Một bài viết được mình edit lại từ script gốc rồi mới đăng lên Spiderum, bạn có thể xem trước bản vid tại đây:
OTTO VON BISMARCK và hành trình THỐNG NHẤT NƯỚC ĐỨC | Trần Phan | Thế Giới
Viết bài: Trần Nguyên Phan - "Nats Blackfyre"
Hiệu đính: Hải Stark

Mở đầu
Một trong những cái tên nổi tiếng nhất trong lịch sử châu Âu thời kỳ cận - hiện đại chính là Otto von Bismarck. Ông chính là “Thủ tướng Sắt” quyền lực của Đế quốc Đức, là người đã góp công lớn trong việc hình thành nước Đức hiện đại. Vậy điều gì đã thực sự xảy ra? Hãy cùng mình tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Nội dung
Thời trẻ
Bismarck có tên đầy đủ là Otto Eduard Leopold von Bismarck-Schönhausen. Ông sinh ngày 1 tháng 4 năm 1815 tại làng Schönhausen thuộc vương quốc Phổ, giữa thời điểm châu Âu đang hỗn loạn. Người Đức bấy giờ chưa thực sự có một quốc gia thống nhất, mà chỉ là một tập hợp và liên minh từ nhiều vương quốc và công quốc từng thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh. Hai thế lực mạnh và có ảnh hưởng nhất trong số các vùng đất nói tiếng Đức chính là Vương quốc Phổ và Đế quốc Áo. Vào năm 1806, sau khi thua trận trước Đế chế Pháp của Napoleon, Đế quốc La Mã Thần thánh chính thức bị giải thể. Suốt gần 10 năm sau đó, các vùng đất nói tiếng Đức nhiều lần trở thành chiến trường khốc liệt giữa Napoleon và lực lượng của các Liên minh chống lại Đế chế Pháp.

Trận Waterloo, quân Pháp trong trận này đã suýt nữa thắng và tiêu diệt được quân Anh nếu không phải vì sự can thiệp của tướng Phổ Blucher
Vài tháng sau khi Bismarck chào đời, Hoàng đế Pháp Napoleon thua trận tại Waterloo trước Liên minh thứ Bảy với nòng cốt là các lực lượng của Anh và Phổ. Châu Âu tạm thời được yên bình sau một quãng thời gian dài chiến tranh liên tục. Là người xuất thân từ tầng lớp quý tộc Phổ, nên Bismarck được hưởng nền giáo dục tốt bậc nhất châu Âu thời bấy giờ. Ngoài ra, mẹ của ông - một người nghiêm khắc vốn thuộc tầng lớp trung lưu - cũng chú trọng giáo dục để Bismarck thấu hiểu đời sống của người dân bình thường. Và ngay từ năm lên 7, Bismarck cũng đã lên Berlin để học tập theo lời mẹ.
Giai đoạn này, các nước châu Âu vẫn đang cố gắng khôi phục lại sau quãng thời gian chiến tranh dài với Napoleon và Đế chế Pháp. Trong đó, các vùng lãnh thổ nói tiếng Đức thì được tái xây dựng lại thành Liên bang Đức - một chính thể được tập hợp từ 39 nhà nước khác nhau. Vì hầu hết các nhà nước trong Liên bang này có chung văn hóa và ngôn ngữ, kết hợp với làn sóng chủ nghĩa dân tộc dâng cao, nên đã có nhiều tiếng nói kêu gọi hợp nhất tất cả lại thành một quốc gia duy nhất.
Trong khi đó thì Bismarck bắt đầu theo học ngành luật tại Đại học Gottingen ở Hanover từ năm 1832 đến 1833, dù ban đầu ông có ý định muốn trở thành nhà ngoại giao. Ngoài ra, Bismarck cũng theo học tại Đại học Humboldt Berlin từ năm 1833 đến 1835.
Khi Bismarck 24 tuổi thì mẹ ông qua đời vì bệnh tật. Ngay sau đó ông bỏ việc và trở về điền trang của cha làm việc. Ông cũng tích cực tham gia các hoạt động tôn giáo Tin Lành - tôn giáo chủ đạo của Phổ. Vào năm 1847, khi 32 tuổi, Bismarck được chọn đại diện cho tỉnh Sachsen để vào cơ quan lập pháp mới được thành lập của Phổ là Nghị viện thống nhất. Đây là bước đi đầu tiên vào chính trường của Bismarck, và ông nhanh chóng gây dựng được danh tiếng của mình là một nhà hùng biện sắc sảo.
Và chỉ ít lâu sau, biến động chính trị đã xảy ra ở châu Âu nói chung và nước Phổ nói riêng. Một loạt các cuộc cách mạng nổ ra và lan rộng; khiến về sau năm 1848 còn được gọi với cái tên là “Mùa xuân của các dân tộc”.

Nước Pháp trong cuộc Cách Mạng năm 1848
Những thập kỷ của Máu và Sắt
Tháng 2 năm 1848, cách mạng nổ ra ở Pháp dẫn đến việc vua Pháp bị lật đổ và nền Cộng hòa thứ 2 được thành lập. Thế nhưng nền cộng hòa đó nhanh chóng bị xóa bỏ khi tổng thống Louis Napoleon Bonaparte tổ chức đảo chính và lên ngôi hoàng đế. Ông vốn là cháu họ của Hoàng đế Napoleon lừng danh; sau khi lên ngôi đã xưng là Napoleon III và thành lập Đệ nhị Đế chế Pháp với mong muốn khôi phục vinh quang của Đế chế Pháp ngày trước.
Biến động ở Pháp nhanh chóng lan ra các quốc gia khác. Tại Phổ, cách mạng bùng nổ vào tháng 3 và đe dọa đến triều đình của vua Friedrich Wilhelm IV. Triều đình Phổ, dù lúc đầu có ý định sử dụng các lực lượng vũ trang để đàn áp cuộc nổi dậy, cuối cùng đã quyết định bỏ Berlin để tới tổng hành dinh của quân đội tại Potsdam vì lý do an toàn.
Là thành viên trong Nghị viện, Bismarck đã đề nghị rất nhiều điều nhân nhượng. Ông khoác lên người lá cờ đen-đỏ-vàng của lực lượng nổi dậy; hứa sẽ ban hành một hiến pháp; đồng ý rằng nước Phổ và các bang của nước Đức phải được thống nhất thành một quốc gia, và chỉ định một người theo đường lối tự do làm thủ tướng. Nhưng đó chỉ là những thỏa thuận nhất thời, vì Bismarck vốn là người triệt để ủng hộ nền quân chủ. Ông thậm chí đã định cố gắng tổ chức những nông dân làm tá điền cho gia đình thành một lực lượng vũ trang để tiến về Berlin trên danh nghĩa nhà vua, nhưng dừng lại vì nhận được lệnh của nhà vua. Bấy giờ em trai của vua Phổ là Wilhelm đã chạy sang Anh, và Bismarck thì muốn đưa cậu con trai mới mười mấy tuổi của Wilhelm lên ngai vàng thay thế vua Phổ. Thế nhưng vợ của Wilhelm là Augusta kịch liệt phản đối.
