàn, tự hỏi liệu có nên đứng lên đi lấy một cốc nước không. “Mười lăm giờ mười phút”, cái đồng hồ trên máy tính nói với cô như vậy. Còn hai tiếng nữa mới hết giờ. Hai tiếng là quá dài cho mọi sự nhẫn nhịn. Nghĩ vậy, cô đứng lên, quyết định sẽ đi lấy một cốc nước.
Linh đã đến đây được bốn tháng. Công việc đơn giản, thường chỉ khiến cô bận rộn vào cuối tháng hoặc khi có nhân viên mới. Nói đến nhân viên mới, có một người vào ngay sau cô. Cô nhớ anh ta đã tự đi chào tất cả mọi người, tự giới thiệu, và khi nhận ra cô cũng là nhân viên mới thì đã nói: chúng ta hẳn sẽ thân nhau. Nhớ lại điều này làm cô mỉm cười. Dù lời nói đẩy đưa làm quà nhưng hứa hẹn những sự hi vọng mơ hồ. Những buổi chiều trôi qua trong chờ đợi như này, cô thường cảm thấy bồn chồn. Cái ý nghĩ có một người cũng cảm thấy như vậy, dù chỉ trong tưởng tượng, giúp cô vơi đi phần nào cảm giác lạc lõng.
Duy biết Linh cảm thấy thế nào. Duy biết điều đó rõ hơn đống hồ sơ bảo hiểm và xuất nhập khẩu, thứ mà anh làm hàng ngày,  mặc dù anh đã làm những giấy tờ đó hơn chục năm. Duy biết vì Duy biết. Duy ngồi đây đã lâu, trong góc bàn này, và mỗi cuối chiều vẫn luôn nhìn ra cái khoảng cửa kính thông ra bầu trời phía sau Linh. Từ hồi cô đến, được chuyển đến ngồi ở khung cửa đó, bầu trời của Duy đành đứng chờ ngoài rèm cửa. Đó là một sự mất mát, Duy nghĩ, nhưng không hề gì, Duy tiêp tục nghĩ. Không còn bầu trời nhưng ở đây đã có một con chim xinh đẹp.
Linh ngồi dưới rèm giống như một con chim. Chính xác hơn là một con chim trong lồng. Bộ rèm với những cái tua trắng giống như nan lồng, và đám vải rem màu vàng ở trên cao giống như những nếp gấp trang trí ở tay cầm. Linh trông giống như chim chào mào, Duy nghĩ. Cô buộc tóc lên cao và có cái nhìn hướng lên, đôi kính tròn như ánh mắt. Cô hay mặc sơ mi trắng váy đen, làm ánh sáng như đọng lại quay người. Luôn có một vùng hoặc sáng hoặc tối qua quanh cô. Duy nghĩ tới con chim hồi bé mình đã nuôi. Một con chim đẹp đẽ và luôn khao khát tự do.
Duy chỉ cho Linh những điều cần biết về công việc. Chính anh đã làm những việc đó trước khi cô đến. Chính anh là người đề nghị tuyển thêm, để anh có thể nghỉ. Cứ mỗi năm khi dãy sấu vòng quanh khu phố trĩu quả, nhìn những quả sấu rơi xuống đất và trôi xuống cống sau mỗi cơn mưa, anh lại thầm nhủ đây là năm cuối. Nhiều năm cuối đã trôi qua, và anh bắt đầu tránh nhìn những đám sấu rụng cuối mùa.
-Đã bắt đầu rồi đó em, Duy nói.
-Gì ạ, Linh quay lại nhìn, và thấy Duy đang nhìn chăm chú về chỗ ngồi đang bỏ trống của cô. Cô biết Duy hay nhìn cô trong giờ, và điều này làm cô bối rối. Trừ điều đó ra thì cô quý anh. Anh ân cần và giúp cô nhiều. Thỉnh thoảng anh hay kể cho cô nghe mấy chuyện kì quặc. Kiểu hôm nay trời mưa, thế nào cũng có người ngã. Cô không hiểu ý anh cho đến lúc cô trượt một đường dài trên sàn, tý nữa là lộn nhào tại chỗ. Dù khó hiểu vậy nhưng cô thích các câu chuyện của anh.
-Mùa hè, Duy tiếp tục.
-Cô nhớ lại cái lịch bàn, nay là ngày 18 tháng 6.
-Mùa sấu đến rồi, em sẽ thấy cái lề hè phía trước đẹp lắm, Duy nói.
-Vâng, quê em cũng trồng sấu, cả rừng sấu bao quanh nhà, Linh cười.
-Em biết sấu rụng để làm gì không, Duy hỏi.
- Để ăn, Linh đáp. Cô nghĩ đây là một câu hỏi kì quặc như mọi hôm của Duy, nên khi thấy Duy im lặng thì cười thật tươi thêm một cái rồi quay lại chỗ ngồi.
Linh không thích sấu. Rừng sấu cạnh nhà Linh, nơi mà Linh khi lớn lên đã thấy chúng cao ngợt trời, là sấu câm. Chúng tươi tốt quanh năm, lá xanh rồi lá vàng, nhưng không bao giờ ra hoa. Không có hoa, không có quả, chỉ là những tàng lá rợp bóng và tiếng rì rào. Ba Linh đã thử đủ mọi cách để cây sấu ra hoa ra quả, đặng kiếm thêm chút tiền. Nhà Linh nghèo, để Linh đi học được đến ngày này là một sự cố gắng. Trong sự cố gắng có chứa sự buồn bã của vườn sấu. Linh nhớ lần ba Linh đã khứa vào cây thành những rạch nhỏ, để từng dòng nhựa chảy xuống. Làm như vậy để sấu ra hoa. Nhưng vô ích. Vào một ngày say ba Linh đã mang dao ra chặt những cây sấu ấy. Nhưng cũng vô ích. Một người say rượu gầy gò không thể chặt được những cây sấu to. Sau ngày hôm đó thì bọn sấu được để yên. Mỗi lần nhìn vườn sầu xum xê, Linh như nhìn thấy khoảng mênh mang của kí ức mình.
