(2021) Đọc 6 cuốn sách về Napoleon Hill Brian Tracy 🕮 Tổng số sách đã đọc được: 178 quyển
1/ Bi Quyet Lam Giau cua Napoleon Hill - Napoleon Hill
2/ Ke Hoach Lam Giau 365 Ngay - Napoleon Hill
3/ Làm Giàu - Napoleon Hill
4/ Lam Giau Theo Cach Cua Ban - Brian Tracy
5/ Lam Giau Trong Nen Kinh Te Tri - Lester C. Thurow
6/ Think and grow Rich

*Trở thành chuyên nghiệp

Để trở thành xuất sắc nhất, bạn phải liên tục nghiên cứu về lĩnh vực của mình. Bạn phải nghe các chương trình học bằng băng audio khi ở trên xe thay vì lái xe đi lòng vòng và nghe nhạc. Bạn phải tham dự mọi buổi hội thảo và khóa học bạn có thể tìm thấy sẽ giúp bạn tiến bộ về lĩnh vực của mình. Đôi khi một ý tưởng hoặc sự thay đổi nhỏ về cách tiếp cận của bạn hoặc cách giải quyết hoàn cảnh nào đó mà nó có thể thay đổi hướng nghề nghiệp của bạn và dẫn bạn tới sự thành công lớn lao. Những người đứng đầu ở mọi lĩnh vực không nhất thiết là những người sinh ra đã tài tình hơn người khác. Thay vì thế họ là những người dùng thời gian để học hỏi những gì họ cần biết để trở thành giỏi hơn đối thủ cạnh tranh của họ.
Đây là một chiến lược đơn giản mà nó có thể khai triển công việc của bạn. Quyết tâm từ nay trở đi bắt đầu làm việc sớm hơn một giờ. Điều này sẽ đòi hỏi bạn phải tắt TV vào buổi tối, thức dậy sớm hơn một chút và đi vào sở làm để bạn có thể bắt đầu công việc trước người khác một giờ. Nguyên tắc là một giờ làm việc không bị gián đoạn sẽ cho bạn năng suất bằng với ba giờ làm việc bị gián đoạn khi người ta thường hay phải đi ra đi vào khi làm việc. Phần việc thứ hai của chiến lược đối với bạn là phải làm việc qua giờ ăn trưa. Vì điều kiện học ở trường lúc còn bé và lúc mới bắt đầu đi làm, nhiều người cho rằng giờ ăn trưa là khoảng thời gian bất khả xâm phạm mà phải được tôn trọng dù vấn đề gì xảy ra đi nữa. Điều này hoàn toàn không đúng. Từ nay trở đi, quyết tâm làm việc cả vào giờ ăn trưa, khi mọi người khác đã vắng mặt. Điều này sẽ cho bạn có thêm một giờ với thời gian hầu như hoàn toàn không bị gián đoạn, trong khi bạn có thể theo kịp các nhiệm vụ và trách nhiệm của bạn và công việc của bạn vượt hơn được người khác. Cuối cùng, quyết tâm làm việc lâu hơn một giờ so với bất kỳ người nào khác bằng cách ở lại làm việc trễ hơn. Trong khoảng thời gian này, bạn có thể theo kịp công việc của bạn và kế hoạch cho ngày sắp tới, trả lời thư tín, hoàn tất các đề nghị, báo cáo và trở nên xuất sắc về công việc của bạn.
Nguyên tắc này là: Học tất cả những gì bạn có thể về công việc bạn chọn, nhưng đừng bao giờ nói ra tất cả những gì bạn biết. Bạn càng có thông tin và kiến thức chuyên môn, bạn càng trở nên có giá trị hơn và khó có ai thay thế được bạn. Điều này không có nghĩa là bạn phải giấu giếm thông tin. Bạn sẽ chia sẻ nó vô tư với những người cần nó để làm công việc của họ được tốt. Bạn càng chia sẻ những kiến thức chuyên môn, bạn càng tỏ ra thông minh hơn và có giá trị hơn.
Khi Henry Ford quyết định sản xuất ôtô mác V-8 nổi tiếng, ông muốn thiết kế động cơ mà cả tám xilanh nằm cả trong một blốc. Nói là làm, và Ford đưa ra những chỉ thị cần thiết. Tất cả các kỹ sư đều đồng thanh nhất trí rằng không thể nào liên kết cả tám xilanh được.