Đến cuối năm 1848 thì nội bộ phe cách mạng bắt đầu bị chia rẽ và khiến họ suy yếu; trong khi phe ủng hộ nền quân chủ đã tập hợp lại quanh nhà vua giành lại quyền kiểm soát Berlin. Dù cuối cùng một hiến pháp vẫn được ban bố, nhưng các điều khoản trong đó còn lâu mới giống như yêu cầu của những người cách mạng. Cuộc cách mạng này cũng giúp Bismarck có cơ hội tiến sâu hơn vào nền chính trị, đưa tên tuổi ông thành một trong những người theo phe bảo thủ ủng hộ nền quân chủ quyết liệt nhất. Sự trung thành của Bismarck đã được vua Friedrich Wilhelm IV để ý đến.
Năm 1849, Bismarck tiếp tục được bầu vào hạ viện trong lưỡng viện mới của Nghị viện nước Phổ. Trong giai đoạn này, Bismarck phản đối việc thống nhất nước Đức do ông nghĩ rằng như vậy thì Phổ sẽ mất đi quyền độc lập. Ông chấp nhận cương vị đại diện cho Phổ ở Nghị viện Erfurt, một nghị viện được lập ra bởi các bang nói tiếng Đức để thảo luận về kế hoạch thống nhất; nhưng thực chất chỉ là để phản đối việc ấy một cách hiệu quả hơn. Nghị viện Erfurt đã không thể mang tới thống nhất, do thiếu sự ủng hộ từ hai thực thể chính trị quan trọng nhất nói tiếng Đức là Vương quốc Phổ và Đế quốc Áo.

Liên Bang Đức giữa hai cường quốc - Đế chế Áo của gia tộc Habsburg và Vương quốc Phổ của Nhà Hohenzollern
Năm 1851, Friedrich Wilhelm IV chỉ định Bismarck tham gia phái đoàn Phổ tham dự Hội nghị Liên bang Đức tại Frankfurt. Vài năm sau đó, ông được bầu vào thượng viện. Quãng thời gian ở Frankfurt đã đánh dấu những thay đổi trong quan điểm chính trị của Bismarck. Ông dần trở nên thực tế hơn và tin rằng để có thể trở thành đối trọng với Áo, Phổ cần liên minh với các bang khác của nước Đức. Vì thế mà ông cởi mở hơn với việc chấp nhận một nước Đức thống nhất với Phổ là trung tâm và có quyền lực đứng đầu. Bismarck cũng cho rằng Phổ cần duy trì quan hệ hữu hảo với Đế chế Nga và Đế chế Pháp.
Tình trạng bị cô lập của Phổ ở giữa thập niên 1850 khiến Bismarck cảm thấy rất lo ngại. Trong cuộc chiến Crimea diễn ra từ năm 1853 đến 1856; Áo đã liên minh với Anh, Đế quốc Ottoman và Pháp để chống lại Nga; thế nhưng Phổ lại không được mời đến tham dự các buổi hòa đàm tại Paris. Thế nhưng tình hình thực tế lại khiến Bismarck chưa thể làm gì khác để thay đổi tình trạng đó. Năm 1858, vua Friedrich Wilhelm IV bị một cơn đột quỵ khiến ông tê liệt thần kinh. Vì thế em trai nhà vua là Wilhelm trở thành nhiếp chính. Nhiếp chính vương đã rút Bismarck ra khỏi đoàn đại biểu ở Frankfurt và chuyển ông đến làm đại sứ cho Phổ ở Nga.
Về hình thức, đó là một sự thăng tiến đáng kể với Bismarck bởi Nga là một trong hai nước láng giềng hùng mạnh nhất của Phổ. Nhưng trên thực tế, có thể coi như Bismarck đã bị loại khỏi đời sống chính trị trong nước. Dù vậy, nhờ bạn bè trong nước mà Bismarck không đến nỗi mù tịt về các diễn biến chính trị tại Phổ và Liên bang Đức trong những năm làm đại sứ ở Nga. Tháng 6 năm 1862, Bismarck được chuyển tới Paris để làm đại sứ tại Pháp. Nhưng một lần nữa, biến cố chính trị xảy ra tại Phổ đã cho Bismarck cơ hội để vươn lên cao hơn.
Năm 1861, vua Friedrich Wilhelm IV qua đời; em trai nhiếp chính vương của ông lên thay và trở thành vua Wilhelm I. Triều đình Wilhelm I thường xuyên mâu thuẫn với Nghị viện, nơi những người theo đường lối tự do dân chủ ngày càng chiếm ưu thế.
Khủng hoảng bùng nổ vào năm 1862 khi Nghị viện từ chối thông qua ngân sách cho một chương trình tái tổ chức quân đội được nhà vua đề xuất. Cả hai bên đều không nhượng bộ. Nhà vua đe dọa thoái vị và tin rằng Bismarck là nhà chính trị duy nhất có thể chấm dứt cuộc khủng hoảng. Thế nhưng vua Wilhelm I vẫn băn khoăn về việc chỉ định một đại sứ chuyên xử lý vấn đề ngoại giao như Bismarck tham gia vào việc đối nội. Tuy vậy, vào tháng 9 năm 1862, sau khi Nghị viện một lần nữa từ chối thông qua ngân sách quốc phòng với đa số phiếu, Wilhelm I đã quyết định gọi Bismarck trở về Phổ. Đến ngày 23 tháng 9, nhà vua chỉ định Bismarck làm Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Phổ. Dù bị nhà vua và thái tử nghi ngờ, bị vương hậu ghét bỏ; Bismarck vẫn nhanh chóng tập trung được quyền lực nhờ cá tính và tài hùng biện của ông.
Chỉ vài ngày sau khi được bổ nhiệm làm Thủ tướng, Bismarck xuất hiện trước Ủy ban Ngân sách của Hạ viện và nhấn mạnh sự cần thiết của sự chuẩn bị quân sự để giải quyết vấn đề Đức. Tại đó, ông đã có bài phát biểu “Máu và Sắt” nổi tiếng của mình, trong đó có đoạn:
“Vị trí của nước Phổ ở Đức sẽ không được xác định bởi chủ nghĩa tự do, mà bởi sức mạnh của nó [...] Các bài phát biểu và các quyết định đa số sẽ không quyết định được những vấn đề lớn - đó là sai lầm lớn của những năm 1848 và 1849 - mà là bằng máu và sắt!”Otto von Bismarck
Bismarck thể hiện sự ủng hộ với nhà vua bằng cách kết thúc sự bế tắc trong vấn đề ngân sách quốc phòng theo hướng có lợi cho nhà vua, dù ông đã sử dụng đến biện pháp ở ngoài khuôn khổ luật pháp. Bismarck tuyên bố rằng do hiến pháp nước Phổ không giải quyết được trường hợp bất đồng giữa những nhà lập pháp và chính phủ cầm quyền, nên ông sẽ sử dụng lại ngân sách đúng như năm trước.
