7/2021: Đọc cuốn sách
- Tổng số sách đã đọc được 280 quyển
1/ Họ Đã Làm Gì Để Thay Đổi Thế Giới John A. Byrne
2/ Nhung Nguoi Tien Phong - Walter Isaacson

Muhammad Yunus

Đột nhiên,các ý nghĩ trong đầu Hastings vô tình bắt gặp nhau. Liệu có thể thành lập một doanh nghiệp cho thuê phim ảnh thông qua đường thư tín, xóa bỏ các khoản phí trễ hạn và chỉ cần yêu cầu khách hàng trả phí hằng tháng như khi họ đăng ký làm hội viên ở phòng tập thể dục hay không?
Tình yêu dành cho cả thơ ca và toán học đã giúp Ada nhìn thấy vẻ đẹp trong một cỗ máy tính. Cô chính là một hình mẫu của kỷ nguyên khoa học lãng mạn, mà đặc điểm nổi bật là sự nhiệt tình dành cho các phát minh và khám phá. Trong cuốn The Age of Wonder (Kỷ nguyên của phép màu), Richard Holmes viết rằng đó là giai đoạn đã đưa “sự mãnh liệt của trí tưởng tượng và sự hứng khởi vào công việc khoa học. Nó được thúc đẩy bởi một lý tưởng chung về sự quyết tâm cao độ, thậm chí là liều lĩnh, của cá nhân đối với hoạt động khám phá.” Nói ngắn gọn, thời đại đó không giống thời đại của chúng ta bây giờ. Những tiến bộ của cuộc Cách mạng Công nghiệp như động cơ hơi nước, máy dệt cơ và điện báo đã làm biến đổi thế kỷ XIX theo cách hệt như những tiến bộ của cuộc Cách mạng Kỹ thuật số – máy vi tính, vi mạch và Internet – đã và đang làm biến đổi cuộc sống của chúng ta vậy. Nằm ở trung tâm của cả hai thời đại này là những nhà phát minh, những người đã kết hợp trí tưởng tượng và niềm đam mê với công nghệ diệu kỳ, một sự kết hợp đã tạo nên “nền khoa học nên thơ” của Ada và tạo nên thứ mà thi sĩ Richard Brautigan của thế kỷ XX gọi là “những cỗ máy của sự duyên dáng đáng yêu”.
Luddite: chỉ những công nhân của Anh từng nổi loạn và đập phá máy dệt vào giai đoạn 1811-1816 vì cho rằng những chiếc máy đó sẽ cướp đi công ăn việc làm của họ. Phong trào này được đặt theo tên của Ned Ludd, người được cho rằng đã phá máy dệt vào khoảng năm 1779.
Khả năng vận dụng trí tưởng tượng vào khoa học là đặc thù của cuộc Cách mạng Công nghiệp cũng như cuộc cách mạng máy vi tính, và Ada sẽ trở thành vị thần bảo trợ cho khả năng này. Như cô từng nói với Babbage, cô có thể hiểu được mối liên hệ giữa thơ ca và phân tích theo những cách còn vượt xa hơn cả tài năng của người cha. Cô viết: “Tôi không tin rằng cha tôi từng là (hoặc lẽ ra đã có thể là) một Nhà Thơ, hay tôi sẽ là một Nhà Phân Tích; bởi đối với tôi, hai điều này luôn đi cùng với nhau, không thể tách rời.”
Đôi khi, phát minh chỉ là vấn đề thời điểm. Một ý tưởng lớn sẽ xuất hiện vào đúng thời điểm có những công nghệ thích hợp để thực hiện nó. Chẳng hạn, ý tưởng đưa người lên mặt trăng được đề xuất ngay khi sự tiến bộ của vi mạch đạt tới trình độ có thể đưa các hệ thống điều khiển bằng máy vi tính vào trong chóp mũi của tên lửa. Tuy nhiên lại có những trường hợp khác, khi mà thời điểm không phù hợp. Charles Babbage xuất bản bài viết về một chiếc máy vi tính tinh vi vào năm 1837, thế nhưng phải đến 100 năm sau mới có đủ các tiến bộ công nghệ cần thiết để tạo ra nó.