Ford bảo: Bất luận trường hợp nào các anh cũng phải làm bằng được.
Hãy làm việc cho đến khi có kết quả, - Ford ra lệnh. - Bất chấp cần
bao nhiêu thời gian cho việc này.
Các kỹ sư làm việc - họ chẳng còn lối thoát nào khác, bởi vì họ muốn làm việc cho ông Ford. Sáu tháng trôi qua - không kết quả gì. 
Lại thêm sáu tháng nữa. Họ thử tất cả các phương án có thể - không nhúc nhích. Không thể được! Cuối cùng họ báo cáo với Ford là họ không tìm ra phương pháp thực hiện chỉ thị của ông.
Hãy tiếp tục làm việc, - Ford nói. - Tôi muốn. Tức là sẽ có.
Họ tiếp tục làm việc, và cuối cùng, vào một ngày đẹp trời, sọ dừa đã bị đập vỡ.

John Bunyan đã viết ra Hành hương - một trong những cuốn sách hay nhất bằng tiếng Anh, - sau khi ông ngồi tù vì lý do tôn giáo.
O.Henry phát hiện ra tài năng của mình vào một thời điểm chẳng lấy gì làm vui vẻ trong cuộc đời, khi ông ngồi tù thành phố Columbus, bang Ohio. cái tôi thứ hai của ông sống dậy do hoàn cảnh. Nên cũng dễ hiểu là ông thích viết về cuộc đời những tên tội phạm bất hạnh và những người bị xã hội ruồng bỏ.

Charles Dickens bắt đầu bằng việc dán nhãn lên nắp các hộp xi đánh giày. Bi kịch mối tình đầu đã làm cho tâm hồn ông trở nên sâu sắc, biến ông thành một trong những nhà văn vĩ đại nhất. Bi kịch đó đã cho thế giới David Copperfield và hàng loạt tác phẩm làm tất cả những người đã đọc sách của ông trở nên giàu hơn, tốt hơn.
Helen Keller câm, điếc, mù ngay sau khi ra đời. Bất chấp những bất hạnh khổng lồ này, chị đã vĩnh viễn khắc tên mình vào lịch sử nhân loại. Suốt đời chị đã chứng minh: không ai thất bại nếu họ không tự chịu thua.
Robert Burns xuất phát là một gã trai quê thiếu học. Chán chường vì nghèo đói, lẽ ra anh đã trở thành kẻ nát rượu. Nhưng thế giới đã trở nên tốt hơn vì trong anh sống một tâm hồn biến ý nghĩ thành thơ ca, biến mảnh đất trước đây chỉ có ngải cứu thành nơi mọc lên hoa hồng.
Beethoven bị điếc, Milton bị mù, nhưng tên tuổi của họ chỉ mất đi cùng vũ trụ bởi vì họ không những biết ước mơ, mà còn biết biến đổi, tổ chức ước mơ của mình.
*Kinh nghiệm sống riêng và học vấn riêng của bạn.
*Kiến thức và kinh nghiệm thu được do tiếp xúc với những người thông minh khác (liên kết trí tuệ).
*Các trường cao học và Đại học tổng hợp.
*Các thư viện công cộng (sách báo và tạp chí định kỳ màtrong đó tập trung tất cả những kiến thức do nền văn minhnhân loại tích lũy được).
*Các khóa học đặc biệt (các trường buổi chiều và đặc biệt là
đào tạo tại nhà).

Qui luật thứ nhất : Chưa bao giờ có ai trở nên thật giàu có bằng cách tiết kiệm tiền. Người giàu nhìn thấy cơ hội hành động và đầu tư vào những tình huống có sự mất cân đối lớn. Điều này đúng đối với Rockefeller cũng như đối với Bill Gates. Trong cả hai trường hợp, tiền tiết kiệm suốt đời của họ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng tài sản của họ. Tiết kiệm một cách thận trọng và đầu tư vào những tình huống cân đối thông thường đem lại cho người ta thoải mái trong tuổi già nhưng không bao giờ thật sự giàu có cả.