Mâu thuẫn giữa Bismarck và Nghị viện gia tăng trong những năm sau đó. Năm 1863, Nghị viện Phổ thông qua một đạo luật tuyên bố họ không thể làm việc với Bismarck nữa. Điều này chẳng khác nào một lời đề nghị yêu cầu nhà vua cách chức thủ tướng của ông. Nhưng vua Wilhelm I đáp trả bằng cách buộc tội các thành viên đã tìm cách giành quyền kiểm soát phi hiến đối với hoạt động của triều đình. Bismarck sau đó ban hành một sắc lệnh hạn chế quyền tự do của báo chí. Sắc lệnh này thậm chí bị cả thái tử phản đối.
Nhưng bất chấp những nỗ lực ngăn chặn những kẻ chỉ trích, Bismarck vẫn là một chính trị gia bị số đông ghét bỏ. Những người ủng hộ ông chỉ giành được kết quả thiểu số trong cuộc bầu cử vào tháng 10 năm 1863 khi liên minh tự do dân chủ giành 2/3 số ghế ở Nghị viện. Nghị viện lại tiếp tục kêu gọi nhà vua cách chức Bismarck, nhưng nhà vua ủng hộ ông và sợ rằng nếu loại bỏ vị thủ tướng, một chính phủ dân chủ cũng sẽ xuất hiện và đe dọa đến ngai vàng của mình.
Có được sự ủng hộ của nhà vua, Bismarck dần bắt đầu thực hiện công cuộc vĩ đại nhất của mình - đó là thống nhất các vùng nói tiếng Đức thành một quốc gia thống nhất với trung tâm là Phổ.
Liên Bang Bắc Đức
Mục tiêu quan trọng tiếp theo của Bismarck là thống nhất các vùng nói tiếng Đức với Phổ là trung tâm để có được vị thế ngang hàng với Đế quốc Áo. Vấn đề đầu tiên ông gặp phải là hai vùng Schleswig và Holstein nằm giữa Liên bang Đức và Đan Mạch.
Ở Đan Mạch thì sau khi vua Frederick VII qua đời, vị vua mới là Christian IX muốn áp đặt quyền kiểm soát lên hai vùng nói tiếng Đức này. Bismarck lúc này đã thuyết phục được Đế quốc Áo ủng hộ, nên phát động chiến tranh với Đan Mạch. Đây được coi là cuộc chiến đầu tiên trong công cuộc thống nhất Đức của Bismarck. Với lực lượng vượt trội về mọi mặt, liên quân Áo - Phổ đánh bại Đan Mạch và giành được hai vùng đất trên. Lẽ ra về nguyên tắc, Nghị viện Liên bang Đức sẽ quyết định số phận của hai vùng này. Thế nhưng trước khi có bất kỳ quyết định nào được thông qua, Bismarck đã thuyết phục Đế quốc Áo ký thỏa thuận Gastein. Theo như thỏa thuận được ký ngày 20 tháng 8 năm 1865 đó, thì Phổ sẽ nhận được vùng Schleswig, trong khi Áo nhận được Holstein. Cũng trong năm ấy, Bismarck được phong làm Bá tước von Bismarck-Schönhausen. Đồng thời, nhờ vinh quang có được từ cuộc chiến ở Schleswig, Bismarck cũng được người dân Phổ ủng hộ hơn hẳn.

Chiến tranh Áo Phổ
Nhưng năm 1866, Áo bội ước và yêu cầu Nghị viện Liên bang Đức quyết định vấn đề liên quan đến hai vùng Schleswig - Holstein. Bismarck đã lấy cớ Áo vi phạm thỏa thuận ban đầu và tuyên chiến, đưa quân tới chiếm Holstein. Áo lập tức đáp trả bằng cách kêu gọi sự giúp đỡ từ các công quốc Đức khác. Chiến tranh Áo - Phổ vì thế bùng nổ, kéo dài trong vòng 7 tuần từ ngày 14 tháng 6 đến ngày 22 tháng 7.
Điều đáng chú ý là mặc dù Đế quốc Áo có dân số gấp 2 lần Vương quốc Phổ; nhưng lực lượng mà Phổ huy động được lại không hề kém cạnh và lại được tổ chức tốt hơn. Ngoài ra, Bismarck còn bí mật liên minh với Vương quốc Ý, do nước này đang nhòm ngó vùng Venetia do Áo kiểm soát. Trước sự ngạc nhiên của châu Âu, quân Phổ nhanh chóng giành được chiến thắng trước quân Áo trong trận đánh mang tính quyết định ở Königgrätz. Trận đánh xuất phát từ một kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu Phổ, đứng đầu là Bá tước Helmuth von Moltke nhằm huy động ba tập đoàn quân lớn hành quân độc lập từ nhiều hướng, tập kết về Königgrätz để bao vây, tiêu diệt quân đội Áo và đồng minh Sachsen.
Sau nhiều thắng lợi ban đầu, quân Phổ áp sát phòng tuyến chính của quân Áo gần Königgrätz. Trận đánh bùng nổ khi quân Phổ thuộc Tập đoàn quân số 1 và Tập đoàn quân Elbe xông lên phá trận. Do tuyến điện báo bị hỏng, Tập đoàn quân số 2 của Phổ còn xa chiến trường mà lại không nhận được lệnh tiến công. Đến trưa, quân Áo với ưu thế về quân số và pháo binh đã bẻ gãy các mũi tấn công của Phổ. Cùng lúc đó, các sứ giả của Moltke cuối cùng đã đưa được lệnh tới Tập đoàn quân số 2, khiến họ phải hành quân gấp qua những đoạn đường lầy lội. Đến chiều, Tập đoàn quân số 2 của Phổ đã đến nơi và nhanh chóng đánh tan được cánh phải quân Áo. Đồng thời lực lượng pháo binh Phổ cũng đánh tan được trung quân Áo. Thừa thắng, quân Phổ tổng tấn công trên mọi hướng. Liên quân Áo - Sachsen hứng chịu thiệt hại nặng nề, phải hy sinh lực lượng pháo binh và đoàn xe tiếp tế của mình trên trận tuyến mới chạy về được pháo đài Königgrätz trong tình trạng vô cùng hỗn loạn. Trận đánh kết thúc với thắng lợi tuyệt đối của Phổ - thương vong của họ là hơn 9000 người; trong khi số thương vong và số quân bị bắt của Áo và Sachsen lên đến hơn 40,000 người.