Linh sống trong một phòng trọ nhỏ, xinh xắn nhưng chật chội. Cô thích căn phòng của mình, nhưng luôn nghĩ đến những căn phòng to hơn, nơi cô có thể kê thêm 1 cái bàn, bày thêm 1 cái kệ, hoặc đơn giản chỉ là thêm lối để đi ra đi vào. Thỉnh thoảng vào những ngày lĩnh lương, cô thường rụt rè xem những căn phòng khác, tìm một nơi có cửa sổ hoặc một nơi có bếp riêng. Chỉ thỉnh thoảng thôi, vì dạo này Linh rất hay thiếu trước hụt sau. Cô muốn mình đẹp thêm một chút, để có thể hi vọng hơn một chút. Cô nhận ra nhiều người để ý mình. Cô có thể xinh đẹp. Cô thử, vừa thích thú vừa mệt mỏi trước những viễn cảnh mới này.
Mùa hè đến với mưa rào. Dưới trời mưa, bầu trời như nhòa đi. Ở trong văn phòng nhìn ra, Duy nhìn thấy cái dáng lờ mờ của đám sấu, rồi một khoảng trắng sáng phía xa của biển hiệu quảng cáo. Mấy ngày này Duy thường chơi cờ tướng lúc hết giờ. Anh mới xem bản kế hoạch nhân sự. Những người mới về đang mang lại những luồng gió mới cho nơi đây. Anh nghe loáng thoáng mọi người rỉ tai nhau về cậu nhân viên mới: đi học về, tài năng, sẵn sàng thay đổi… Rồi những bản kế hoạch về chiến lược mới. Công ty sẽ bỏ bớt phần hành chính, và gửi người ra “mặt trận”, như ngôn ngữ cậu nhân viên kia. Công ty muốn nhân viên ở cạnh khách hàng, chứ không phải ở đây, ở trên văn phòng. Duy cảm thấy ngột ngạt. Duy bông đùa với mấy người xung quanh: Chúng ta là những quả sấu rụng. Không ai cười.
Những đồng nghiệp của Duy như những con chim riêng lẻ. Có con đen và lầm lũi. Già nua hoặc trẻ trung. Có con sặc sỡ và đeo những cái cà vạt nhiều màu. Vui vẻ nhưng tách biệt. Vào mỗi năm giờ chiều những con chim này sẽ túa ra mọi nơi, sẽ về những cái tổ ngăn nắp và đầy đặn, để sáng hôm sau có mặt ở đây trong lần lũi hoặc vui tươi. Thỉnh thoảng Duy nghĩ, nếu có một cơn bão thật to thổi qua đây, thì liệu có gì xảy ra. Giờ cơn bão đó đã đến. Duy nhìn đồng nghiệp xung quanh. Duy biết rằng mình sẽ phải bay ra khỏi đây, như một con chim vô danh trong đàn chim vô danh không rõ bến bờ này.
Hồi bé, khi bắt những con chim non trên những cái tổ cao, Duy thường tự hỏi chúng tập bay bằng cách nào. Duy đứng rình dưới những gốc cây, và nhận ra có những loài chim sẵn sàng bỏ đi khi thấy động. Có những con sẵn sàng bỏ cả tổ và con non của mình. Duy thấy nghẹn khi trèo lên cây và thấy những con chim non chết khô. Có những con chim non chết nhoài ra khỏi tổ, chân cố bám víu vào trong bằng những chiếc móng bé xíu. Duy thấy đó như lỗi của mình. Duy làm những cái lồng. Nhưng nhận ra là mình cũng chẳng khá hơn. Có những con chim chết đứng dựa vào góc lồng. Duy muốn hỏi làm thế nào để chúng không chết. Duy thấy mình kẹt trong những con chim đó, suốt bao năm.
-Anh Duy đang lo cho mấy cây sấu đúng không, Linh hỏi.
-Không, Duy đáp, rồi nói thêm. Không biết trong đám cây đó có con gì sống không?
-Em nghĩ phải trèo lên mới biết được.
-Em có hay trèo cây không?
-Không, em không biết.
-Em có muốn thử không?
Linh thường cười trừ trước những câu hỏi như này. Người ta thường khen cô, hoặc hỏi cô những câu hỏi không quan trọng câu trả lời. Chỉ có Duy hay hỏi cô những câu như này. Cô nhìn kĩ lại anh. Nhiều lúc cô nghĩ giá mà cô gặp anh sớm hơn. Giờ cô đã có những ước mơ mới. Nghĩ vậy, cố bất giác nhìn sang căn phòng bên. Căn phòng bên của hi vọng, của mơ hồ hứa hẹn.
Duy đã nhìn thấy những con chim rơi từ trời cao xuống đất, dù thân xác tan nát nhưng mỏ ngậm chặt và không thể cạy ra. Không biết trước lúc chết bọn chúng cần giữ bí mật gì mà kín mồm kín miệng như vậy. Lúc lao xuống lần cuối ấy, chúng đã nghĩ gì trong đầu. Lúc đang tan nát và biến mất, chúng có vui không.