Dầu mỏ là thí dụ điển hình do ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 đối với một ngành công nghiệp cũ. Từng là một ngành công nghiệp dựa vào may rủi và cơ bắp (xem phim Giant do James Dean đóng) đã biến thành một ngành công nghiệp lệ thuộc vào năng lực trí tuệ. Các siêu máy tính cho phép tạo âm thanh 3 và hiện nay là 4 chiều. Khả năng tìm được các mỏ dầu mới tăng gấp 10 lần; tỷ lệ khai thác tăng gấp 2 lần. Khả năng khoan dò tìm ở độ sâu 2 dặm, Na Uy đã trở thành nước xuất khẩu dầu đứng hàng thứ 2 thế giới thay vì cạn kiệt theo dự đoán 2 thập kỷ trước. Trên các dàn khoan nằm ngoài khơi, những công nhân tạp vụ không biết chữ nhưng được hưởng lương cao được thay thế bởi các công nhân có kiến thức hưởng lương cao. Ngành này vẫn tiếp tục sản xuất dầu nhưng với phương thức hoàn toàn khác
cho nên có thể được xem như ngành công nghiệp tri thức mới. Nhờ các công nghệ mới này người ta có thể mở rộng nguồn cung ứng nhanh hơn nhu cầu và giá thực tế đã xuống mức thấp nhất chưa từng có trong lịch sử loài người.
Tương tự, một người bán áo quần ngoài trời ở vùng nông thôn Maine, J.J. Bean, có thể bán hàng trăm triệu đô la áo quần cho Nhật Bản mà không cần có cửa hàng tại Nhật. Bán hàng qua mạng Internet, bằng fax, qua điện thoại và catalô cho phép vượt qua các cản ngại (luật pháp cấm không cho mở các cửa hàng lớn, khó tìm vị trí bán lẻ tốt) làm cho các nhà bán lẻ bình thường ở nước ngoài không thể thâm nhập thị trường Nhật Bản trước đây.

Sự giàu có về tài chính có thể dễ dàng nằm bên ngoài sự chi phối của một chính phủ. Chính khả năng này đã biến quần đảo Cayman trởthành trung tâm ngân hàng đứng hàng thứ 5 thế giới. Bất kể vị trí địa lý ở đâu, hiện nay ai cũng có thể vay trên thị trường tài chính toàn cầu.
Một đội bóng, Manchester United, đã bán được trên 1 tỷ đô la. Thế giới văn hóa là một xã hội trong đó người thắng cuộc được tất cả, nơi mà người giỏi nhất được trả thù lao để biểu diễn cho tất cả mọi người (Pavarotti trên các đĩa nhạc, Michael Jordan trên sàn đấu bóng rổ) và người đứng thứ 2 hay thứ 3 không còn giá trị thị trường
Qui luật thứ 2 : Các doanh nghiệp thành công phải sẵn sàng tự hủy để tự cứu. Chúng phải sẵn sàng phá hủy cái cũ trong khi đang thành công nếu muốn xây dựng cái mới trước khi thành công. Nếu chúng không biết tự hủy, người khác cũng sẽ tiêu diệt chúng.
Qui luật thứ 3: Doanh nghiệp muốn phát triển nhanh với lợi nhuận cao phải biết lợi dụng sự mất cân đối về công nghệ, khai thác mất cân đối và phát triển, hay tạo mất cân đối về xã hội. Tất cả các hoạt động khác đều đem lại tăng trưởng chậm và tỷ lệ lợi nhuận thấp.
Giàu có thật sự là khả năng tạo ra của cải nhiều hơn với ít công sức hơn - tạo ra sản phẩm và dịch vụ mà không cần hy sinh cái gì đó có giá trị tương đương. Của cải thực tế một cá nhân hy sinh thời gian nhàn rỗi của mình để lao động và tạo ra một nguồn thu nhập sẽ không được đo bằng giá trị tư bản hóa của thu nhập thu được. Giá trị của thời gian hy sinh thêm phải được trừ đi từ của cải tạo ra để xác định xem có sự gia tăng của cải thực tế hay không.