Bismarck trong trận Königgrätz
Vua Wilhelm I và nhiều tướng lĩnh Phổ khác muốn nhân cơ hội ấy chiếm Bohemia và đánh thẳng đến thủ đô Vienna của Áo. Nhưng Bismarck không đồng ý do lo ngại việc Pháp có thể can thiệp và về phe Áo. Ông bèn nhờ thái tử thuyết phục vua Wilhelm I thay đổi ý định. Chiến tranh Áo - Phổ kết thúc với thắng lợi thuộc về Phổ, các bên tham chiến ký kết Hòa ước Prague. Theo đó, Liên bang Đức sẽ giải tán; Phổ sáp nhập một loạt vùng đất vào lãnh thổ của mình như Schleswig, Holstein, Frankfurt, Hannover, Hessen-Kassel và Nassau. Đế quốc Áo phải cam kết không can thiệp vào các vấn đề của Đức nữa. Sau đó vào năm 1867, để củng cố bá quyền, Phổ và một vài công quốc khác thành lập Liên bang Bắc Đức. Vua Wilhelm I trở thành vua của liên bang, và Bismarck vẫn là Thủ tướng. Cũng sau các sự kiện này, vị thế của Áo ngày càng suy giảm và gần như trở thành chư hầu của một nước Đức mạnh mẽ hơn.
Với Bismarck, đây là chiến thắng ngoạn mục và đỉnh cao nhất cuộc đời của ông. Ông thống nhất và củng cố lại quốc lực của nước Đức, mà không phải cầm quân hay nhận được sự ủng hộ từ một đảng lớn hay toàn thể dân chúng, mà ngược lại còn nhận sự căm ghét của gần như toàn thể dân Phổ, lẫn những thành viên trong vương thất. Trong cuộc bầu cử năm 1866, chiến thắng của Bismarck gần như là tuyệt đối.
Khoản tiền mà Nghị viện Phổ trao đến tay ông còn giúp ông mua được một vùng thái ấp lớn hơn tất cả những mảnh đất mà ông hiện đang sở hữu. Tháng 8 năm 1866, sau khi giành được chiến thắng ngọt ngào trước Áo, Bismarck đập mạnh tay vào bàn và hét lên:
“Ta đã đánh bại tất cả bọn chúng! Tất cả!!”.
Nhưng mục tiêu của Bismarck thì vẫn chưa hoàn tất khi chưa kiểm soát được các công quốc Nam Đức. Ông cần một sự kiện diễn ra đủ quan trọng để các công quốc ở đây trở thành đồng minh với Liên bang Bắc Đức. Và thời cơ đã đến với cuộc chiến tranh Pháp - Phổ diễn ra vào năm 1870.
Chiến tranh Pháp Phổ, Đế chế Đức ra đời
Việc Phổ chiến thắng Áo và Liên bang Bắc Đức được thành lập đã gia tăng căng thẳng với Pháp. Hoàng đế Napoléon III của Pháp lo sợ rằng sự xuất hiện của một nước Đức thống nhất hùng mạnh sẽ phá vỡ tình trạng cân bằng quyền lực lúc bấy giờ tại châu Âu. Về phía Bismarck thì ông cũng không hề né tránh chiến tranh với Pháp. Bismarck tin tưởng rằng nếu các công quốc ở Đức cùng xem Pháp là kẻ thù thì họ sẽ đoàn kết lại dưới sự lãnh đạo của Phổ. Vì vậy ông đã không ngần ngại lên tiếng ngăn cản Pháp sáp nhập Luxembourg; thậm chí còn đe dọa sẽ gây chiến. Với Bismarck, Pháp gần như là một bàn đạp để thực hiện tham vọng thống nhất Đức.
Thời cơ đến vào năm 1870 khi Thân vương Leopold xứ Hohenzollern ở tây nam Đức được đề nghị kế vị ngai vàng Tây Ban Nha vốn đã bị bỏ trống sau cách mạng năm 1868. Pháp phản đối việc này và yêu cầu phải có sự bảo đảm rằng không bất kỳ thành viên nào của dòng họ Hohenzollern trở thành vua của Tây Ban Nha. Để khiêu khích Pháp tuyên chiến trước, Bismarck cho công khai một văn bản đã được sửa chữa ghi lại cuộc đối thoại giữa vua Wilhelm I và đại sứ Pháp tại Phổ là bá tước Benedetti, theo đó nhà vua không chấp nhận đòi hỏi của Pháp.
Sau khi văn bản trên được công bố và lan truyền ở Paris thì Pháp bắt đầu huy động quân đội và tuyên chiến vào ngày 19 tháng 7 năm 1870. Hành động của Pháp đã khiến các bang ở nam Đức tỏ ra lo ngại và bắt đầu tìm kiếm sự giúp đỡ từ Phổ. Pháp hy vọng các cường quốc châu Âu sẽ ủng hộ, nhưng thực tế mọi chuyện lại khác hẳn. Đan Mạch từng bị Phổ đánh bại không lâu trước đó nên chưa sẵn sàng tham chiến. Áo dù muốn trả thù việc thua trận, nhưng ra điều kiện chỉ tham chiến nếu Ý cũng tham chiến. Nhưng lúc này Ý lại không mấy thân thiện với Pháp, nên quyết định không can thiệp. Nước Anh cũng không hài lòng trước tham vọng của Pháp ở Bỉ và Luxembourg nên cũng quyết định đứng ngoài cuộc. Nga thì công khai ủng hộ Phổ và cam kết sẽ đưa quân đội giúp đỡ nếu Áo có hành động quân sự với Phổ. Như vậy là cuộc chiến này sẽ chỉ là cuộc đối đầu giữa Pháp với Phổ và các bang nói tiếng Đức.
Vào ngày 28 tháng 7, Hoàng đế Pháp Napoléon III đến Metz để chỉ huy Tập đoàn quân sông Rhine - hiện đang có hơn 200,000 người và sẽ còn tăng thêm nhờ lệnh tổng động viên. Kế hoạch ban đầu của Pháp là sẽ đưa quân chủ động tấn công từ Thionville tới Trier và tiến vào Rhineland của Phổ. Nhưng sau đó kế hoạch này bị bãi bỏ, thay bằng kế hoạch phòng ngự. Theo đó thì Tập đoàn quân sông Rhine sẽ tập trung phòng thủ biên giới và đẩy lùi các đợt tấn công của Phổ - vì người Pháp cho rằng Áo sẽ tham chiến để trả thù Phổ, lôi kéo thêm các bang miền nam Đức.
Tuy nhiên việc Phổ huy động lực lượng quá nhanh, Áo không tham chiến và các bang nam Đức lựa chọn ủng hộ Phổ đã khiến kế hoạch của Pháp phá sản hoàn toàn. Napoléon III vì thế chịu sức ép phải tấn công trước khi quân Phổ triển khai lực lượng. Mục tiêu của Pháp là thị trấn Saarbrücken gần biên giới, do chỉ có một sư đoàn bộ binh Phổ phòng thủ nơi này. Ngày 31 tháng 7, quân Pháp bắt đầu vượt sông tiến đánh thị trấn.