Cuộc tranh luận về trí thông minh nhân tạo đã nổ ra, ít nhất là trên truyền thông đại chúng, sau khi chiếc máy chơi cờ tướng Deep Blue của IBM đánh bại nhà vô địch thế giới Garry Kasparov vào năm 1997 và sau đó Watson, chiếc máy hỏi đáp bằng ngôn ngữ tự nhiên cũng của hãng này, chiến thắng hai nhà vô địch Brad Rutter và Ken Jennings trong trò chơi trên truyền hình Jeopardy! vào năm 2011. “Tôi nghĩ rằng nó đã đánh thức toàn bộ cộng đồng trí tuệ nhân tạo”,
Sau khi Deep Blue và Watson dành chiến thắng, Giám đốc Nghiên cứu của công ty, John E. Kelly III, cho biết: “Máy vi tính ngày nay là những cỗ máy ngu ngốc xuất chúng. Chúng có khả năng lưu trữ lượng thông tin khổng lồ và thực hiện các phép tính số học vượt xa khả năng của con người. Tuy nhiên, về một cấp độ kỹ năng khác, chẳng hạn như năng lực để hiểu biết, học hỏi, thích nghi và tương tác, máy vi tính lại kém xa con người.”
World Wide Web đi vào quỹ đạo hoạt động năm 1993. Năm đó bắt đầu với 50 máy chủ Web trên thế giới, và đến tháng 10 đã là 500. Một lý do là, sự lựa chọn ban đầu đối với Web để tiếp cận thông tin trên Internet là một giao thức gửi và tìm về được phát triển ở Đại học Minnesota tên là Gopher203, và tin tức lộ ra là những nhà phát triển nó đang lập kế hoạch thu phí sử dụng phần mềm máy chủ này. Yếu tố thúc đẩy quan trọng hơn là sự ra đời của trình duyệt Web dễ cài đặt đầu tiên với khả năng đồ họa tên là Mosaic. Nó được phát triển ở National Center for Supercomputing Applications (NCSA – Trung tâm Ứng dụng Siêu điện toán Quốc gia) tại Đại học Illinois ở Urbana- Champaign, được tài trợ bởi Dự luật Gore.
Thực ra, có một mối quan hệ cộng sinh giữa sự ra đời của radio bán dẫn và sự phát triển của nhạc rock & roll. That’s All Right – bản thu âm thương mại đầu tiên của ca sĩ Elvis Presley, được phát hành cùng thời điểm ra mắt radio Regency. Thể loại âm nhạc nổi loạn này đã khiến cho mỗi thiếu niên đều muốn có một chiếc radio. Và cái thực tế rằng những chiếc radio này có thể được mang ra bãi biển hoặc xuống tầng hầm, xa khuất khỏi đôi tai kiểm duyệt và những ngón tay kiểm soát núm điều khiển của các bậc phụ huynh, đã cho phép dòng nhạc này phát triển mạnh mẽ. Walter Brattain – nhà đồng phát minh ra bóng bán dẫn, thường than thở với vẻ nửa đùa nửa thật rằng: “Điều hối tiếc duy nhất của tôi về bóng bán dẫn là nó lại được sử dụng để phụng sự dòng nhạc rock & roll.” Roger McGuinn, người sau này trở thànhca sĩ chính của ban nhạc Byrds, được tặng một chiếc radio bán dẫn trong sinh nhật lần thứ 13 vào năm 1955. Ông kể lại: “Tôi đã được nghe Elvis hát. Đó là một thay đổi lớn đối với tôi.”
Hình ảnh Gates đung đưa người qua lại khi đọc bài báo trên tờ Popular Electronics là dấu hiệu thể hiện sự tập trung cao độ của ông, vốn được hình thành từ thuở nhỏ. Cha ông, một luật sư thành công và lịch lãm, kể lại rằng: “Khi còn nhỏ, nó đã thường tự lăn qua lăn lại trong nôi.” Đồ chơi yêu thích của cậu bé Gates là một chú ngựa gỗ gắn lò xo. Mẹ ông là một lãnh đạo thành phố được kính trọng, xuất thân từ một gia đình danh giá ở Seattle với truyền thống làm việc trong ngành ngân hàng. Tuy nổi tiếng với ý chí mạnh mẽ, nhưng bà sớm nhận ra rằng mình vẫn chưa thể sánh được với con trai mình. Mỗi khi bà gọi con lên nhà ăn tối từ căn phòng ngủ dưới tầng hầm, cậu thường không đáp lời. Một lần, bà gặng hỏi: “Con đang làm gì vậy?” “Con đang suy nghĩ!” Gates hét to trả lời. “Con đang suy nghĩ à?” “Vâng, con đang suy nghĩ,” cậu trả lời, “mẹ đã thử suy nghĩ bao giờ chưa?”