Nếu thời gian nhàn nhã hy sinh có giá trị cao hơn sản phẩm mới tạo ra, cá nhân đó nghèo hơn mặc dù tạo ra của cải thị trường nhiều hơn. Sự giàu có thực tế không phải được tạo ra bằng cách lấy đi thời gian thực hiện hoạt động khác và tập trung cho các hoạt động tạo ra tiền. Sự giàu có thực tế chỉ được tạo ra bằng cách gia tăng năng suất lao động theo cách nói của các nhà kinh tế: cùng một thời gian lao động tạo ra nhiều thu nhập hơn (và do đó giàu hơn) trước đây.
Kim tự tháp giàu có bắt đầu với tổ chức xã hội. Tổ chức xã hội tạo ra những tảng đá xây dựng khổng lồ nằm dưới đáy của kim tự tháp. Hãy nghĩ đến bất kỳ nước nghèo nhất nào trên thế giới – Haiti, Bangladesh, Trung Phi, Anbania. Tất cả đều có chung đặc tính là hỗn loạn, vô trật tự và không có khả năng tự tổ chức về mặt xã hội. Các nước này không thể đảm bảo trật tự công cộng, không thể xây dựng hay tu sửa cơ sở hạ tầng, không thể tổ chức và bổ nhiệm giáo viên cho các trường làng, không thể cung ứng dịch vụ y tế.
Cho dù người ta đã có một lần làm giàu cũng không có nghĩa là khu vực đó sẽ luôn luôn giàu. Trong quá trình lịch sử, nhiều vùng địa lý đã trải qua thời kỳ từ nghèo đến giàu rồi nghèo rồi giàu trở lại. Quanh vùng Địa Trung Hải, thu nhập đầu người bắt đầu tăng tại Ai Cập năm nghìn năm trước và đạt mức cao nhất dưới đế chế La Mã khoảng năm 350 sau công nguyên. Sáu trăm năm sau, giữa thời kỳ Trung cổ, thu nhập đầu người giảm 90%. Một nghìn năm sau đó, thu nhập đầu người tăng trở lại. Vào giữa thời kỳ Trung cổ, châu Âu còn nghèo trong khi Trung Đông và Trung Quốc đã giàu. Trong thế kỷ thứ 19, tình hình lại đảo ngược. Bảo tồn một kim tự tháp giàu có cũng khó như xây dựng nó lúc ban đầu. Cả hai đều đòi hỏi một trình độ tổ chức xã hội cao.
Tổ chức xã hội là khởi điểm dưới đáy của kim tự tháp giàu có nhưng cũng là những tảng xây dựng cơ bản trong từng giai đoạn làm giàu. Tất cả các xã hội thành công thỉnh thoảng cũng gặp khó khăn mà các định chế cũ không thể giải quyết. Nếu muốn tiếp tục thành công, các xã hội này phải biết cải tiến. Nhưng hệ thống xã hội thường chống lại sự thay đổi và có khả năng chịu đựng to lớn thay vì giải quyết khó khăn. Con đường kháng cự yếu nhất – để cho các khó khăn trở thành ung nhọt – thường làm sụp đổ ngay cả những xã hội vĩ đại nhất. Hành động cần phải có để giải quyết khó khăn của bất kỳ xã hội nào ít khi mơ hồ. Vấn đề là làm thế nào một xã hội đang gặp khó khăn thối nát tự buộc mình hành động trước khi xảy ra khủng hoảng có thể làm sụp đổ cả hệ thống.
Argentina và Chile là những nước giàu vào năm 1880 và nghèo vào năm 1980. Hay tất cả đều có thể thành công. Người Ai Cập vẫn bảo tồn thành công kinh tế của họ kéo dài hàng nghìn năm.
Trong giai đoạn đầu huy động để phát triển này, năng suất tăng không đáng kể. Đầu vào (nhập lượng) tăng nhanh không kém đầu ra (xuất lượng). Năng suất chỉ tăng và chỉ nên xảy ra, sau khi lao động và vốn đã được tận dụng.Giai đoạn 2 của phát triển kinh tế đòi hỏi sao chép để rượt đuổi. Trong thế kỷ 19, Hoa Kỳ sao chép, tinh lọc và dần dần cải tiến dựa trên các nhà máy dệt, nhà máy thép và mỏ than của Anh. Tương tự như vậy trong thế kỷ 20, Nhật Bản sao chép, tinh lọc và cải tiến dựa trên công nghệ của Hoa Kỳ trong các ngành công nghiệp như hàng điện tử tiêu dùng. Trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay, kỹ năng của con người là trọng tâm. Hoa Kỳ đã vượt qua Anh với các công nghệ của Anh vì được đào tạo tốt hơn Anh.Với lực lượng lao động chuyên môn hơn, cùng một loại thiết bị tại Hoa Kỳ và tại Anh thì tại Hoa Kỳ sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hơn. Trong những năm 1980, Nhật Bản cũng vượt qua Hoa Kỳ trong nhiều ngành công nghiệp vì có lực lượng lao động chuyên môn hơn. Cùng một loại thiết bị được sử dụng tại Hoa Kỳ và tại Nhật Bản thì tại Nhật Bản sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hơn. Trong giai đoạn 2 của phát triển kinh tế, sự gia tăng năng suất bắt đầu xuất hiện.