Tuy quân Pháp được trang bị loại súng trường ưu việt hơn, quân Phổ vẫn kháng cự mạnh mẽ. Cuối cùng Pháp vẫn chiếm được Saarbrücken, nhưng nơi này khiến họ gặp trở ngại về mặt hậu cần. Hơn nữa, Napoléon III và các tướng lĩnh thêm phần lo lắng khi có tin tức báo về rằng các lực lượng của Phổ và bang Bavaria đã hội quân ở phía đông nam, ngoài ra còn có các lực lượng nữa ở phía bắc và đông bắc. Trên thực tế, Thống chế Motlke của quân Phổ đã huy động thành công 3 Tập đoàn quân lớn, sẵn sàng tấn công.
Ngày 4 tháng 8, quân Phổ bắt đầu phản công với việc Binh đoàn số 3 tấn công thị trấn Wissembourg của Pháp. Quân Pháp thoạt đầu phòng ngự khá chắc chắn, vì có lợi thế súng trường. Nhưng việc lực lượng vừa ít hơn hẳn lại bị dàn mỏng, nên dần bị quân Phổ đánh lui. Cuộc giao tranh bên trong thị trấn trở nên hết sức dữ dội, giao tranh diễn ra trên từng căn nhà, từng góc phố. Tuy nhiên dân chúng Wissembourg tỏ ra tuyệt vọng và đầu hàng vì cho rằng tiếp tục kháng cự là vô ích. Quân Pháp vì thế buộc phải rút lui, để quân Phổ chiếm được Wissembourg.
Đến ngày 5 tháng 8, giao tranh tiếp tục xảy ra tại hai làng Spicheren và Forbach ở gần Saarbrücken. Thống chế Phổ Moltke ban đầu định cầm chân đạo quân của Thống chế Pháp Bazaine bên bờ sông Saar đến khi phối hợp được với các Binh đoàn lớn của mình. Nhưng chỉ huy Binh đoàn số 1 là Thống chế Karl von Steinmetz lại cho tiến quân không theo kế hoạch, dẫn quân về hướng nam từ vị trí đóng quân bên bờ sông Moselle, tiến về làng Spicheren.
Về phía quân Pháp, việc lên kế hoạch sau trận thảm bại tại Wissembourg trở thành vấn đề sinh tử. Vì tình hình thực tế trên chiến trường nên quân Pháp phải tiến hành chiếm lĩnh các vị trí quan trọng để phòng ngự mọi hướng tấn công có thể của địch. Thế nhưng đồng thời việc này cũng khiến các lực lượng quân Pháp khó mà hỗ trợ cho nhau được. Khi ấy thì Binh đoàn số 1 của Steinmetz đã hành quân gần đến đích. Quân tuần tiễu của Binh đoàn số 2 do hoàng thân Phổ Friedrich Karl chỉ huy cũng phát hiện các đám cháy nghi binh và đạo quân của tướng Pháp Frossard trên một bình nguyên ở phía nam làng Spicheren. Ông coi đó là dấu hiệu cho thấy quân Pháp đang rút chạy. Vì thế cả hai Binh đoàn đều lờ đi kế hoạch của Moltke mà tấn công lực lượng phòng thủ của Pháp ở giữa Spicheren và Forbach.
Quân Pháp không biết rằng mình chiếm ưu thế về binh số khi trận đánh nổ ra, vì Binh đoàn số 2 liên quân Đức không đồng loạt tấn công. Tướng Frossard tưởng cuộc tấn công của địch chỉ là những cuộc đụng độ lẻ tẻ, nên không gọi viện binh, đến khi nhận ra thì đã muộn. Bên cạnh đó, liên lạc giữa Frossard và các sĩ quan chỉ huy quân dự bị dưới quyền Thống chế Bazaine chậm chạp đến mức khi các lực lượng dự bị nhận được lệnh tiến về Spicheren thì quân Phổ đã đánh lên các cao điểm rồi. Vì quân dự bị chưa đến nơi, nên tướng Frossard nhầm lẫn một cách tai hại là quân mình đang đứng trước nguy cơ bị đánh tạt sườn, do có quân Phổ xuất hiện ở Forbach. Bởi vậy nên khi chiến trận tạm vãn đi lúc chiều tối, Frossard bỏ không phòng thủ các cao điểm nữa mà rút về phía nam. Hành động này khiến quân Phổ cũng phải bất ngờ, vì họ chịu nhiều thiệt hại do súng trường quân Pháp ưu việt hơn nên cứ cho rằng sẽ không dễ gì chiếm được các cao điểm - dù pháo binh của họ vượt trội hơn nhiều. Nhưng cuối cùng họ lại dễ dàng giành được chiến thắng khi quân Pháp rút lui.
Cũng trong ngày 6 tháng 8, Binh đoàn số 3 liên quân Đức do thái tử Friedrich giao tranh lớn với quân Pháp do Thống chế MacMahon chỉ huy ở Wörth. Dù bị áp đảo về lực lượng, nhưng quân Pháp vẫn cố gắng cầm cự. Dù vậy, đến buổi trưa thì quân Pháp do bị tổn thất quá lớn nên không thể tiếp tục kháng cự. Nguy hơn nữa là quân Phổ đã chiếm được thị trấn Fröschweiler trên đỉnh đồi nằm ngay ở trung tâm phòng tuyến quân Pháp. Không còn hy vọng giành chiến thắng và đứng trước nguy cơ bị tàn sát, quân Pháp rút lui khỏi chiến trường về phía tây. Quân Phổ cũng không truy kích mà dừng lại ở vùng Alsace rồi di chuyển về phía nam để tấn công và tiêu diệt các đơn vị phòng thủ của Pháp ở các vùng lân cận.
Đến giữa tháng 8, kế hoạch của Napoléon III đã hoàn toàn phá sản. Trong trận Mars-La-Tour, kỵ binh Phổ đã nhiều lần tấn công vào các vị trí quân Pháp, khiến họ chịu thương vong lớn. Hai con trai của Bismarck cũng tham chiến và bị thương trong trận này. Với lực lượng bị áp đảo hoàn toàn, quân Phổ vẫn chiến đấu dũng cảm và nhờ thế cầm chân được lực lượng quân Pháp đông đảo hơn nhiều lần.
Sau đó, hai bên đụng độ nhau trong trận đánh mang tính quyết định ở Gravelotte. Đây cũng là trận đánh có quy mô lớn nhất trong chiến tranh Pháp - Phổ. Liên quân Đức do Moltke chỉ huy, gồm các đơn vị từ Binh đoàn số 1 và số 2 hợp lại với hơn 188,000 binh lính. Trong khi đó, Tập đoàn quân sông Rhine của Pháp do Thống chế Bazaine chỉ huy có hơn 112,000 quân.