Gates thường tránh các môn thể thao đồng đội, nhưng cậu là một vận động viên tennis và lướt ván nước nhiệt tình. Gates cũng miệt mài luyện tập các trò vui vặt, chẳng hạn như nhảy ra khỏi một thùng rác mà không chạm vào mép thùng. Cha cậu là một Hướng đạo sinh Đại bàng, và tới lượt mình, cậu bé Gates cũng trở thành một Hướng đạo sinh đầy nhiệt huyết, đạt được cấp Đời (Life) nhưng thiếu ba huy hiệu nữa mới được thăng cấp Đại bàng. Trong một đại hội hướng đạo, Gates đã trình diễn cách sử dụng máy vi tính, nhưng sự kiện đó xảy ra trước khi người có kỹ năng máy vi tính cũng được trao huy hiệu.
Dù tham gia tích cực vào những hoạt động bổ ích và lành mạnh như vậy, song với trí tuệ xuất chúng, cặp kính to đùng, tạng người gầy gò, giọng nói âm sắc cao, và phong cách kém hấp dẫn – áo sơ-mi cài cúc đến tận cổ – Gates thường để lại ấn tượng là một con mọt sách chính hiệu. “Cậu ấy là một gã mọt sách trước cả khi người ta nghĩ ra cụm từ này”, một giáo viên nói. Khả năng tập trung trí não của Gates đạt đến ngưỡng huyền thoại. Ở lớp bốn, khi giáo viên môn khoa học yêu cầu cả lớp viết một báo cáo dài năm trang, cậu nộp tới 30 trang. Cũng trong năm đó, khi được hỏi về lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai, cậu đánh dấu vào ô ghi “nhà khoa học”. Trong một cuộc thi do một mục sư của gia đình tổ chức, cậu cũng giành được giải thưởng là một bữa tối trên đài quan sát Space Needle ở Seattle nhờ đọc thuộc lòng Bài giảng trên núi
Mùa thu năm 1967, khi Gates bước sang tuổi 12 nhưng trông vẫn như một đứa trẻ lên chín, cha mẹ cậu đã nhận ra rằng sẽ tốt hơn nếu cho con học trường tư thục. Cha cậu kể: “Chúng tôi đã rất lo lắng khi nó chuẩn bị sang cấp hai. Nó quá nhỏ và nhút nhát, lúc nào cũng cần người bảo vệ, mà những sở thích của nó lại rất khác thường so với những học sinh lớp sáu bình thường khác.” Họ chọn Lakeside, một ngôi trường có khuôn viên xây bằng gạch cổ kính trông như một trường dự bị đại học ở New England, ban lãnh đạo trường khá quan tâm đến con cái của các doanh nhân và giới làm nghề chuyên môn.
Một vài tháng sau khi nhập học ở Lakeside, cuộc sống của Gates biến đổi hoàn toàn trước sự xuất hiện của một thiết bị máy vi tính tại một căn phòng nhỏ trong tòa nhà dành cho môn khoa học và toán học. Đó không phải là một cỗ máy vi tính thực sự mà chỉ là một chiếc máy đánh chữ (Teletype) được kết nối qua đường dây điện thoại với một hệ thống máy vi tính phân bổ thời gian Mark II của hãng General Electric. Với 3.000 đô-la doanh thu từ một đợt bán đồ cũ, câu lạc bộ Những bà Mẹ Lakeside đã mua quyền sử dụng một khung thời gian trên hệ thống này với giá 4,80 đô-la/phút. Về sau họ mới ngậm ngùi nhận ra rằng mình đã đánh giá thấp mức độ phổ biến và sự đắt đỏ của gói sử dụng này. Khi giáo viên toán lớp bảy cho cậu xem chiếc máy, Gates đã bị nó hút hồn. Người thầy giáo kể lại: “Tôi biết nhiều hơn cậu ấy vào ngày đầu tiên, nhưng chỉ trong ngày đầu tiên đó mà thôi.”
Gates bắt đầu tới phòng máy vi tính mỗi ngày, vào bất cứ khi nào có thể, với một nhóm bạn chung niềm say mê với mình. “Chúng tôi mê mải trong thế giới riêng của mình”, ông kể lại. Vai trò của chiếc máy vi tính này đối với ông cũng giống như vai trò của chiếc la bàn đồ chơi đối với Einstein thời trẻ: một đồ vật có sức mê hoặc, làm khơi dậy những sự hiếu kỳ sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất trong ông. Sau này, khi chật vật tìm cách lý giải về điều khiến ông yêu máy vi tính, Gates nói rằng đó là vẻ đẹp giản dị trong sự chính xác về logic của cỗ máy – cũng là điều mà ông đã trau dồi trong cách tư duy của chính mình. “Khi sử dụng máy vi tính, bạn không thể đưa ra các mệnh lệnh mập mờ được. Bạn chỉ có thể đưa ra những mệnh lệnh chính xác mà thôi”, ông nói.