Trong giai đoạn 3 của phát triển kinh tế, kiến thức tiên tiến là trọng tâm của thành công kinh tế. Những đột phá quan trọng về công nghệ làm cho năng suất tăng rất cao. Nhiều sản phẩm mới với khả năng chưa bao giờ mơ tới đã được phát minh.Qui trình mới cải tiến sản xuất các loại sản phẩm cũ cũng xuất hiện. Mục tiêu là phải thay đổi nhanh. Tăng trưởng năng suất gia tốc.
Công nghệ mới làm thay đổi tính chất của kim tự tháp giàu có khi chúng xuất hiện. Trong thời cổ đại, vấn đề là đất đai. Sự giàu có xuất phát từ nông nghiệp có thể sản xuất một lượng thừa lương thực đủ nuôi dân thành thị để họ tập trung vào việc xây dựng thành phố và đánh giặc – để chiếm thêm đất. Đây là điều mà các nền văn minh cổ đại – Ai Cập, La Mã, Trung Quốc, Mexico, Perou và Kampuchea cùng giống nhau.
Nhưng thế mạnh nhất của Hoa Kỳ không phải khả năng thành lập các doanh nghiệp mới mà là khả năng đóng cửa doanh nghiệp cũ. Thu gọn hoạt động là một hành động rất đau đớn nhưng có thể thực hiện tại Hoa Kỳ. Không có bất kỳ nơi nào trên thế giới, kể cả những nước kém phát triển, có thể sa thải công nhân dễ như tại Hoa Kỳ. Về mặt pháp lý, không cần phải thông báo trước. Không cần nêu lý do. Không có lương thôi việc.
Qui luật thứ 4 : Hiểu, nhận biết và chấp nhận những hạn chế của những thế yếu cố hữu là khởi điểm của sự khôn ngoan đối với tất cả mọi tổ chức. Bí mật thành công là tìm chỗ sử dụng tài nguyên của mình nơi mà các thế yếu đó không có tác dụng.
Nước Nga quan trọng là vì nếu nền kinh tế Nga hoàn toàn sụp đổ thì có nhiều người Nga muốn tìm lại vị trí cá nhân bằng cách bán đi vũ khí nguyên tử và cả hệ thống phóng đi cho người trả giá cao nhất. Đây làmột vấn đề chính trị lớn, không phải vấn đề kinh tế.
Trung Quốc có một ảnh hưởng quan trọng về hiệu ứng xoắn ốc toàn cầu vì Trung Quốc cạnh tranh với tất cả các nước trong thế giới thứ ba. Nếu Trung Quốc rơi vào khủng hoảng và phá giá tiền tệ, mọi nước trong thế giới thứ ba sẽ nối bước phá giá tiền tệ của họ. Do đó, cả thế giới đang theo dõi tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc để xem Trung Quốc có rơi vào tình trạng suy thoái không. Nhưng bất cứ tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc là gì đi nữa, cho dù số dương hay số âm, Trung Quốc không phải là nhân tố quyết định cuộc khủng hoảng châu Á có biến thành cuộc khủng hoảng toàn cầu hay không. Trung Quốc và thế giới thứ ba không phải là đầu tàu kéo nền kinh tế thế giới đi tới. Những đầu tàu kinh tế nằm trong thế giới thứ nhất.