Trận đánh bắt đầu ngày 18 tháng 8 khi Moltke cho liên quân Đức tấn công vào các vị trí quân Pháp. Tới trưa, tướng Manstein cho pháo binh bắn vào quân Pháp ở làng Amanvillers. Tuy nhiên quân Pháp trong suốt đêm trước và rạng sáng hôm đó đã đào chiến hào và hố cá nhân, đồng thời bố trí che chắn pháo binh và súng máy. Khi biết hướng tấn công của quân Phổ, quân Pháp bắt đầu bắn trả. Quân Pháp chiếm ưu thế về súng trường, trong khi quân Phổ lại có pháo binh vượt trội hơn.
Suốt buổi chiều, quân Phổ nhiều lần mở đợt tấn công vào các vị trí phòng thủ của quân Pháp, nhưng hầu hết đều bị chặn lại vì hỏa lực mạnh của quân Pháp. Phải mãi đến chập tối, nhờ pháo binh yểm trợ và tung các lực lượng dự bị vào trận mà quân Phổ mới xộc qua được vài vị trí và khiến tình thế trên chiến trường cân bằng hơn. Dù vậy, các đợt tấn công đã khiến quân Phổ kiệt sức, và quân Pháp có cơ hội mở cuộc phản công đảo ngược tình thế. Thế nhưng nội bộ các tướng lĩnh Pháp không thống nhất vì có người cho rằng tình hình bất lợi nên không chấp nhận tung lực lượng Cựu Cận vệ Pháp xung trận. Điều này đã giúp quân Phổ có thời gian tập hợp lực lượng và tổ chức đánh tạt sườn quân Pháp, khiến họ đại bại phải rút lui. Đến sáng hôm sau, Tập đoàn quân sông Rhine của Pháp vẫn quyết định không phản công mà rút lui về Metz.
Trận đánh ở Gravelotte có thể nói là mang tính quyết định trong cuộc chiến. Sau trận đánh, Tập đoàn quân sông Rhine của Pháp rút về Metz và nhanh chóng bị quân Phổ bao vây ở đây. Quân Pháp vài lần tổ chức phá vây nhưng đều không thành. Nhưng vì Metz là pháo đài kiên cố bậc nhất ở Pháp lúc ấy, nên Bazaine dự định cố thủ và cầm chân quân địch. Tuy nhiên, sức ép từ dư luận Pháp tại Paris đã buộc Napoléon III phải gấp rút tổ chức tấn công giải vây cho Metz bằng lực lượng dự bị cuối cùng là Tập đoàn quân Châlons. Nhưng kết quả hết sức tai hại khi Tập đoàn quân Châlons nhận thất bại thảm hại ở Sedan, thậm chí Napoléon III còn bị bắt sống cùng hơn 100,000 tù binh. Quân Pháp không còn khả năng giải vây cho Metz, và Tập đoàn quân sông Rhine cũng không thể phá vây được. Đến cuối cùng, quân Pháp ở Metz buông súng đầu hàng vào ngày 27 tháng 10.
Thất bại của quân Pháp ngoài chiến trường cũng khiến Đệ nhị Đế chế Pháp sụp đổ vì cuộc đảo chính ngày 4 tháng 9. Chính phủ Vệ quốc Pháp được thành lập và tiếp tục kháng cự, dù Bismarck đã có mong muốn đàm phán hòa bình. Tuy vậy, những lực lượng ít ỏi và thiếu tổ chức còn lại của Pháp không phải đối thủ của quân Phổ. Quân Phổ nhanh chóng hành quân và tổ chức vây hãm thủ đô Paris của Pháp. Và sau khi Tập đoàn quân Loire của Pháp bị đánh bại hoàn toàn trong trận Le Mans vào tháng 1 năm 1871, thì Pháp không còn khả năng thay đổi kết cục cuộc chiến nữa.
Việc quân Phổ giành được thắng lợi cuối cùng chỉ còn là vấn đề thời gian, nên Bismarck nhanh chóng hành động để xúc tiến và đảm bảo việc thống nhất nước Đức. Ông thương lượng với các bang ở nam Đức, đưa ra những nhượng bộ nếu họ đồng ý thống nhất. Kết quả thành công mỹ mãn, và vào ngày 18 tháng 1 năm 1871, vua Phổ Wilhelm I lên ngôi Hoàng đế tại Cung điện Versailles. Đế quốc Đức chính thức được thành lập dưới dạng một liên bang. Mỗi thành viên trong liên bang đều có một số quyền tự trị nhất định. Vua Phổ sẽ trở thành người đứng đầu của Đế quốc với danh hiệu “Hoàng đế của người Đức”, có quyền điều khiển hội đồng liên bang và chỉ định Thủ tướng của Đế quốc Đức.

"Công bố Đế chế Đức" - Bismarck mặc áo trắng ở ngay giữa, lấy bối cảnh trong Điện Versailes của Đế chế Pháp
Đến ngày 28 tháng 1 năm 1870, chiến tranh Pháp - Phổ kết thúc với việc chính phủ Đệ tam Cộng hòa Pháp đầu hàng. Hiệp ước Frankfurt được ký kết, theo đó Pháp sẽ phải cắt hai vùng đất Alsace và Lorraine giàu tài nguyên, đồng thời còn phải bồi thường 5 tỷ franc chiến phí cho Đế quốc Đức.
Chiến tranh Pháp - Phổ chấm dứt với thắng lợi hoàn toàn của Phổ và các bang nói tiếng Đức. Và với Bismarck, tham vọng từ lâu của ông đã thành hiện thực - đó là sự thống nhất các vùng lãnh thổ nói tiếng Đức với Phổ là trung tâm quyền lực.
Thủ tướng Đế chế Đức
Sau khi chiến tranh Pháp - Phổ kết thúc và Đế quốc Đức hình thành; Bismarck trên cương vị Thủ tướng chuyển sự tập trung sang giải quyết các vấn đề nội bộ. Nền cai trị của Bismarck mang cả tinh thần tự do lẫn chuyên chế. Trên phương diện tự do, ông xây dựng quyền bầu cử phổ thông cho nam giới, thiết lập hệ thống chăm sóc sức khỏe và phúc lợi xã hội. Mặt khác, Bismarck vẫn đang đóng vai trò cố vấn chính và nắm quyền nhân danh Hoàng đế Wilhelm I; nên nói cách khác thì ông gần như là nhà độc tài quyền lực nhất trong Đế quốc Đức.
Một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu trong những năm này của Bismarck là làm giảm ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo La Mã tại Đế quốc Đức. Trong khi Phổ (trừ vùng Rheinland) và phần lớn các bang ở bắc Đức theo đạo Tin Lành thì các bang ở nam Đức, tỷ lệ người theo Công giáo rất lớn. Sở dĩ Bismarck muốn làm suy giảm ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo La Mã vì ông tin rằng họ nắm giữ quá nhiều quyền lực chính trị. Đồng thời Bismarck cũng e ngại sự trỗi dậy của Đảng Trung tâm thành lập năm 1870 và nguy cơ hiềm khích xảy ra giữa những người theo Công giáo và Tin Lành.

Bismarck đấu trí với giáo hội - tranh biếm họa về chính sách Kulturkampf của Bismarck
Dần dần, Bismarck đi tới việc vận động cả một chiến dịch chống Công giáo La Mã có tên là Kulturkampf. Ngay trong năm 1871, Phòng Công giáo La Mã của Bộ Văn hóa Phổ bị bãi bỏ. Năm 1872, những người theo dòng Tên thuộc Công giáo bị trục xuất. Bismarck thậm chí còn ủng hộ những người theo Tin Lành và chống Công giáo. Năm 1873, những điều luật chống Công giáo khắt khe hơn được thông qua, cho phép chính quyền giám sát hoạt động giáo dục của các trường dòng và giảm bớt quyền lực của Giáo hội. Tuy nhiên, những cố gắng đó chỉ càng củng cố thêm cho sự đoàn kết của Đảng Trung tâm, và Bismarck quyết định chấm dứt chiến dịch Kulturkampf vào năm 1878. Tuy mục tiêu chính của chiến dịch này thất bại, nhưng trong quá trình thực hiện, Bismarck đã có thêm sự ủng hộ từ chính đảng lâu đời là Đảng quốc gia tự do.
Thế nhưng từ năm 1873, khi cả châu Âu bước vào cuộc khủng hoảng kinh tế quy mô lớn mang tên Cuộc suy thoái trường kỳ; thì Bismarck đã áp đặt chính sách bảo hộ qua thuế nhập khẩu để hỗ trợ những ngành công nghiệp đang xuống dốc. Chính sách này đã khiến ông chuốc lấy sự ghét bỏ từ những người theo khuynh hướng tự do. Sau khi chấm dứt chiến dịch Kulturkampf, quan hệ giữa Bismarck và Đảng quốc gia tự do chấm dứt, và ông quay sang tìm sự ủng hộ từ những người bảo thủ, trong đó có cả Đảng Trung tâm.
Để ngăn chặn những vấn đề phát sinh do nhiều chủng tộc khác nhau; Bismarck đã cố gắng đồng hóa những sắc dân thiểu số. Những người này chủ yếu ở các vùng biên giới của Đế quốc Đức như người Đan Mạch ở miền bắc, người Pháp ở hai vùng Alsace - Lorraine và người Ba Lan ở miền đông. Chính sách của ông nhắm tới người Ba Lan thường gây bất lợi cho họ, mang tính phân biệt đối xử rõ rệt. Điều này đã gây thêm thù hận giữa người Đức và người Ba Lan. Những chính sách này thường có động cơ từ quan điểm của Bismarck rằng sự tồn tại của Ba Lan là mối đe dọa cho nước Đức.
Bismarck cũng đặc biệt lo lắng về sự trỗi dậy của những người theo chủ nghĩa xã hội xuất phát từ Đảng dân chủ xã hội. Vào năm 1878, ông đã vận động thông qua các điều luật chống những người theo chủ nghĩa xã hội. Các tổ chức, những hội nghị và thậm chí cả văn học xã hội chủ nghĩa bị cấm. Những nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa bị bắt và bị xử ở tòa án cảnh sát.

Trang biếm họa Bismarck
Nhưng bất chấp những cố gắng đó của Bismarck, phong trào xã hội chủ nghĩa vẫn trụ vững và ngày càng giành được nhiều sự ủng hộ cũng như thêm ghế ở Nghị viện. Bismarck bèn quay sang cố gắng làm giảm sự hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội với công chúng bằng cách dụ dỗ giai cấp công nhân. Ông tiến hành nhiều cuộc cải cách xã hội, có thể được xem là những điều luật lao động đầu tiên trên thế giới và làm mẫu cho các quốc gia khác. Chính phủ của Bismarck lần lượt thông qua các luật về bảo hiểm y tế năm 1883, luật bảo hiểm tai nạn giao thông năm 1884 và luật bảo hiểm hưu trí và tàn tật năm 1889. Ngoài ra còn có các điều luật khác hạn chế việc sử dụng lao động phụ nữ và trẻ em. Nhưng ngay cả những cố gắng này của Bismarck cũng không mấy thành công. Giai cấp công nhân vẫn không ưa chính quyền bảo thủ của ông.
Về mặt đối ngoại, thì với ý định đưa nước Đức trở thành một đế quốc hùng mạnh nhất châu Âu, Bismarck rất nỗ lực để duy trì hòa bình ở lục địa già, vì ông không muốn sức mạnh của Đế quốc Đức non trẻ bị đe dọa. Ông buộc phải dàn hòa với những người ở Pháp theo chủ nghĩa phục thù muốn trả hận cho thất bại của họ trong chiến tranh Pháp - Phổ. Bismarck thi hành một chính sách ngoại giao với mục tiêu cô lập nước Pháp trong khi giữ quan hệ hữu hảo với các quốc gia khác ở châu Âu. Để tránh chọc giận nước Anh, Bismarck phủ nhận việc muốn biến Đức trở thành một đế quốc thực dân và cam kết không gia tăng lực lượng hải quân. Tiếp tục đường lối đó, năm 1872, ông đề nghị một hiệp ước thân thiện ba bên với Đế quốc Áo - Hung và Đế quốc Nga. Ngoài ra Bismarck còn chủ trương giữ quan hệ hòa hảo với Ý, dù cá nhân ông không thích con người và đất nước này.
Sau chiến thắng của Đế quốc Nga trước Đế quốc Ottoman trong cuộc chiến năm 1877 - 1878, Bismarck đã hỗ trợ việc đàm phán dẫn tới cuộc hội đàm Berlin. Nhờ vậy mà Hiệp ước Berlin năm 1878 được ký kết, giảm bớt diện tích của nước Bulgaria thân Nga mới thành lập. Lý do là vì Bismarck và những nhà lãnh đạo châu Âu khác không muốn nước Nga mở rộng ảnh hưởng và cố gắng bảo vệ Đế quốc Ottoman. Kết quả là quan hệ Nga - Đức dần xấu đi, kéo theo Hiệp ước ba bên giữa Đức, Áo - Hung và Nga chấm dứt. Trước tình thế đó, Bismarck bèn thương lượng một hiệp ước liên minh với Đế quốc Áo - Hung; theo đó thì mỗi nước đảm bảo sẽ hỗ trợ nước còn lại trong trường hợp Đế quốc Nga tấn công. Đến năm 1882 thì Ý cũng tham gia hiệp ước này.