Hệ thống xã hội phải dành cho tầng lớp doanh nhân một không gian để loại bỏ những cái cũ. Nhưng loại bỏ những cái cũ cũng dễ dẫn đến những xáo trộn. Xã hội chưa sẵn sàng đoạn tuyệt với quá khứ, do đó nó không chấp nhận cho tầng lớp doanh nhân xuất hiện và tiêu diệt quá khứ. Những xã hội thành công luôn sẵn sàng chấp nhận rủi ro để hủy diệt những cái họ cấu tạo ra để tiến đến những cái khác biệt hơn, lớn lao hơn và mạnh mẽ hơn trong tương lai. Cái mới không thích nghi với họ, nhưng họ chấp nhận cái mới và thích nghi với nó. Xã hội sẽ không có tầng lớp doanh nhân nếu không tự nguyện thay đổi

Qui luật thứ 6 : Không có một định chế nào thay thế được cho vai trò tác nhân biến đổi của doanh nhân. Doanh nhân chiến thắng trong cuộc chơi, trở nên giàu có và có quyền lực;nếu không có doanh nhân, kinh tế sẽ trở nên nghèo nàn và yếu kém. Cái cũ không ra đi thì cái mới không thể vào được.

Những xã hội mà dân chúng không được giáo dục và không có bản tính hiếu kỳ thì không tạo ra công nghệ mới. Những xã hội có lợi tức đầu người cao thường không phải là những xã hội phát minh nhiều nhất. Thụy Sĩ là một trường hợp. Sự phát minh cũng thay đổi theo thời gian. Hoa Kỳ được xem như một nước sao chép lớn trong thế kỷ thứ 19 và là nước phát minh lớn
trong hậu bán thế kỷ thứ 20. Nhật Bản là một nước sao chép tốt trong hậu bán thế kỷ thứ 20 nhưng chưa chứng tỏ rằng họ có thể trở thành một nhà phát minh lớn. Đức là một nhà phát minh lớn trong tiền bán thế kỷ thứ 20 nhưng không phải là nhà sáng chế trong nửa thế kỷ còn lại.

Có một lý do đơn giản giải thích tại sao các công ty lớn giàu có và những nước giàu đã chi tiêu phần lớn cho nghiên cứu phát triển. Ở đây cũng tương tự như thăm dò dầu hỏa. Nếu một công ty nhỏ đào hai giếng thăm dò thì đó là một việc vô cùng mạo hiểm. Chỉ cần hai giếng khô là đủ phá sản. Nếu một đại công ty đào 1.000 giếng thì căn cứ vào tính xác suất và số lượng lớn thì công ty có thể gặp phải một số giếng khô nhưng ở một nơi nào đó sẽ có dầu. Một vài giếng khô ban đầu trong quá trình này không thể làm họ phá sản được.
Một nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ có thể có đủ tiền cá cược hợp lý trong bất cứ lãnh vực nào mà họ cảm thấy có thể thúc đẩy sự tiến bộ của công nghệ. Trái lại nước nhỏ như Israel thì không. Ngân khoản nghiêncứu phát triển của Hoa Kỳ tăng gấp ba lần GDP của Israel. Israel phải tập trung tiền bạc và đặt cược vào một số lãnh vực rất giới hạn của công nghệ nếu phải chi tiêu đủ cho một ngành công nghệ nào có cơ may thành công. Nếu Israel chi tiêu những số tiền nhỏ vào nhiều lãnh vực sẽ kết thúc bằng việc lãng phí toàn bộ tài nguyên.
Hoa Kỳ vượt trội hơn châu Âu, thí dụ, không phải vì đổ nhiều tiền nghiên cứu phát triển vào công nghệ tin học, nhưng vì đầu tư vào phần cứng và phần mềm tin học. Tính theo tỷ lệ GDP thì Hoa Kỳ đầu tư gấp đôi Pháp và Đức trong năm 1996 Những điều đã biết thì không khác biệt nhiều lắm, nhưng những gì đang thực hiện thì quả là khác biệt.

Qui luật thứ 8: Hoàn vốn kinh tế từ việc gia tăng thêm đầu tư xã hội trong nghiên cứu cơ bản cũng rõ ràng như bất cứ điều gì trong kinh tế học.
Vì tỷ suất sinh lời trong khu vực tư có chiều hướng chắc chắn hơn, người ta chỉ tìm cách mở rộng các kiến thức đang có (khoan thêm một giếng đang khai thác) thay vì tìm kiếm sự đột phá quan trọng (khoan một giếng thăm dò để tìm một mỏ dầu lớn), nên các công ty tư nhân thường tập trung tiền bạc vào phần triển khai cuối cùng của tiến trình “Nghiên cứu phát triển”. Thời gian chờ đợi được rút ngắn, và trong thế giới kinh doanh thì tốc độ là tất cả.
Chủ nghĩa tư bản hình thành ở nước Anh với cuộc vận động giành đất để biến đất nông nghiệp thuộc sở hữu cộng đồng trong chế độ phong kiến thành đất sở hữu tư nhân. Tiến trình này đã diễn ra một cách hỗn độn, bất công và bạo lực - rất giống như tiến trình xác lập ai sở hữu cái gì tại nước Nga ngày nay. Trong cả hai trường hợp, những kẻ có thế lực mạnh chiếm giữ những tài sản mà trong quá khứ đã được dùng để hỗ trợ cho toàn thể cộng đồng. Những kẻ mạnh đã dựa vào quyền lực của cảnh sát để giúp họ bảo vệ quyền tư hữu mới của họ.
Chủ nghĩa tư bản không thể hoạt động được nếu không làm rõ được vấn đề ai sở hữu cái gì, cho dù tiến trình xác lập quyền tư hữu có rõ ràng và có hiệu lực đến đâu chăng nữa. Sở hữu tư nhân đối với các tư liệu sản xuất và khả năng chiếm hữu sản lượng từ những tài sản trên là trung tâm điểm của chủ nghĩa tư bản. Chính nguyên lý này là nguồn gốc tên gọi của chủ nghĩa tư bản. Quyền tư hữu hợp pháp phải được xác lập để tạo hành động cho chủ nghĩa tư bản.

Hãy xem xét vấn đề ô nhiễm không khí và nguồn nước. Cái mà mọi người đều sở hữu thì không ai sở hữu. Và kết quả là mọi người được khuyến khích tạo ra ô nhiễm - sử dụng miễn phí hệ thống chứa chất thải sẵn có và để cho những người cư ngụ cuối dòng nước hay dưới gió gánh chịu tất cả phí tổn. Không ai được khuyến khích giữ sạch môi trường không khí, sông hồ và đại dương. Nhưng trên đất thuộc sở hữu tư nhân thì thị trường ô nhiễm có tác động. Chủ sở hữu sẽ không để hàng xóm của mình đổ chất thải trên đất của họ. Có người sẽ mở dịch vụ kinhdoanh chứa chất thải. Vấn đề duy nhất phát sinh đối với những địa điểm kinh doanh chứa chất thải là những chủ nhân của chúng sẽ có khuynh hướng lạm dụng gây ô nhiễm cho không khí và nguồn nước ngầm khi họ đổ chất thải tại những khu vực thuộc sở hữu của họ. Chủ nghĩa tư bản không thể đối phó với vấn đề ô nhiễm vì nó không thể thiết lập quyền sở hữu để làm sạch không khí và nguồn nước.
Sự sáng tạo ra nguồn vốn nhân lực, về bản chất là một tiến trình xã hội, không phải cá nhân. Kỹ năng của con người chỉ phát triển nếu thế hệ trước truyền dạy cho thế hệ kế tiếp những gì họ đã học được để thế hệ thứ hai này có thể dành hết năng lực để phát triển những kiến thức hiện có và thu nhận những kỹ năng mới hơn là tái khám phá và học lại những gì thế hệ trước đã hiểu biết tường tận. Vấn đề tự học hỏi bị giới hạn một cách cố hữu. “Hãy chỉ cho tôi một người tự lập và tôi sẽ chỉ cho bạn một người không thành đạt”. Sự tiến bộ đòi hỏi một tiến trình xã hội có hệ thống để giáo dục thế hệ trẻ
Qui luật thứ 10 : Ẩn số lớn nhất đối với cá nhân trong nền kinh tế tri thức là làm thế nào có một nghề chuyên môn trong một hệ thống không có những nghề chuyên môn.
Qui luật thứ 11 : Chỉ những ai quan tâm đến tương lai mới tạo ra các công cụ. Cho dù họ có nói gì chăng nữa thì những ai tạo ra ít công cụ là người không quan tâm đến tương lai.