Với những vấn đề bên ngoài châu Âu, lúc đầu, Bismarck phản đối ý tưởng tìm kiếm thêm thuộc địa với lập luận rằng gánh nặng giành giật và giữ thuộc địa còn lớn hơn mối lợi tiềm năng khai thác được từ đó. Nhưng vào cuối những năm 1870, ý kiến dư luận ở Đức ngày càng ủng hộ việc tìm kiếm thuộc địa tại nước ngoài, nên Bismarck buộc phải thuận theo.
Năm 1888, Hoàng đế Wilhelm I qua đời, thái tử lên kế vị và trở thành Hoàng đế Friedrich III. Nhưng chỉ hơn ba tháng sau, Hoàng đế Friedrich III qua đời vì bệnh tật và con trai ông lên nối ngôi, tức là Hoàng đế Wilhelm II. Vị Hoàng đế mới không đồng tình với chính sách đối ngoại thận trọng của Bismarck và muốn mở rộng nhanh chóng lãnh thổ để bảo vệ vị thế của Đế quốc Đức.
Wilhelm II là một kiểu hoàng đế mà Bismarck không thể chịu đựng được. Bốc đồng, cảm xúc và dễ đưa ra các quyết định vớ vẩn, vị hoàng đế là tín đồ trung thành của Weltpolitik - chính trị thế giới, đề cao bá quyền nước Đức, đối lập với tinh thần chính trị thực tiễn của Bismarck. Trên phương diện đối nội, Wilhelm II muốn chính quyền của mình năng động hơn so với chính quyền thận trọng của Bismarck. Và hơn hết cả, Wilhelm II coi Bismarck là di sản của thời đại cũ và sẵn sàng làm mọi thứ để gạt phăng Bismarck sau hàng thập kỷ nắm quyền. Bismarck ban đầu xin từ chức để phản đối Wilhelm II - trong suốt 30 năm qua, đây đã là chính sách ưa thích của ông để đạt được điều mình muốn. Tuy nhiên, Hoàng đế Wilhelm II lại chấp nhận. Với việc không có đồng minh lẫn hỗ trợ - điều này xuất xứ từ việc Bismarck về căn bản đã phản bội hoặc lừa gạt tất cả những ai từng là đồng minh của mình, Bismarck đã bị loại khỏi cuộc chơi sau hai thập kỷ khuynh đảo chính trường Châu Âu. Ông đã trở thành nạn nhân của những gì mà chính mình đã tạo ra.
Những năm cuối đời và Nhận định về Bismarck
Xuyên suốt tám năm kể từ ngày định mệnh năm 1890 ấy đến khi qua đời vào năm 1898, Bismarck về quê nghỉ hưu, viết sách và nhiều tài liệu ghi chép lại những gì đã xảy ra - hay chính xác hơn là những gì đã xảy ra theo ý ông, ngợi ca bản thân vị thủ tướng trong khi chê bai chính quyền của Hoàng đế Wilhelm II. Việc ông nghỉ hưu cũng dẫn đến cả hai đứa con trai của ông đang làm việc trong chính quyền từ chức để phản đối Wilhelm II.
Trong quãng thời gian này, ông vẫn thường than phiền rằng nước Đức sẽ tận diệt nếu không có sự dẫn dắt của ông. Nếu như điều này là thật, thì Bismarck cũng phải chịu một phần trách nhiệm vì bản thân đã không tái cơ cấu chính quyền để tự thân vận động thay vì cần một thiên tài chính trị là ông chỉ dẫn. Mặt khác, việc Bismarck kêu gọi cần có một thiên tài để dẫn dắt nước Đức cũng trở thành tiền lệ xấu - và như chúng ta đã thấy về sau, 35 năm sau ngày ông qua đời, Adolf Hitler đã trở thành lãnh tụ của Đức và tương tự như Bismarck, y cũng tuyên truyền bản thân là thiên tài đủ tầm để dẫn dắt toàn dân tộc, đưa nước Đức vào thảm họa mang tên Đệ Nhị Thế Chiến.
Tuy vậy, đấy vẫn là chuyện của tương lai. Ngày 30 tháng 7 năm 1898, Bismarck qua đời ở tuổi 83. Trước khi qua đời, ông cũng nói chuyện lần cuối với Wilhelm II, và đã nói rằng:
“Nếu như tình hình chính trị cứ diễn biến thế này, hai mươi năm sau khi tôi qua đời, một cuộc chiến mà chúng ta là kẻ thất bại sẽ bùng nổ.”
Và như chúng ta đã thấy về sau, trong Đệ Nhất Thế Chiến, Hoàng đế Wilhelm I về căn bản đã phải thoái vị, đúng 20 năm và 4 tháng sau ngày Bismarck qua đời.
Đấy quả thật là trí tuệ của Bismarck, người đã thay đổi Châu Âu mãi mãi. Từ quan điểm của một công dân thế giới hiện đại, Bismarck là cái tên gắn liền với nước Đức. Mặc dù đất nước ấy đã trải qua nhiều biến cố như hai cuộc Thế chiến, không cường quốc nào của Châu Âu nghĩ đến chuyện khôi phục tình trạng Đức trước ngày thống nhất. Ngược lại, nước Đức vẫn phát triển và hùng cường đến ngày nay, cũng như đóng vai trò tiên phong trong một Liên Minh Châu Âu vững mạnh. Cùng với Napoleon Bonaparte, ông là nhân vật lịch sử Châu Âu được yêu thích nhất trong thế kỷ XIX. Là một thiên tài chính trị và một người sở hữu sự kiên định to lớn, Bismarck là ngôi sao sáng chói nhất của chủ nghĩa thực dụng chính trị - realpolitik, đề cao lợi ích thực tiễn thay vì các mối quan tâm đến tư tưởng hay đạo đức.
Nhưng nếu bản thân Bismarck có một nhược điểm, một nhược điểm chí mạng, là bản thân ông có cái tôi quá cao để mường tượng ra một thế giới mà không có cái tên của ông trong đấy, một nước Phổ không có ông dẫn lối và một dân tộc Đức không có ông để bảo vệ.
Và như vậy, tất cả những nỗ lực của ông, tất cả những thành tựu mà ông đã làm để xây dựng một nước Đức hùng cường và mạnh mẽ giữa một Châu Âu hòa bình và yên ổn sẽ bị Hoàng đế Wilhelm II xóa nhòa đi trong cơn thảm kịch mang tên Đệ Nhất Thế Chiến, cùng với đó là nước Phổ yêu dấu của ông trong Đệ Nhị Thế Chiến.

Otto von Bismarck khi về già
Phần kết
Và vừa rồi là toàn bộ nội dung của bài viết. Cảm ơn các bạn vì đã đọc đến đây.

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất





